Chương 7 Chính biến, -mưu sát và tình yêu trong thời đại Phật Đà
Lúc Huyền Trang biết tin về biến động xảy ra ở vương cung thì đã là sáng sớm hôm sau. Ngài lo lắng cho Na Thuận bèn vội vàng vào cung, quốc vương Càn Đà La đón ngài vào. Huyền Trang hỏi cặn kẽ đầu đuôi mọi chuyện, nghe chuyện Na Thuận bị trọng thương, hết sức lo lắng, vội vàng đi thăm.
Na Thuận lúc này còn chưa tỉnh, toàn thân băng bó nằm trên thảm trải dưới đất. Huyền Trang vén áo hắn lên, thấy da dẻ hắn bị máu nhuộm đỏ, có hàng chục miệng vết thương lớn nhỏ, có thể thấy tình hình đêm qua căng thắng đến mức nào.
Huyền Trang không nói gì, lúc này quốc vương Càn Đà La mới nói với ngài về bí mật luân hồi của Liên Hoa Dạ, Huyền Trang vô cùng khiếp sợ, kinh ngạc nhìn về phía Liên Hoa Dạ. Liên Hoa Dạ chỉ im lặng ngồi bên cạnh Na Thuận, cô độc buồn bã, dường như chuyện bọn họ đàm luận không có quan hệ gì với mình.
“Sa Bà Mị đâu?”, Huyền Trang hỏi.
“Đêm qua ông ta nghe thấy bốn chữ Ưu Bát La Nguyệt liền vội vàng rời khỏi đó, nói phải đi tra điển tích, nghiệm chứng thật giả”, quốc vương Càn Đà La nói: “Đại ma cát và Y Tự Hầu đệ tam đi theo ông ta, một tấc cũng không rời. Thấy đã sắp đến lúc phân ra thắng bại, hai người đều rất căng thẳng. Nói thật với đại sư, bản vương cũng rất căng thẳng”.
Quốc vương Càn Đà La ảo não, vụ đánh cược này bất kể ai thắng ai bại, ông ta đều là con cừu non đợi bị làm thịt.
Lúc này Na Thuận khẽ rên rỉ, từ từ tỉnh lại. Huyền Trang mừng rõ, vội vàng đi tới khẽ gọi.
Na Thuận vừa mở mắt ra đã thấy Liên Hoa Dạ.
“Chúng ta đã chết sao?”, Na Thuận hỏi.
“Không, chúng ta còn sống”, Liên Hoa Dạ dịu dàng đáp.
Na Thuận nhìn quanh, lúc này mới phát hiện bọn họ đang ở trong vương cung. Na Thuận thở dài đắng chát: “Cuối cùng vẫn không thể cứu được nàng. Cũng được, không cần phải đi tìm nàng nữa. Ta tìm nàng thật sự vất vả. Điều ta lo sợ nhất là kiếp này cùng nàng như biển rộng sao trời, vĩnh viễn không gặp được nhau”.
Liên Hoa Dạ gượng cười: “Na Thuận, thực ra chúng ta không nên gặp nhau”.
“Vì sao?” Na Thuận hỏi.
“Bởi vì chỉ cần gặp nhau, chúng ta sẽ lại rơi vào vận mệnh đã được vòng xoáy luân hồi an bài, dù vùng vẫy thế nào cũng chỉ dẫn đến một kết cục đau khổ bi thương. Ngươi có muốn vậy không?”, Liên Hoa Dạ nói.
“Ta muốn!” Na Thuận nén cơn đau xuống, ngồi dậy, nắm tay nàng: “Liên Hoa Dạ, còn có chuyện gì bi thương hơn kiếp này không tìm được nàng hay sao? Chúng ta là đôi tình lữ được số mệnh sắp xếp, nhưng nàng không tìm được ta, ta không tìm được nàng, bị vô số núi sông ngăn cách, bị vô số quốc gia chủng tộc chia rẽ, bị biển người mãnh liệt nhấn chìm. Ta đi trên phố lớn người đông tấp nập lại như đi trên sa mạc cô độc thê lương, một mình ta đơn côi, tim gan không còn, linh hồn cũng mất. Liên Hoa Dạ, còn có vận mệnh nào bi thảm hơn một người từ khi sinh ra đã bị những tưởng niệm bám lấy, giống như cái xác không hồn hay sao? Liên Hoa Dạ, nắm tay ta, ôm eo ta, cưỡi trên chiến mã của ta, cùng ta đi khiêu chiến, bất kể kẻ thù trước mặt chúng ta là ai!”.
“Ta lớn hơn ngươi bảy tuổi”, Liên Hoa Dạ nói.
“Đều tại ta. Ta nên chết sớm hơn ba năm, sẽ có thể nhìn thấy nàng sớm hơn ba năm.”
“Ta là một kỹ nữ, không còn tấm thân sạch sẽ!”
“Như vậy cũng chẳng sao. Bọn chúng chỉ có thể mua được một đêm của nàng, còn ta sẽ có được nàng cả đời.”
“Vận mệnh của ta không lành, ngươi sẽ vì ta mà chết.”
“Vì nàng mà chết, xin hãy ban cho ta vinh dự này.”
“Ôi, Na Thuận, Na Thuận”, Liên Hoa Dạ si ngốc vuốt ve má hắn, vẻ mặt u sầu: “Mỗi một kiếp luân hồi của ta đều vì chờ đợi một người, người đó chính là ngươi sao?”.
“Là ta!”, Na Thuận nói như đinh đóng cột.
Rất nhiều năm sau, Na Thuận hồi tưởng lại, một khắc ngắn ngủi này không ngờ lại là thời gian tốt đẹp nhất, tuyệt vời nhất trong kiếp này của hắn. Liên Hoa Dạ ở bên cạnh bầu bạn với hắn, cả thế gian như được ánh nắng chiếu sáng, không có bi thương, không có dơ bẩn, không có ưu phiền, hết thảy đều thỏa mãn, không còn khát cầu nào khác.
Lúc này ngoài cửa vang lên tiếng bước chân lộn xộn, Y Tự Hầu đệ tam, Sa Bà Mị, đại ma cát cùng đi vào. Sau lưng bọn họ, đám binh sĩ còn dắt theo bảy tám con lạc đà, trên lưng chở một số rương, không biết đựng thứ gì.
Một nhóm người đi vào cung thất, mọi người mới phát hiện Sa Bà Mị hốc hác hơn rất nhiều, hai mắt sưng húp, đỏ ửng, vẻ mặt uể oải, nhưng ông ta lại tỏ ra phấn khởi. Sa Bà Mị nhìn thấy Huyền Trang cũng ở đây, đắc ý nói: “Đại Thừa Thiên, lão hòa thượng đã phá giải bí ẩn kiếp trước của Liên Hoa Dạ và Na Thuận!”.
“Vậy sao?”, Huyền Trang thản nhiên nói: “Bần tăng cũng muốn nghe một chút”.
Sa Bà Mị rất đắc ý, thở dài: “Đêm qua dùng một chút thủ đoạn bức bách Liên Hoa Dạ nói ra bốn chữ Ưu Bát La Nguyệt, sau đó lão hòa thượng tìm đọc mấy trăm bộ kinh thư, tìm kiếm thông tin về cuộc đời của Ưu Bát La Nguyệt. Trong kinh thư ghi lại, có mấy vị vương hậu chết oan chết uổng, trong đó cũng có mấy vị đã làm kỹ nữ. Một số không nói tỉ mỉ, nhưng có một người lại được sử sách ghi chép rất tường tận. Đó chính là kiếp thứ nhất của Liên Hoa Dạ, Ưu Bát La Nguyệt”.
Sa Bà Mị vẫy tay, đám tịnh nhân tháo rương từ trên lưng lạc đà xuống, lần lượt mở ra, bên trong là vô số kinh thư bối diệp, mỗi một bó đều dùng ván gỗ kẹp lại, dùng dây buộc bên ngoài.
Thời đại này, các loại điển tịch của khu vực văn hóa Thiên Trúc đều viết trên lá của một loại cây gọi là bối đa la (pattra), là kinh thư bối diệp nổi tiếng. Lá bối đa la dùng để viết kinh, được ngắt khi còn tươi, cắt thành phiến dài, sau đó được luộc cùng me và chanh, sau khi phơi khô sẽ ép phang lại rồi dùng dao khắc kinh văn lên đó. Sau đó còn phải bôi mực làm từ dầu và bồ hóng lên. Đến lúc lau mực trên mặt lá đi, mực sẽ bám vào vết khắc, chữ viết hiện lên rõ ràng. Cuối cùng mới đục lỗ, dùng dây đóng vào làm sách. Kinh thư bối diệp bình thường có thể bảo tồn mấy trăm năm không hỏng.
“Lấy các bộ Tăng A Hàm Kinh, Tạp A Hàm Kinh, Tứ Phân Luật, Ngũ Phân Luật ra đây”, Sa Bà Mị ra lệnh.
Đám tịnh nhân lấy những bộ kinh này tù trong rương ra, cởi dây buộc ngoài kẹp gỗ. Sa Bà Mị lật vài tờ, đưa cho Huyền Trang và đại ma cát truyền tay nhau xem.
“Theo trong kinh ghi lại, trong thời đại Phật Đà có một nữ nhân, vì tuổi già xuống sắc nên bị trượng phu ruồng bỏ, nên mới tự sát. Trước khi tự sát, bà tìm đến một vị thánh giả, đưa ra khẩn cầu: Mong kiếp sau được một thân đoan chính trang nghiêm, như hoa sen xanh sắc hương đủ đầy, kiều diễm động lòng người. Mong kiếp sau được một người si tình chân thành, như năm tháng ở bên, hơi thở liền kề, đến chết cũng chẳng rời”.
Sa Bà Mị nhìn Liên Hoa Dạ, cười lạnh: “Lúc đầu lão hòa thượng dùng đinh lục nhập đóng vào luân hồi, xem kiếp trước của nàng, nàng đã từng nói ra lời này”.
Sau khi chết, người này chuyển thế luân hồi, trở thành một nữ hài tử cấp Phệ Xá[93] ở thành Vương Xá. Cô nương này vừa sinh ra đã khác người, nước da mềm mịn như cánh sen mới nở, làn da trắng nõn tựa như hoa ưu bát la[94] xòe nở dưới hồ. Mắt đen láy như mã não trời sao. Trên người tỏa ra hương thơm kỳ lạ tự nhiên, ngào ngạt như hoa sen. Đây là một kỳ tích, toàn bộ người trong thành đều đến tán thưởng, mọi người đặt tên cho nàng ta là Ưu Bát La Nguyệt.
Nàng ấy lớn lên trong sự ca ngợi và bảo vệ của tất cả mọi người trong thành Vương Xá, lúc mười mấy tuổi, dung mạo tuyệt trần tựa như hoa sen xanh khoe sắc dưới ánh trăng, phong thái của nàng khiến tất cả sinh linh nghiêng ngả, giọng nói của nàng làm tất cả nam tử phải si mê, nơi nàng đi qua, bụi không dám bay lên, thứ ô uế không cách nào vẩy bẩn được, trước vẻ đẹp của tạo hóa ấy kẻ ác cũng chịu khuất phục, kẻ cướp cũng coi vàng ngọc cướp được chỉ như đất cát.
Cùng lúc nàng ra đời, nhà bên cũng sinh ra một nam hài tử. Kẻ này vừa sinh ra đã yêu nàng, cam nguyện ở bên cạnh nàng làm một người không ai biết đến, cùng nàng chơi đùa, cùng nàng lớn lên. Bởi vì hắn chính là người si tình chân thành trong ước nguyện kiếp trước của Ưu Bát La Nguyệt. Hắn luôn bên nàng như hình với bóng, quyến luyến không xa, đến chết không rời. Tên của hắn là Ưu Đàm.
°°°
Na Thuận lẩm bẩm nói: “Đó chính là kiếp trước của ta sao?”.
Liên Hoa Dạ rơi lệ, vuốt ve mặt hắn: “Là ngươi, ta vẫn biết. Khi ngươi mang năm trăm đồng tiền vàng đến tìm ta, ta biết ngươi đã đến rồi. Ngươi của kiếp này lại đến rồi”.
Sa Bà Mị tiếp tục kể: “Nhưng đối với Ưu Bát La Nguyệt, sự tồn tại của Ưu Đàm quá tự nhiên, hắn như hơi thở của nàng, không thể thiếu, nhưng cũng vì vậy mà không thấy được sự tồn tại của hắn, càng không thể nảy sinh tình cảm với hắn. Giống như thời gian, ta yêu nó nhưng lại sợ nó trôi đi, mang theo cả tuổi xuân, mang theo cả ký ức và sinh mệnh của mình, bình thường ta vẫn thoải mái phung phí, coi thường sự tồn tại của nó, nhưng chỉ khi đã mất đi, ta mới tiếc nuối, mới hối hận. Có người nào lại đi yêu hơi thở, yêu thời gian của mình đây? Ưu Bát La Nguyệt đi tìm người si tình yêu mình, cuối cùng lại bị thương nhân lớn nhất ở thành Vương Xá lừa gạt, thương nhân đó tặng nàng một tòa nhà xa hoa, rải đầy hoa tươi trên đường nàng đi, mua châu báu đắt tiền nhất từ các nơi trên thế giới để trang điểm cho nàng, dỗ ngọt nàng bằng những lời ngon tiếng ngọt mà bất cứ một nữ nhân nào cũng chưa từng được nghe. Thế là Ưu Bát La Nguyệt tin tưởng rằng thương nhân kia chính là tình yêu mình phải tìm trong kiếp này, nàng nhận lời cầu hôn của hắn. Thương nhân tổ chức hôn lễ long trọng nhất tại thành Vương Xá, tiêu tốn một nửa gia sản để cưới nàng, hôn lễ của họ khiến quốc vương cũng hâm mộ, khiến vương hậu cũng ghen ghét. Vậy thì Ưu Đàm trong cuộc đời nàng đang ở đâu? Ưu Đàm mắc bệnh nguy kịch, mất Ưu Bát La Nguyệt, hắn như mất đi thời gian, mất đi nguồn sống, hắn nằm trên giường bệnh, nghe mưa lạnh trút xuống dải hoa ưu đàm trên hiên nhà. Hắn biết, ngày mai, hoa ưu đàm sẽ trở nên tàn tạ, bị giẫm đạp thành bùn đất”.
Mọi người im lặng nghe, Sa Bà Mị kể chuyện rất cuốn hút, dường như mang theo ma lực, cuốn hút suy nghĩ của tất cả mọi người vào câu chuyện viễn cổ trong thời đại của Phật Đà một ngàn hai trăm năm trước. Khóe mắt Sa Bà Mị thậm chí cũng hơi ươn ướt, lòng ông ta tràn ngập thương xót và cảm động, Huyền Trang kinh ngạc liếc nhìn ông ta.
Sa Bà Mị hơi xấu hổ: “Đại Thừa Thiên có biết vì sao ta cảm động không?”.
Huyền Trang lắc đầu: “Không biết!”.
“Trong câu chuyện của hai người này, lão hòa thượng nhìn thấy số mệnh, nhìn thấy nhân duyên, nhìn thấy Phật pháp tồn tại khắp nơi, nhìn thấy những chuyển dời của nhân tính, nhìn thấy tình yêu đến chết không đổi, nhìn thấy tiếng kêu gọi gào khóc của chúng sinh”, Sa Bà Mị xúc động nói: “Cho nên, Đại Thừa Thiên, khi nhìn theo con đường luân hồi của họ, dường như có thể nhìn thấy chân nghĩa của Phật pháp được nghiệm chứng, lưu chuyển trong đó. Lão hòa thượng vì vậy mà cảm động”.
Na Thuận lạnh lùng nói: “Đừng có nhiều lời, ngươi tiếp tục kể đi”.
“Được”, Sa Bà Mị cười, tiếp tục nói: “Sau khi Ưu Bát La Nguyệt lấy thương nhân, sống cuộc sông cực kì xa xỉ. Thương nhân yêu nàng như báu vật, bởi vì nhờ vào danh tiếng của Ưu Bát La Nguyệt, thương nhân cũng trở thành khách quý của quốc vương và Bà La Môn các nơi, rất nhiều người đều muốn nhìn thấy thê tử của hắn, việc làm ăn của hắn càng ngày càng lớn. Nhưng sau khi cảm xúc tân hôn trôi qua, thương nhân nhanh chóng khôi phục bản tính, hắn xưa nay thích trêu hoa ghẹo nguyệt, ngay cả khi trong nhà có viên ngọc đẹp nhất trên đời này, hắn vẫn lưu luyến gạch vỡ, ngói vụn trong kỹ viện. Thậm chí thương nhân còn lén mua nhà ở mỗi một thành phố hắn làm ăn, bí mật nuôi tình nhân, thường xuyên tụ tập dâm loạn. Ưu Bát La Nguyệt biết chuyện này, vô cùng đau lòng. Nàng cho rằng tình yêu là thuần khiêt, không tì vết, không thể làm bẩn, hành vi của phu quân nàng đã sỉ nhục tình yêu của hai người. Nàng căm hận bỏ đi. Nàng phải đi tìm người thật sự yêu mình như năm tháng ở bên, hơi thở liền kề, đến chết cũng chẳng rời. Nhưng nàng không biết, không lâu sau khi nàng rời khỏi thành Vương Xá, Ưu Đàm đã khỏi bệnh, tìm đến nhà trượng phu nàng để kiếm nàng. Được biết những gì Ưu Bát La Nguyệt gặp phải, Ưu Đàm bi thương, lo lắng, bắt đầu đi tìm nàng khắp nơi”.
“Giống như ta đi khắp trăm quốc gia tìm nàng sao?”, Na Thuận nói nhỏ bên tai Liên Hoa Dạ.
Liên Hoa Dạ không nói gì, trong mắt ánh lên nỗi bi thương.
“Ưu Bát La Nguyệt gặp một quý tộc trên đường, quý tộc đó yêu thích sắc đẹp của nàng, cầu hôn nàng. Sau khi rời xa thương nhãn, Ưu Bát La Nguyệt gặp phải vô số khó khăn, mới bỉết sự gian khổ của cuộc sống. Đến bước đường cùng, nàng lại cưới quý tộc. Quý tộc này vốn tính thô bạo, thường xuyên uống rượu, hắn chỉ thích sắc đẹp của nàng. Sau một thời gian hưởng thụ sắc đẹp của Ưu Bát La Nguyệt, mỗi lần say rượu quý tộc lại bắt đầu hành hạ nàng, đánh đập nàng. Đặc biệt là lúc làm chuyện phòng the, việc đánh đập nàng khiến hắn đạt được khoái cảm tột độ. Người Ưu Bát La Nguyệt đấy rẫy vết thương, lại không dám nói ra vì nhục nhã. Cuối cùng nàng không thể chịu nối sự nhục nhã và hành hạ này, bèn lén rời khỏi phủ quý tộc, một lần nữa bước lên đường dài. Trong lòng nàng vẫn luôn tin tưởng kiếp này của mình sẽ có một người chân thành yêu nàng, như năm tháng ở bên, hơi thở liền kề, đến chết cũng chẳng rời. Cho dù tuyệt vọng với cuộc sống này, nàng cũng chưa bao giờ từng mất lòng tin vào tình yêu. Nhưng nàng không hề biết, nàng vừa mới rời khỏi phủ quý tộc, Ưu Đàm đã tìm tới nơi. Nhưng cuối cùng Ưu Đàm chỉ như cái bóng đi theo nàng, dường như có thể cảm nhận được nàng trong biển người mênh mông, theo đuổi nàng, lại không thể nào bắt kịp nàng.
Mấy năm sau, Ưu Đàm tìm khắp Ngũ Thiên Trúc, cuối cùng trong một lần tình cờ lại tìm được Ưu Bát La Nguyệt. Nhưng lúc này Ưu Bát La Nguyệt đã lấy người khác. Nàng gả cho một viên quan. Ưu Đàm nói với Ưu Bát La Nguyệt về mối tình si của mình, hắn kể rằng mình tương tư nàng từ nhỏ, kể rằng mình tìm nàng đã nhiều năm, kể về ngọn lửa tình yêu ẩn chứa trong lòng mình. Điêu này khiến Ưu Bát La Nguyệt cảm thấy rất nực cười, bởi vì viên quan rất tốt với nàng, mặc dù không cuồng nhiệt như núi lửa, ào ạt như biển động, nhưng cuộc sống an nhàn này khiến Ưu Bát La Nguyệt đã trải qua nỗi khổ[95]phiêu bạt cảm thấy vô cùng thỏa mãn. Nàng cho rằng đây có lẽ chính là người mình muốn tìm, tình yêu mình muốn có, cuộc sống mình từng ước vọng. Nàng cho rằng người bạn chơi thân từ nhỏ, quần áo sờn rách tả tơi, đế giày thủng một lỗ lớn này chỉ vì đến bước đường cùng nên mới câu xin nàng. Ưu Đàm vô cùng đau lòng, nhưng cuối cùng hắn đã tìm được Ưu Bát La Nguyệt, không muốn để mất nàng nữa, hắn rất sợ hành trình tìm kiếm này, cho dù không thể có được nàng, chỉ cần được ở bên nàng là đủ. Thế là Ưu Đàm tự bán mình vào phủ của viên quan đó làm nô lệ”.
Sa Bà Mị nói đến đây, Na Thuận đột nhiên khóc nức nở: “Liên Hoa Dạ, đó chính là ta! Đó chính là ta!”.
Liên Hoa Dạ lẩm bẩm nói: “Ta biết đó là ngươi, nhưng ta không thể trốn tránh được vận mệnh”.
“Ta căm ghét vận mệnh! Vì sao khiến ta mỗi một kiếp đều đau khổ như thế? Nàng luôn ở ngay bên cạnh ta, tại sao lại không thế đến với nhau?” Na Thuận nghiến răng nghiến lợi: “Kiếp này ta không muốn như vậy nữa!”.
“Lão hòa thượng còn phải kể tiếp nữa không đây?”, Sa Bà Mị bất mãn vì bị Na Thuận ngắt lời.
“Nói!”, Na Thuận giận dữ quát.
“Ưu Đàm ở bên Ưu Bát La Nguyệt trong phủ quan ba năm. Nhiêu năm về sau, Ưu Đàm từng nói, ba năm này là thời gian hạnh phúc nhất của hắn trong kiếp này. Mắt hắn có thể nhìn thấy bóng dáng Ưu Bát La Nguyệt, tai hắn có thể nghe thấy giọng nói của nàng, trong hơi thở có hương thơm từ thân thể nàng tỏa ra, trong giấc mơ có nỗi nhớ nhưng về nàng. Nhưng sau ba năm, đường làm quan của viên quan này gặp trắc trở, bị cấp trên chán ghét, định cách chức hắn. Vì đường thăng quan tiến chức của mình, viên quan sẵn sàng từ bỏ tất cả, nhưng lại không có thứ gì có thể lay động quan trên. Lúc này, hắn nhớ tới Ưu Bát La Nguyệt, hắn liên hiến vợ mình cho quan trên. Theo sự bố trí của viên quan này, nhân lúc Ưu Bát La Nguyệt say rượu, gã quan trên đã cưỡng bức nàng. Viên quan được toại nguyện, Ưu Bát La Nguyệt lại mất hết niềm tin vào cuộc đời này. Tới lúc Ưu Đàm biết chuyện này, thì trong một đêm mưa, Ưu Bát La Nguyệt đã rời khỏi phủ quan, trở lại thành Vương Xá, làm kỹ nữ tại một kỹ viện. Mặc dù nàng chưa từng treo biển, lại trở thành đệ nhất danh kỹ trong thành Vương Xá. sắc đẹp của nàng, sự quyến rũ của nàng, sự dâm đãng của nàng, sự mê hoặc của nàng gần như khiến toàn bộ nam nhân trong thành điên đảo đến phát cuồng, tất cả những người có tiền có thế đều lũ lượt tìm đến, thậm chí ở trọ trong thành Vương Xá chờ đến lượt được thân mật với nàng. Ưu Bát La Nguyệt thân giá rất cao, nam nhân muốn qua đêm với nàng, một đêm phải trả năm trăm đồng tiền vàng…”
Vừa nói năm trăm đồng tiền vàng, tất cả mọi người đều lộ ra dị sắc, nhìn Na Thuận, ngay cả Sa Bà Mị cũng không nói nữa, nhìn hắn rất có thâm ý. Na Thuận không nói gì, trên nét mặt lại có vẻ mệt mỏi và đau khổ.
“Ưu Đàm tìm được Ưu Bát La Nguyệt, muôn cứu nàng ra khỏi bể khố. Ưu Bát La Nguyệt lại coi hắn như khách làng chơi, phải thu năm trăm vàng, hứa hẹn chỉ cần có năm trăm vàng, nàng có thể qua đêm với hắn. Ưu Đàm nói với nàng mình không muốn có nàng một đêm mà muốn có nàng cả đời. Ưu Bát La Nguyệt nói với hắn, chỉ cần hắn có thể kiếm được năm trăm vàng, mình sẽ đi cùng với hắn. Ưu Đàm lặng lẽ rời đi, lần này đi một mạch hai mươi năm. Hắn khổ cực kiếm tiền, ra biển rộng mò trai, đến Con đường Tơ lụa buôn lụa, được quốc vương Ba Tư thuê ra chiến trường, đến hẻm núi Đại Tuyết đãi vàng, trọn hai mươi năm, lúc hắn kiếm được năm trăm vàng thì đã trở thành một nam tử tuổi trung niên với mái tóc hoa râm. Hắn trở lại thành Vương Xá, tới tìm Ưu Bát La Nguyệt của hắn. Nhưng lúc này Ưu Bát La Nguyệt đã già, xuống sắc, ít khách ghé thăm, thế sự vô thường khiến nàng đột nhiên giác ngộ về cuộc đời. Lúc này nàng gặp được một tăng nhân, tên gọi Đề Bà Đạt Đa[96].”
“Đề Bà Đạt Đa là ai?”, Na Thuận thắc mắc. Mấy năm nay trí nhớ của hòa thượng kiếp trước đã ngày càng mờ nhạt.
“Đề Bà Đạt Đa là ai?”, Y Tự Hầu đệ tam hỏi đại ma cát.
Đại ma cát lắc đầu, tỏ ý không biết.
“Đề Bà Đạt Đa…”, Huyền Trang hít vào một hơi thật sâu, nhắc tới cái tên này khiến ngài có cảm giác chấn động trong lòng: “Đề Bà Đạt Đa là đệ tử của Phật Đà, cũng là em họ của Phật Đà”.
“Không sai!” Sa Bà Mị nói: “Ưu Bát La Nguyệt đã gặp người này!”.
“Ưu Bát La Nguyệt tuổi ngoài bốn mươi, phong tư dần dần nhai nhạt, giống như hoa sen héo tàn. Hôm đó nàng đang tận tình múa hát trên lầu các trong kỹ viện, Đề Bà Đạt Đa cầm bát khất thực trên lề phố. Kỹ nữ và khách làng chơi xung quanh đều biết Đề Bà Đạt Đa Phật pháp uyên thâm, bèn lấy tiền vàng ra xúi giục Ưu Bát La Nguyệt quyến rũ ông ta.
Ưu Bát La Nguyệt tự phụ xinh đẹp, đi tới trước mặt Đề Bà Đạt Đa, vuốt tóc tạo dáng dụ dỗ ông ta.
Đề Bà Đạt Đa nói: “Nữ nhân đáng thương, thân thể ngươi đã cực kì nhơ nhớp, bây giờ vì tiền tài lại đến dụ dỗ ta. Ngươi từ nhỏ mọc lên từ nước bùn mà không tanh mùi bùn, giờ đây lại chỉ có thể một lần nữa chìm xuống nước bùn, cả người hôi thối”.Ưu Bát La Nguyệt dường như thật sự ngửi thấy hương thơm trên người mình bắt đầu phát ra mùi hôi, nàng nhớ lại đủ loại cựckhổ mình đã nếm trải trong kiếp này, mới bật khóc nói: “Ta nghiệp chướng nặng nề, cũng từng muốn hướng thiện, nhưng sự ràng buộc của thế gian làm ta không thoát ra được”.
Đề Bà Đạt Đa nói: “Nếu ngươi có lòng hướng thiện, bất kể tội nghiệt quá khứ sâu nặng thế nào, ta đều có thể cứu ngươi”.
Được Đề Bà Đạt Đa độ hóa, Ưu Bát La Nguyệt lập tức tỉnh ngộ, bắt đầu tu hành. Nàng định tu quán bất tịnh[97], sau khi gột sạch dơ bẩn sẽ đến tham bái Phật Đà, xuất gia làm ni.
Nàng rời khỏi kỹ viện, ra ngoài thành dựng nhà tranh, ngày ngày tu hành, vô cùng thành kính. Dâm dục là căn bản của tham lam, quán bất tịnh là pháp môn phù hợp. Sau khi trải qua một năm tu hành, cuối cùng nàng cũng gột được dơ bẩn của mình, từ đó một Ưu Bát La Nguyệt hoàn toàn mới xuất hiện. Nàng chuẩn bị đi đến núi Linh Thứu, theo Phật Đà xuất gia.
Mà đúng lúc này, sau hai mươi năm khổ cực, Ưu Đàm kiếm đủ năm trăm đồng tiền vàng, đến tìm nàng.
Giờ đây Ưu Bát La Nguyệt đã hoàn toàn cắt đứt chuyện cũ trước kia, một lòng tu hành. Nàng nói với Ưu Đàm, có năm trăm đồng tiền vàng sẽ đi với hắn là lời nói đùa. Kiếp này nàng đã không còn dính đến chuyện nam nữ, từ nay sẽ cạo tóc xuất gia, một lòng tu hành. Ưu Đàm hoàn toàn tuyệt vọng, hắn phải chịu số cơ cực, chờ đợi nàng cả đời, vì một câu hứa hẹn mà vất vả hai mươi năm để kiếm được năm trăm vàng. Nhưng nàng lại vẫn rời hắn mà đi, vĩnh viễn rời hắn mà đi.
Ưu Đàm tuyệt vọng dẫn đến điên cuồng, hắn cưỡng bức nàng, dù thế nào, hắn cũng nhất định phải có được nàng. Nàng là thời gian của hắn, nàng là nguồn sống của hắn, Ưu Đàm quyết không thể cho phép nàng bỏ mình mà đi.
Ưu Bát La Nguyệt đã tu hành ra thân hoa sen sạch sẽ lại bị hắn cường bạo, chuỗi tu hành quán bất tịnh bị phá mất, hoàn toàn đánh mất tư cách đắc đạo quả vị La Hán. Nàng lại biến thành thân dơ bẩn, hi vọng bị dập tắt, giống như một vị tiên tử sắp đạp mây trắng bay đi lại bị người khác kéo xuống dưới bùn.
Sau khi cưỡng bức nàng, Ưu Đàm tỉnh táo lại, mới phát hiện rốt cuộc mình đã làm chuyện sai lầm đến nhường nào. Hắn đã làm hại nàng, hủy hoại nàng, người hắn từng coi như báu vật, che chở trong tay, sẵn sàng trả bất cứ giá nào vì nàng. Ưu Đàm vừa hối hận vừa tuyệt vọng, liền tự sát. Trước khi chết, hắn thề nguyện: Mong đời đời kiếp kiếp bảo vệ Ưu Bát La Nguyệt, như năm tháng ở bên, hơi thở liền kề, đến chết cũng chẳng rời.
Ưu Bát La Nguyệt nghe thấy lời ước nguyện này, vô cùng kinh ngạc. Cuối cùng nàng mới hiểu, thì ra trong thế gian này, giữa biển người, người yêu nàng si tình có thể đi cùng nàng suốt đời suốt kiếp vẫn luôn ở sát bên nàng”.
Na Thuận và Liên Hoa Dạ ngơ ngác nhìn nhau, tay nắm chặt tay, mắt đẫm lệ.
Na Thuận nói: “Thì ra kiếp trước của ta là như vậy, vĩnh viễn đều tồn tại vì nàng. Như vậy rất tốt, Liên Hoa Dạ, như vậy thật sự rất tốt. Liên Hoa Dạ, nếu kiếp này ta chết, trong luân hồi tiếp theo, xin nàng đừng tránh ta”.
Liên Hoa Dạ nghẹn ngào lắc đầu, cũng không biết là đồng ý hay từ chối.
Mọi người nghe cũng thổn thức không thôi. Y Tự Hầu đệ tam than thở: “Lần đầu tiên cảm thấy nỗi đau mất nước cũng không là gì cả. Kiếp này bi thương thế nào, sau khi chết vạn sự giai không, quy về hư ảo. Kiếp tiếp theo có lẽ có thể làm một người bình thường, vô lo vô nghĩ sống hết cuộc đời. Vậy tiếp theo thế nào?”.
“Lão hòa thượng mệt rồi, kế tiếp mời Đại Thừa Thiên kể giúp!” Sa Bà Mị nói: “Chuyện sau đó Đại Thừa Thiên còn biết rõ hơn lão hòa thượng”.
Huyền Trang yên lặng một lát, đoạn tiếp theo quả thật rất quen thuộc với ngài, chỉ có điều ngài chưa từng nghĩ rằng Ưu Bát La Nguyệt chính là kiếp trước của Liên Hoa Dạ.
Huyền Trang gật đầu, bắt đầu kể chuyện tiếp theo.
°°°
Sau khi Ưu Đàm chết, Ưu Bát La Nguyệt tuyệt vọng, Đề Bà Đạt Đa lặng lẽ đi tới, nói với nàng có nghiệp có báo, kiếp này nàng nhất định không thể tìm được người si tình chân thành đó, chỉ có thể tích lũy nhiều phúc báo, chờ mong vào kiếp sau. Ưu Bát La Nguyệt hỏi ông ta nên tích phúc báo thế nào, Đề Bà Đạt Đa đề nghị nàng vào vương cung Ma Yết Đà[98] (Magadha), mê hoặc vương tử A Xà Thế[99] (Ajatashatru). Đề Bà Đạt Đa tiên đoán, nàng sẽ trở thành vương hậu của vương tử A Xà Thế. Nàng sẽ khuyên bảo A Xà Thế hướng về Phật pháp, tạo được thiện nghiệp, kiếp sau có thể tìm được người si tình chân thành. Ưu Bát La Nguyệt vô cùng mừng rỡ, đồng ý đi đến vương cung.
Lúc này Phật Đà đã già, Đề Bà Đạt Đa sinh ra tranh chấp nghiêm trọng với Phật Đà vì vấn đề người thừa kế. Đề Bà Đạt Đa hừng hực dã tâm, một lòng muốn lãnh đạo tăng đoàn, còn Phật Đà về cơ bản lại không có ý định truyền y bát cho ông ta. Đề Bà Đạt Đa ngang nhiên dẫn năm trăm tì kheo phản giáo, tách ra riêng, tự xưng Tân Phật. Ông ta giao hảo với vương tử A Xà Thế được A Xà Thế cung phụng rất nhiều. Nhưng quốc vương Tần Bà Sa La[100] (Bimbisãra), thân sinh của vương tử A Xà Thế là hộ pháp vương trung thành của Phật Đà. Để khống chế vương tử A Xà Thế, Đề Bà Đạt Đa đưa Ưu Bát La Nguyệt vào vương cung. Không có gì bất ngờ, sắc đẹp của Ưu Bát La Nguyệt đã chinh phục được vương tử A Xà Thế hắn lập tức cưới nàng làm vương phi của mình.
Ưu Bát La Nguyệt thường xuyên khen ngợi Phật pháp và sự từ bi của Đề Bà Đạt Đa trước mặt vương tử A Xà Thế, vương tử A Xà Thế càng ngoan ngoãn nghe lời Đề Bà Đạt Đa. Đề Bà Đạt Đa giống như ma quỷ, dần dần mê hoặc vương tử A Xà Thế, dẫn dắt hắn rơi xuống vực sâu muôn trượng. Ông ta khuyên vương tử giết phụ thân, cướp lấy vương vị, thống nhất Thiên Trúc, trở thành tân vương, còn chính mình thì trở thành Tân Phật. Vương tử A Xà Thế bị ông ta mê hoặc, quả nhiên đã phát động chính biến, giam cầm phụ thân mình là Tân Bà Sa La trong phòng kín, không cho phép người khác đưa đồ ăn vào, cố ý để ông ta chết đói. Mẫu thân hắn là vương hậu Vi Đe Hi (Vaỉdehi) mới lấy cớ vào thăm ngục, phết bơ, mật ong và bột mì chín lên người, lại cho đầy nước nho vào chuỗi ngọc rỗng của mình để đem cho Tân Bà Sa La ăn uống.
Rất lâu sau vương tử A Xà Thế hay tin phụ thân còn chưa chết đói mới điều tra phát hiện kế sách của vương hậu Vi Đề Hỉ. Hắn giận tím mặt, định giết mẫu thân, nhưng có đại thần can ngăn nên chưa thể thành công. Thế là hắn giam cầm vương hậu Vi Đe Hi trong thâm cung.
Cuối cùng Tân Bà Sa La cũng bị chết đói, vương tử A Xà Thế lên ngôi xưng vương! Hắn mời Đề Bà Đạt Đa làm lễ quán đỉnh cho mình, tôn Đề Bà Đạt Đa làm quốc sư Ma Yết Đà, đồng thời sắc phong Ưu Bát La Nguyệt làm vương hậu.
Ưu Bát La Nguyệt không ngờ A Xà Thế luôn luôn hiền lành, nho nhã lại trở nên tà ác như thế nàng tận tình khuyên bảo can ngãn, A Xà Thế lại bị cuốn theo ước vọng mãnh liệt muốn thống nhất Thiên Trúc. Hắn phát động chiến tranh, tiêu diệt bốn đại quốc khi ấy là Bạt Kì[101] (Vajji), Kiều Tát La[102] (Kosala), Ca Thi (Kashi), Ương Già[103] (Anga), thế lực tăng mạnh, xưng bá Thiên Trúc. Còn Đề Bà Đạt Đa cũng mượn thế mở rộng của Ma Yết Đà, chiêu mộ tăng lữ, mở rộng tăng đoàn, lúc bấy giờ uy danh lừng lẫy. Cùng với quá trình bành trướng thế lực, mâu thuẫn giữa Đề Bà Đạt Đa và Phật Đà càng trở nên gay gắt. Phật Đà dùng sự từ bi và pháp trung đạo[104] của mình thu phục các tăng lữ của phái Đề Bà Đạt Đa thành kính quy y.
Đề Bà Đạt Đa hận thấu xương, hắn đã động sát tâm trong lòng. Quốc vương A Xà Thế có nuôi một con voi lớn, tên là Na La Chích Lê, cực kỳ hung ác, to khỏe bạo ngược, sừng sững như ngọn núi. Đề Bà Đạt Đa mượn con voi tới, sai người cho nó uống rượu, muốn thừa dịp Phật Đà dẫn đệ tử vào thành khất thực sẽ thả con voi say ra cho nó đạp chết Phật Đà.
Phật Đà đi vào thành Vương Xá, Đề Bà Đạt Đa hạ lệnh thả voi say ra. Con voi chạy như điên trên đường phố hẹp, tất cả mọi chướng ngại trên đường đêu bị giẫm nát, có lúc còn chạy húc sập cả nhà cửa. Người qua đường hốt hoảng tránh né, Phật Đà lại đi thẳng về phía con voi. Con voi say chạy đến trước mặt Phật Đà, Phật Đà chỉ mỉm cười nhìn nó, liên tục thở dài.
Con voi say đột nhiên tỉnh táo lại, như được độ hóa, nó quỳ bốn chân xuống đất trước mặt Phật Đà, dùng vòi vuốt hai chân Phật Đà. Phật Đà đưa tay phải ra xoa đau voi, nói: “Hận vì sinh ở cõi địa ngục, lại làm thân rắn rết, vì thế nên xá hận, càng chớ trách thân này”.
Con voi lớn liên tục gật đầu, đi ba vòng xung quanh Phật Đà, sau đó yên lặng đi xa.
Mưu hại Phật Đà không thành, ngược lại còn giúp Phật Đà có nhiêu tín đồ hơn, Đề Bà Đạt Đa cực kỳ tức giận. Ông ta đến tìm A Xà Thế, mượn đội cung tên của quân đội.
Hôm đó Phật Đà dẫn đệ tử đi khất thực ngoài phố như thường lệ, các tín đồ trên đường nhìn thấy Phật Đà, hết sức vui sướng, bố thí toàn mật ong và sữa đặc. Phật Đà lần lượt tạ ơn, giảng một đoạn kinh cho tín đồ, mọi người đều vui mừng.
Lúc này trên phố đột nhiên có sát khí, mọi người quay lại nhìn, hàng loạt cung thủ đặt tên giương cung bao vây bọn họ. Mọi người cực kỳ kinh hãi, Phật Đà lại ung dung bình thản, bước lên nhìn cung thủ trước mặt.
“Đề Bà đâu? Mời hắn đi ra gặp ta.”
Đề Bà Đạt Đa đứng sau đội cung tiễn thủ, nghe thấy Phật Đà gọi lại không dám lộ diện, quát to một tỉếng: “Bắn!”.
Phật Đà lẳng lặng nhìn những cung thủ này, không nóỉ gì, vẻ mặt từ bi, trong ánh mắt dường như ẩn chứa sự thương xót dạt dào. Giờ khắc này, trên người ngài không có Phật quang phổ chiếu, càng không hiển lộ thân mình bằng vàng cao một trượng sáu thước, ngài chỉ đứng trước đầu mũi tên với thân hình phàm nhân, nhưng trong mắt những cung thủ đó, dường như họ đang đối mặt với toàn bộ sự từ bi, sinh mệnh, hạnh phúc và huy hoàng của thế giới sa bà.
Cánh cung trong tay căng lên như trăng khuyết chỉ cần một ý niệm, dây cung sẽ kéo thẳng về, mũi tên sẽ bắn ra, đầu mũi tên sắc nhọn sẽ đâm xuyên qua thân thể người vĩ đại nhất thế giới sa bà này.
Nhưng lại không có ai trong số đó muốn buông ngón tay ra, trong lòng tất cả mọi người đều nảy sinh ý nghĩ: Bọn họ đang giết Phật! Bọn họ sắp cắt đứt hi vọng của cả thế giới sa bà! Bọn họ đang khiến thế giới này trầm luân trong biển mê tối tăm như địa ngục A Tỳ!
“Bắn đi!”, Đề Bà Đạt Đa hạ lệnh lần nữa.
Năm trăm cung thủ lại đồng loạt đặt cung tên xuống, quỳ rạp dưới chân Phật Đà. Phía sau đám người, còn trơ lại mình Đề Bà Đạt Đa, giống như đá ngâm lộ ra sau khi thủy triều rút xuống, đang đứng trên đường với vẻ mặt kính hoàng, cùng Phật Đà nhìn nhau, ở giữa là các cung thủ đang quỳ xuống.
“Đề Bà”, Phật Đà nói điềm đạm: “Nhất hoa nhất thế giới, nhất mộc nhất phù sinh, nhất thảo nhất thiên đường, nhất diệp nhất như lai, nhất sa nhất cực lạc, nhất phương nhất tịnh thố, nhất tiếu nhất trân duyên, nhất niệm nhất thanh tĩnh. (Tạm dịch nghĩa: mỗi bông hoa là một thế giới, mỗi thân cây là một kiếp phù sinh, mỗi ngọn cỏ là một thiên đường, mỗi phiến lá là một đức Như Lai, mỗi hạt cát là một miền Cực Lạc, mỗi phương là một cõi Niết bàn, mỗi nụ cười là một trần duyên, mỗi niệm là một sự thanh tịnh). Đề Bà, không nhiễm bụi trần không chấp ngã, không sinh vọng tưởng không cần dựa dẫm. Thể tính không đong đếm được, thấy rõ được oai nghiêm ắt sẽ tự sinh lòng tán thán. Đề Bà, đèn trong gió lắc lư không chừng, giọt nước đọng vốn là hư thể, những gì ngươi cố chấp, đều là vật không chân thực”.
“Đường ta phải đi không giống của ngươi”, Đề Bà Đạt Đa đáp: “Ngươi theo trung đạo của ngươi, chớ có tranh giành với ta. Ngươi đã nói, trên trời dưới đất, duy ngã độc tôn”.
Đề Bà Đạt Đa kiêu ngạo cúi chào, sau đó xoay người rời đi. Phật Đà đưa mắt nhìn bóng dáng ông ta biến mất nơi cuối phố, không nói gì thêm.
°°°
Trong lúc Huyền Trang kể lại, ngài thậm chí còn có thể cảm nhận được sát tâm bùng cháy hừng hực trong lòng Đề Bà Đạt Đa. Huyền Trang cảm nhận được nghiệp hỏa vô danh này, ngài biết đó là một sự kiêu ngạo, đó là một loại chấp niệm, đó là một sự bất mãn đối với sinh mệnh của mình. Ngài cảm thấy dường như Đề Bà Đạt Đa đang mượn Phật Đà để tu hành. Nhưng con đường này lại lệch lạc đến đáng sợ, Huyền Trang không biết ông ta phải đi tới đâu.
Đề Bà Đạt Đa trở lại vương cung Ma Yết Đà. A Xà Thế đã biết tin ám sát thất bại, hết sức lo lắng.
“Tôn giả, Phật Đà nhiều lần bị giết không chết, chẳng lẽ thật sự không thể làm tổn thương?” A Xà Thế nói: “Nếu như vậy, vì sao chúng ta lại đối nghịch với Phật Đà?’’.
“Phật Đà không phải là không thể bị tổn thương’’, Đề Bà Đạt Đa trả lời: “Thí dụ như thân thể của Phật Đà vẫn bị suy kiệt theo năm tháng, sau đó chết già. Như vậy, nếu đã có thể bị thời gian giết dần mòn, vì sao không thể bị phàm nhân giết chết?”.
“Vậy thì làm thế nào mới có thể giết được Phật Đà?”, A Xà Thế hỏi.
“Chúng sinh trên đời này không thể giết hắn. Chỉ cần nhìn thấy pháp thân của hắn thì không có bất cứ sinh linh nào có thể xuống tay giết hắn được”, Đề Bà Đạt Đa nói: “Cho nên ta muốn mượn ngài một thứ, thứ này nhất định có thể giết được Phật Đà”.
“Thứ gì?”, A Xà Thế hỏi.
“Xe bắn đá!” Đề Bà Đạt Đa nói: “Xe bắn đá hạng nặng cần năm mươi người sử dụng, khoảng cách ném có thể đạt tới ba trăm bộ. Ta muốn mượn bệ hạ năm trăm người, sử dụng mười xe bắn đá, đặt trên sườn núi Linh Thứu[105], lắp đạn đá nặng trăm cân, bắn phá núi Linh Thứu!”.
A Xà Thế hít sâu một hơi: “Vì sao phải sử dụng trận thế lớn như vậy?”.
“Không thể để chúng sinh trên đời này nhìn thấy Phật Đà. Vì chỉ cần nhìn thấy hắn thì sẽ không có ác niệm nào có thể đạt tới độ muốn giết Phật Đà, bọn chúng tất sẽ bị Phật Đà cảm hóa. Cho nên ta phải thừa dịp Phật Đà giảng pháp ở núi Linh Thứu, bắn chết hắn từ cự li xa. Như vậy, những người sử dụng xe bắn đá sẽ hoàn toàn không biết việc bọn chúng phải làm, phải giết người nào. Như thế mới có khả năng thành công”, Đề Bà Đạt Đa nói.
A Xà Thế rất hối hận và lo sợ, lạnh lùng nói: “Tôn giả, bản vương nghe theo lời mê hoặc của ngài, đầu tiên là giết phụ vương, sau đó giam cầm mẫu hậu, tiếp nữa lại phải cố gắng giết chết Phật Đà bất tử! Rốt cuộc ngài muốn dẫn bản vương đi lên con đường nào?”.
“Con đường này bất kể có bao nhiêu gian nguy, ta vẫn luôn đi cùng ngài, quốc vương của ta!”, Đề Bà Đạt Đa trả lời.
A Xà Thế cười thảm: “Đúng vậy, ngài và ta đều không thể quay đầu lại được nữa! Xe bắn đá ta có thể cho ngài mượn, nhưng ngài nhất định phải nhớ, đây là lần cuối cùng! Nếu Phật Đà không chết, vậy ngài sẽ phải chết”.
A Xà Thế cho điều năm trăm binh lính, giao toàn bộ mười chiếc xe bắn đá hạng nặng trong cả vương quốc cho Đề Bà Đạt Đa.
Tuy nhiên trong lúc Đề Bà Đạt Đa và A Xà Thế bí mật bàn mưu trong vương cung, Ưu Bát La Nguyệt lén nghe được, cuối cùng nàng cũng hiểu ra rằng mình đã bị Đề Bà Đạt Đa lợi dụng. Thứ mà nàng tạo ra không phải thiện nghiệp mà là ác nghiệp, vì nàng mà rất có thể Phật Đà sẽ bị ám hại!
Ưu Bát La Nguyệt không do dự, nàng vội vàng ra ngoài vương cung, định chạy tới núi Linh Thứu, báo cho Phật Đà biết âm mưu này, khuyên Phật Đà tạm tránh đi. Nhưng lúc Ưu Bát La Nguyệt đi ra ngoài vương cung, Đề Bà Đạt Đa đã đuổi theo bắt được nàng.
Ưu Bát La Nguyệt nói thê lương: “Nghiệp tu quán bất tịnh của ta bị phá, xả thân tiến vào vương cung để khuyên bảo A Xà Thế làm nhiều việc thiện, tạo thiện nghiệp cho chính mình, vì muôn khẩn cầu kiếp sau có thể gặp được người chân thành si tình đó, như năm tháng ở bên, hơi thở liền kề, đến chết cũng chẳng rời, đâu phải vì tư dục của bản thân ngươi”.
Đề Bà Đạt Đa giận tím mặt, giơ nắm đấm lên, dùng hết đại pháp lực đánh vào đỉnh đầu của Ưu Bát La Nguyệt. Đau Ưu Bát La Nguyệt lập tức vỡ vụn, chết dưới tường vương cung.
°°°
Huyền Trang kể lại chuyện cũ từ một ngàn hai trăm năm trước, câu chuyện này gây chấn động lòng người, dính dáng đến sự phân tách của Phật môn, dính dáng đến việc quốc vương A Xà Thế giết phụ vương soán quyền đoạt vị, càng có liên can mật thiết đến bí mật luân hồi của Ưu Bát La Nguyệt. Trong câu chuyện rất ngắn đã tóm gọn những phong vân biến ảo, ánh đao bóng kiếm trong thời đại Phật Đà. Mọi người nghe xong không ai nói gì, tâm trạng rất u ám.
“Đại sư, sau đó thế nào?”, Y Tự Hầu đệ tam nghe đến mê Mẫn: “Ta mặc dù là tín đồ Bái Hỏa giáo, nhưng cũng hết sức sùng kính Phật Đà”.
Huyền Trang kính cẩn hành lễ, tiếp tục kể đoạn tiếp theo.
°°°
Đề Bà Đạt Đa bí mật vận chuyển xe bắn đá đến sườn núi đối diện với núi Linh Thứu, lắp đặt chắc chắn. Mười chiếc xe bắn đá được cố định ở đây, trong túi đã lắp đạn đá nặng trăm cân, lẳng lặng chờ đợi.
Đêm đó, Đề Bà Đạt Đa đứng trên sườn núi nhìn núi Linh Thứu đối diện. Trên núi Lỉnh Thứu có tinh xá của Phật Đà, bên cạnh tinh xá có một cây bồ đề. Mỗi ngày cứ đến chừng giữa canh Dần[106], Phật Đà lại giảng Phật pháp cho đệ tử dưới gốc cây bồ đề. Mục tiêu của máy bắn đá chính là cây bồ đề này.
Đến giữa canh Dần, mặt nước sông Hằng đã lan tỏa những tia sáng đầu tiên của mặt trời ngày mới.
°°°
Trong quá trình kể chuyện, Huyền Trang dường như đang đứng trên ngọn núi, nhìn về phía sông Hằng với màu sắc hỗn độn, ánh sáng lấp lánh từ sóng nước hắt lên mặt ngài, mỗi một tia sáng đều như một tờ kinh văn.
Thế giới này hiện ra rực rỡ trước mắt ngài. Huyền Trang dường như mê say, thế giới một ngàn hai trăm năm trước này không ngờ lại động lòng người như thế, nhưng từ xưa tới nay có mấy người thấy được?
°°°
Trên núi Linh Thứu vang lên tiếng gõ bình bát trầm bống. Phật Đà từ trong tịnh xá đi ra, dẫn theo mười đại đệ tử và một đám tì kheo đi đến dưới gốc cây bồ đề. Lúc này Phật Đà đã già rồi, bước chân ngài đã hơi loạng choạng, A Nan[107] (Ãnanda) đi bên cạnh dìu ngài, vô cùng cẩn trọng.
“Sau khi ngươi niết bàn, người trên đời sẽ hiểu ta. Những việc ta đã làm tuyệt đối không hề ngông cuồng”, Đề Bà Đạt Đa lẩm bẩm nói, hạ lệnh: “Máy bắn đá, bắn!”.
Các binh sĩ đông thời đập búa gỗ xuống mười chiếc máy bắn đá khổng lồ, túi lưới chứa tảng đá lớn nặng trăm cân đột nhỉên bị kéo vút lên, ném đạn đá bắn lên không trung, lao tới đỉnh núi Linh Thứu cách đó chừng một dặm. Mười tảng đá lớn bay qua khe núi, đập vào đỉnh núi, tiếng nổ ầm ầm, cả núi Linh Thứu đều rung chuyển, phạm vi mười dặm quanh đó như phải chịu động đất. Trên đỉnh núi, tường đổ nhà sập, tất cả nhà cửa đều như biến thành giấy trước những tảng đá với sức công phá lớn như thế này, cây cối đố nát, đá núi vỡ vụn. Cả núi Linh Thứu đất đá tung tóe, bụi bặm bay lên, dường như đang hứng chịu tận thế.
Các đệ tử đang nghe kinh dưới gốc bồ đề nhất thời như rơi vào cối xay thịt, có mấy tảng đá lớn đập thẳng vào giữa đám người, không ít đệ tử bị đạn đá đè sập xuống đất, toàn thân bị ép thành thịt nát. Đạn đá của máy bắn đá đều đã được xử lí đặc thù, để tăng sức sát thương nên thường mài thành những quả cầu đá hình tròn. Quả cầu đá đập vào đám người rồi ầm ầm lăn xuống, cán thành một rãnh máu giữa các đệ tử.
Còn có một số đá đập vào núi vỡ tan, đá vụn bắn tung tóe khắp nơi, không kém gì tên nhọn, không ít người bị đá vụn bắn trúng.
Mười đại đệ tử đột nhiên bị tấn công, trong lúc kinh hoàng vẫn cố bảo vệ an nguy của Phật Đà đầu tiên. Mấy người A Nan và Mục Kiêù Liên[108] (Moggallãna) vội vàng dìu Phật Đà tránh né. Đề Bà Đạt Đa yên lặng nhìn, hạ lệnh: “Tiếp tục lắp đạn. Bắn!”.
Lại là một lượt bắn phá hướng vè đỉnh Linh Thứu, một viên đạn trong đó bắn trúng cây bồ đê. Cây bồ đê ngàn năm này bị bẻ gãy ngang thân, tán cây đổ xuống, chỉ còn lại một đoạn thân cây cao ba thước.
Sau lượt bắn này, trên ngọn núi gần như không còn người đứng nữa, thi thể nằm la liệt.
“Lắp đá, bắn!”, Đề Bà Đạt Đa quát to.
Loạt đá cuối cùng bắn ra, lần này Đề Bà Đạt Đa sai người điêu chỉnh góc độ, nhằm thẳng vào Phật Đà.
Đạn đá tập trung nện xuống, mang theo bóng đen to lớn đổ ập xuống chỗ Phật Đà đang đứng.
Phật Đà không hề nhúc nhích, trong ánh mắt ngập tràn sự thương xót. Lúc này một tăng lữ cao to béo tốt trong đám người lao ra, tăng lữ đó tên là Cung Tỳ La[109] (Kumbhĩra), giống như hộ pháp Kim Cang trợn mắt, tay cầm một cây bảo xử[110] to lớn, từ phía sau xông tới, nổi giận gầm lên một tiếng, vung bảo xử đập thẳng vào quả cầu đá đó.
Một tiếng nổ vang lên, bảo xử đập mạnh vào quả cầu đá, rồi bật ra. Cung Tỳ La miệng ộc máu tươi, ngã văng ra ngoài. Tuy nhiên quả cầu đá kia cũng đã bị bảo xử đập vỡ, đá vụn bắn tung tóe.
Một mảnh đá vụn trong đó bắn vào chân Phật Đà. Thân Phật Đà chảy giọt máu đầu tiên, cũng là giọt máu duy nhất trong kiếp này. Đó là trọng tội cuối cùng trong “năm nghịch tội”: Làm Phật chảy máu.
Đám người A Nan hoang mang lo sợ, vội vàng băng bó cho Phật Đà. Phật Đà đứng yên không động, nhìn sang vách núi đối diện, thấy trên núi Linh Thứu đầy rẫy thương vong, trong ánh mắt ngài chỉ toàn là nỗi niềm xót xa và trách cứ.
Đề Bà Đạt Đa cười đắng chát, ông ta biết việc có thể làm Phật Đà chảy một giọt máu, trong mười phương vũ trụ, thế giới sa bà, mình cũng được xem là vô tiền khoáng hậu rồi.
Tuy nhiên, dù thế nào thì kế hoạch thí Phật cũng đã hoàn toàn thất bại. Ông ta sẽ không có cơ hội lần sau nữa. Cuộc đời oanh liệt này cũng đã đến lúc kết thúc.
“Các pháp do duyên mà sinh khởi. Pháp cũng theo duyên mà tận diệt. Phật của ta là ngài Đại Sa Môn, vẫn thường hay răn dạy như thế!”
Đề Bà Đạt Đa cười ha hả, khom lưng bái, từ biệt mặt trời trên sông Hằng, từ biệt bồ đề trên Linh Thứu, xoay người rời đi.
Đề Bà Đạt Đa trở lại thành Vương Xá, A Xà Thế cự tuyệt không gặp ông ta. Đề Bà Đạt Đa đứng đó một hồi lâu, cuối cùng không nói gì quay đi. Đề Bà Đạt Đa triệu tập tất cả đệ tử, giảng kinh cho họ, cuối cùng than thở: “Đây có lẽ là lần cuối cùng ta giảng kinh. Nếu ta niết bàn, các đệ tử cần tuân theo ngũ pháp, không thể buông thả”.
Có đệ tử hỏi: “Tôn giả, ngài đang khỏe mạnh, vì sao lại niết bàn?”.
Đề Bà Đạt Đa đột nhiên nhớ tới lời của Phật Đà, lẩm bẩm nói: “Thành, trụ, hoại, không[111], một kiếp, một thế giới, đều phải trải qua quá trình như vậy. Ta niết bàn thì có gì phải kiêng kỵ?”.
Ông ta không nói thêm nữa, xoay người trở lại tịnh xá của mình.
Đề Bà Đạt Đa lấy ra một chiếc bình, trong bình chứa thuốc độc kiến huyết phong hầu, ông ta đã cất kĩ nhiều năm. Ông ta chấm thuốc độc, tỉ mỉ bôi lên mười đầu móng tay của mình.
Đề Bà Đạt Đa yên lặng rời khỏi tịnh xá, đi đến cổng bắc. Cách một dặm bên ngoài cổng bắc thành Vương Xá là tịnh xá trong rừng trúc của Phật Đà, do đại phú hào Già Lan Đà cúng dường, quy mô to lớn, chia làm mười sáu viện, mỗi viện có sáu mươi gian phòng. Sau khi núi Linh Thứu bị hủy, Phật Đà chuyển đến sống ở nơi này.
Đề Bà Đạt Đa đến ngoài tịnh xá, có tăng nhân giận dữ ngăn lại, em ruột ông ta là A Nan đi ra ngăn cản tăng chúng.
“Huynh trưởng, ngài còn chưa từ bỏ ý định sao?’’, A Nan đau lòng nói.
“Ta muốn nói mấy lời với thế tôn”, Đề Bà Đạt Đa nói: “Mấy lời cuối cùng!”.
A Nan không ngăn cản, Đề Bà Đạt Đa đi thẳng vào tịnh xá của Phật Đà. Phật Đà chân quấn vải trắng, thấp thoáng thấy có vệt máu tươi chảy ra. Ngài bình tĩnh ngồi trên bồ đoàn, nhìn Đề Bà Đạt Đa đi vào.
Đề Bà Đạt Đa chắp tay, cung kính đi ba vòng quanh người Phật Đà, sau đó ngồi xuống đối diện Phật Đà. Hai người bình tĩnh đối mặt.
“Thế tôn, ta nghĩ ngài đã biết ý đồ của ta khi đến đây”, Đề Bà Đạt Đa nói.
Phật Đà chậm rãi gật đau: “Ta biết!”.
“Vì sao ngài còn gặp mặt ta?”, Đề Bà Đạt Đa hỏi.
Phật Đà có chút bi thương: “Ngươi đi theo ta hơn bốn mươi năm, hôm nay ngươi phải nhập diệt, ta đâu nỡ nhẫn tâm không gặp?”.
“Ngài xác định là ta nhập diệt mà không phải ngài nhập diệt?”, Đề Bà Đạt Đa hỏi.
Phật Đà im lặng gật đầu, chậm rãi nhắm mắt lại.
“Nhưng ta vẫn muốn thử một lần!”, Đề Bà Đạt Đa nói xong bèn lao về phía Phật Đà, mười ngón tay mở ra chụp vào hai chân Phật Đà!.
Mấy người A Nan và Mục Kĩên Liên xung quanh đều bị bất ngờ không kịp ngăn cản. Móng tay bôi kịch độc của Đề Bà Đạt Đa chộp vào chân Phật Đà. Chỉ nghe thấy một tiếng rắc, cả mười móng tay đông thời bị gãy, chân Phật Đà lại không hề thương tốn. Đè Bà Đạt Đa ngã xuống đất, những móng tay bị gãy đã đâm sâu vào bàn tay ông ta.
Mọi người vội vàng tách Phật Đà và Đề Bà Đạt Đa ra, Đề Bà Đạt Đa cười khổ muốn bò dậy, lại bất lực ngã lăn ra đất. Lúc này hai tay ông ta đã sưng lên, sắc mặt bắt đầu chuyển sang màu xanh đen. Không ngờ thuốc độc lại mãnh liệt như vậy.
Đè Bà Đạt Đa không còn vùng vẫy nữa, ông ta im lặng nằm dưới chân Phật Đà, nhìn ra bầu trời bên ngoài tịnh xá. Ông ta biết Phật Đà đang nhìn mình, lại không hề để ý. Ông ta cười, lẩm bẩm nói: “Sáu mươi năm trước, lúc chúng ta vẫn là trẻ con, ta luôn thích cạnh tranh với ngài, nhưng luôn thua ngài. Ngài cưỡi ngựa tốt hơn ta, bắn tên tốt hơn ta, tướng mạo anh tuấn hơn ta, tâm địa từ bi hơn ta. Ta là vương tử dòng thứ, ngài lại là thái tử vương quốc Thích Ca. Ta tìm mọi cách muốn đoạt ngôi vị thái tử, âm thầm mưu đồ mười năm, lúc đang chuấn bị phát động chính biến, ngài lại vứt bỏ ngôi vị thái tử như vứt một đôi giày cũ…”.
Đề Bà Đạt Đa cười lớn: “Từ khi đó, ta đã biết, đời này kiếp này ta đều không thể bằng ngài”.
“Can gì cố chấp trong tham vọng”, Phật Đà thở dài nói: “Ta chưa từng nghĩ tới việc so nặng nhẹ với núi, so cao thấp với cây, so giàu nghèo với người, so sức ăn với voi”.
“Đúng vậy, cho nên người mới vĩnh viễn không thể chiến thắng!” Khóe miệng Đề Bà Đạt Đa đang chảy ra máu tươi, ánh mắt đã mất tiêu cự: “Cho nên ta mới xuất gia theo ngài, ta muốn thắng ngài một lần trên chính bước đường ngài đi. Nhưng ngài phải biết, bốn lần mưu sát, kỳ thực không phải do ta muốn giết ngài”.
“Ta biết”, Phật Đà nói.
Đám người A Nan nghe mà không hiểu gì cả. Bốn lần mưu sát, lần nào cũng hung hiểm, thậm chí lần thứ ba còn làm Phật Đà bị thương, làm sao lại không phải muốn giết chết Phật Đà? Nhưng Phật Đà không hề giải thích.
“Lần này coi như ta thắng rồi chứ?”, trên khuôn mặt xám xịt của Đề Bà Đạt Đa lộ ra vẻ vui sướng.
“Ngươi thắng rồi ”, Phật Đà chắp tay thi lễ, cúi đầu đưa tiễn ông ta.
Đề Bà Đạt Đa bật cười, sau đó thì qua đời.
[*] [94] Theo kinh văn tiếng Tạng, hoa sen được chia làm bốn màu, sen trắng là Phân đà lợi (Pumdarikam), sen xanh là Ưu bát la (Utpala), sen hồng là Bát đặc ma (Padma), sen vàng là Câu vật đầu (Kumuda).
[*] [95] Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) còn được gọi gọn là Điều Đạt, dịch nghĩa là “Thiên Thụ” (trời trao). Ông là anh em họ của Phật Thích Ca Mâu Ni, từng gia nhập vào lãnh đạo tăng đoàn của Phật, nhưng rồi về sau nguyên nhân nảy sinh nhiều ý kiến không hợp với quyền lực đấu tranh, li khai khỏi Phật Tổ Thích Ca để thành lập tăng đoàn khác.
[*] [96] Quán bất tịnh là một đạo tu thiền trong Phật giáo, với mục đích là dẹp bỏ tà dâm, dứt trừ vọng niệm và giác ngộ được Phật tính.
[*] [97] Ma Yết Đà hay Ma Kiệt Đà (Magadha) là một trong mười sáu nước lớn thời Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế.
[*] [98] Ajatashatru (A Xà Thề) là vua nước Magadha - một vương quốc cổ ở phía bắc tiếu lục địa Ấn Độ. Ông là người giết hại vua cha là Bimbisãra (Tân Bà Sa La) và cùng Đề Bà Đạt Đa định ám hại Đức Phật, nhưng không thành. Cuối cùng ông giác ngộ theo Phật và phụng sự Phật pháp. Dưới thời Ajatashatru, Magadha trở thành vương quốc cường thịnh nhất ở miền Bắc Ấn Độ.
[*] [99] Bimbisãra, còn gọi là Tân Bà Sa La hay Bình Sa Vương (558 - 491 TCN) là vua của vương quốc Magadha tù năm 543 TCN tơi khi qua đời và là một thành viên của vương tộc Haryanka. Ông lên ngôi năm 15 tuổi và gặp Phật Thích Ca Mâu Ni lần đầu tiên khi 25 tuổi. Tân Bà Sa La là đệ tử đầu tiên của Phật Thích Ca trong hàng vua chúa.
[*] [100] Bạt Kì - Vajji. Một trong mười sáu nước lớn ở Ấn Độ vào thời đức Phật. Cũng là tên gọi một chủng tộc ở bắc bộ trung Ấn Độ. Cứ theo Đại đường tây vực kí quyển 7 chép, thì chu vi nước này hơn bốn nghìn dặm, chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp. Đất đai mầu mỡ, hoa quả xanh tốt, khí hậu hơi lạnh, tính người hấp tấp nóng nảy. Dân trong nước phần đông thờ kính ngoại đạo, ít tin Phật pháp, chúng tăng tu học cả Đại thừa và Tiểu thừa.
[*] [101] Kiều Tát La (Kosala) - Còn gọi là Câu Sa La, Câu Tát La, hay Cư Tát La. Một vương quốc cổ mà bây giờ là vùng Oude, nằm về miền Trung Ấn Độ. Đây là một trong 16 vương quốc lớn thời Đức Phật còn tại thế, thủ phủ là thành Xá Vệ, nơi Đức Phật đã lưu trú trong một thời kỳ dài.
[*] [102] Ca Thi là một trong mười sáu nước lớn ở Ấn Độ vào thời đức Phật, vương quốc này nổi tiếng vì trồng nhiều loại trúc tốt tên cùng tên - Ca Thi. Nằm ở phía bắc n