Chương 8 Nữ vương của Nữ nhi quốc
Huyền Trang kể xong, mọi người đều trầm mặc. Một hồi lâu sau đại ma cát mới hỏi: “Đại sư, vì sao những lời trước khi lâm chung của Đề Bà Đạt Đa lại khó hiểu như vậy? Dường như có thâm ý gì đó?”.
Huyền Trang suy nghĩ một lát: “Con đường ông ấy đi quanh co hiểm ác, có lẽ chỉ có Phật Đà mới hiểu được! Giống như tôn giả Sa Bà Mị trước mặt ngài, con đường ông ấy đi bây giờ bần tăng cũng không hiểu được. Nhưng bần tăng nghĩ ông ấy nhất định có sự cố chấp của riêng mình.”
“Ngài…” Sa Bà Mị giật mình, nhìn Huyền Trang rất lâu, lại dường như không muốn nói đến chuyện này: “Được rồi, dù thế nào lão hòa thượng cũng đã giải được bí mật kiếp trước của Liên Hoa Dạ và Na Thuận, trận quyết đấu này nên kết thúc rồi chứ?”.
Vừa nghe thấy lời này, tất cả mọi người đều căng thẳng. Ai cũng cảm thấy sống lưng lạnh toát, dường như có một con gió lạnh bất tường thổi khắp tứ phương, vẻ mặt Y Tự Hầu đệ tam rất dữ tợn, nhục nhã, không cam lòng, tuyệt vọng, giận dữ, thẫn thờ, tất cả đều có. Ông ta yên lặng nhìn tháp Phật trước mặt, không nói một lời. Mọi người ai cũng không dám nói gì nữa, lẳng lặng chờ, đều biết chỉ cần ông ta nói ra một lời, rất có khả năng sẽ bùng nổ một trận chiến tranh thảm khốc.
“Không!” đại ma cát đột nhiên nói: “Liên Hoa Dạ luân hồi ba mươi ba kiếp, ngươi chỉ tìm ra kiếp thứ nhất mà cũng dám nói đã thắng cược?”.
Sa Bà Mị tức giận: “Nguồn gốc đã tìm được rõ ràng, chẳng lẽ ngươi muốn lão hòa thượng chỉ ra mỗi một kiếp nữa hay sao?”.
“Cũng không cần làm như vậy”, đại ma cát cười lạnh: “Những kiếp ở giữa ta có thể không biết, chỉ cần ngươi tìm được kiếp cuối cùng của Liên Hoa Dạ, bọn ta liền nhận thua!”.
Sa Bà Mị ngẩn ra, nhìn Y Tự Hầu đệ tam: “Bệ hạ, ý của ngài cũng vậy sao?”.
Y Tự Hầu đệ tam yên lặng rất lâu, gật đầu: “Ý của đại ma cát chính là ý của ta”.
Sa Bà Mị nhẹ nhàng thở ra, nói: “Lão hòa thượng không phải sợ khó, mà là việc này quá mức đơn giản”. Ông ta xoay người qua nhìn Liên Hoa Dạ: “Vậy liền nói kiếp cuối cùng của ngươi, cũng chính là kiếp vừa qua. Kiếp trước của ngươi rốt cuộc là ai?”.
Liên Hoa Dạ ngơ ngác, trong ánh mắt lộ rõ vẻ sợ hãi, lẩm bẩm hỏi: “Thật sự muốn ta nói ra hay sao?”.
“Nếu cảm thấy không tiện, thí chủ có thể không nói”, Huyền Trang điềm đạm nói.
Sa Bà Mị tức giận: “Đại Thừa Thiên, thắng bại sắp phân, ngài chớ quấy nhiễu, nói đi!”.
Liên Hoa Dạ gật đầu, đang chuẩn bị nói, đột nhiên trên người nàng phun ra từng làn khói trắng. Những làn khói đó như từ trong cơ thể nàng lan ra, xuyên qua quần áo ra ngoài. Dường như trong cơ thể chứa đầy củi rác ẩm ướt đang cố bắt lửa để bùng cháy lên. Mọi người đều ngây ra.
“Liên Hoa Dạ, nàng không sao chứ?”, Na Thuận muốn chạy tới, lại bị Sa Bà Mị giữ lấy. Ông ta lắc đầu, vẻ mặt nghiêm nghị: “Ngươi tạm thời đừng hoang mang, cứ để xem xảy ra chuyện gì”.
Huyền Trang không lên tiếng, cũng lẳng lặng nhìn, nhưng sức chú ý lại tập trung vào phản ứng của mọi người xung quanh. Khói từ người Liên Hoa Dạ phun ra càng ngày càng nhiều, trong đó dường như tràn ngập một mùi mê loạn, chỉ hít vào một chút liền cảm thấy buồn ngủ, đầu óc căng ra, mọi người vội vàng che mũi lại.
“Ta bị làm sao thế này?”, Liên Hoa Dạ ngỡ ngàng nhìn thân thể chính mình.
Lúc này khói càng ngày càng nhiều, càng ngày càng đặc, dường như một chiếc kén tằm to lớn màu trắng đang bao bọc toàn thân nàng. Mọi người đã không còn nhìn thấy Liên Hoa Dạ trong kén tằm nữa.
“Na Thuận, cứu ta…”, Liên Hoa Dạ đột nhiên kêu thảm thiết.
Na Thuận hét to một tiếng, gạt Sa Bà Mị ra xông vào đám khói, nhưng ngay sau đó mọi người lại nhìn thấy Na Thuận lao ra từ bên kia đám khói, không ngờ trong đám khói lại không có gì cả.
Na Thuận đưa tay ra, thẫn thờ nhìn, trên tay hắn vương vài sợi khói, nhẹ nhàng thổi một cái, khói tan đi mất.
“Liên Hoa Dạ?” Na Thuận lấy lại tinh thần, quay người xông vào đám khói sờ soạng khắp nơi, đám khói bị xua tán loạn. Cuối cùng sương khói tan hết, mọi người chi nhìn thấy Na Thuận ngẩn ngơ đứng ở giữa cung thất. Liên Hoa Dạ đã biến mất không rõ tung tích.
“Sư huynh, sư huynh!”, Na Thuận sợ hãi khóc: “Liên Hoa Dạ biến mất rồi…”.
Huyền Trang cũng hết sức khiếp sợ. Ngài đi tới xua những sợi khói còn lượn lờ ra, xem xét tỉ mỉ. Ánh mắt lần lượt lướt qua trên mặt mọi người, khiếp sợ, nghi hoặc, ngơ ngẩn, đủ mọi biểu cảm. Sa Bà Mị nhìn ngài, lặng lẽ đối mặt với ngài.
Trong lòng Huyền Trang dần lạnh đi, ngài kéo Na Thuận, nhẹ nhàng nói: “Yên tâm, chỉ cần Liên Hoa Dạ còn sống, bần tăng nhất định có thể giúp ngươi tìm lại được”.
Na Thuận kích động nắm hai vai ngài: “Sư huynh, có thể tìm được nàng ở đâu? Hãy nói cho ta biết, dù lên núi đao xuống biển lửa ta cũng đi!”.
“Chúng ta đến Tô Bì nữ quốc”, Huyền Trang nói.
Na Thuận ngớ ra, ngay cả Sa Bà Mị và Y Tự Hầu đệ tam cũng ngây người.
“Tô Bì nữ quốc?”, Na Thuận kinh ngạc: “Mặc dù Liên Hoa Dạ sinh ra ở đó, nhưng mà…”.
Huyền Trang ngắt lời hắn: “Na Thuận, nghe lời ta. Chúng ta đi thôi!”.
“Liên Hoa Dạ…” Na Thuận không cầm được nước mắt, bỗng quỳ xuống đất: “Bất kể nàng ở đâu, bất kể nàng bị ai bắt đi, nàng đều không cần sợ, cho dù đến tận cuối đời này, ta cũng phải tìm được nàng!”.
°°°
Huyền Trang và Na Thuận ra khỏi cổng thành phía đông. Một con ngựa trắng, một con lạc đà chậm rãi lướt qua những bóng cây và ánh sáng phản xạ từ mặt sông Ấn. Na Thuận cưỡi trên lưng lạc đà, đi một bước quay đầu lại ba lần. Lúc này đã không còn nhìn thấy thành Phú Lâu Sa, tán cây rậm rạp, núi non điệp trùng, thỉnh thoảng có khói bếp bay lên khung trời, giống như một mái tóc lượn lờ không tan trong nỗi tương tư của con người.
“Đi thôi, có lẽ khi trở về tất cả đã khác rồi”, Huyền Trang không quay lại, thúc ngựa mà đi.
“Su huynh, Liên Hoa Dạ rõ ràng mất tích trong vương cung Càn Đà La, vì sao ngài phải đến Tô Bì nữ quốc tìm nàng?”, Na Thuận thúc lạc đà đi lên hỏi.
Huyền Trang trầm ngâm một lát: “Trong vương cung Càn Đà La, lớp lớp sương mù ẩn hiện bần tăng không dám đâm thủng lớp giấy này nên đành phải tìm lối đi khác. Hơn nữa bần tăng cho rằng thủ đoạn, quá trình, thậm chí là nơi mất tích đều không quan trọng. Điều thật sự quan trọng là vì sao Liên Hoa Dạ lại mất tích? Việc này nếu do bàn tay người thao túng, người này bắt cóc nàng ta trước mắt bao người, nhất định là không muốn để nàng nói ra câu nói đó”.
“Câu nói nào?”, Na Thuận hỏi.
“Kiếp trước của nàng rốt cuộc là ai?”, Huyền Trang nói.
Na Thuận bàng hoàng tỉnh ngộ: “Cho nên sư huynh mới phải đến Tô Bì nữ quốc tìm quê quán của nàng? Đúng, nàng sinh ra lớn lên ở đó, thân thế lại kỳ dị như vậy, dân bản xứ chắc chắn sẽ biết”.
“Đúng vậy!”, Huyền Trang gật đầu: “Nếu biết kiếp trước nàng là người nào, bần tăng nghĩ, sẽ có thể biết được người bắt nàng đi là ai”.
Nơi này cách Tô Bì nữ quốc hai ngàn dặm, sau khi vượt qua sông Ấn Độ rẽ về hướng bắc tiến vào Ô Trượng Na[112](Udyãna). Ô Trượng Na có nhiều lòng chảo, hoa quả phong phú, dồi dào, đặc biệt là nho, đi qua các thành trì và thôn xóm, ven đường có vô số giàn nho, ngoài ra còn có đủ loại hoa tươi cây trái bên sông dưới chân núi tuyết.
Từ Ô Trượng Na đi về phía bắc chính là Ca Thấp Di La[113] (Kasmira). Đây là một quốc gia lớn ở phía tây bắc Thiên Trúc, đã xâm nhập núi tuyết, chu vi bảy ngàn dặm, dãy núi bao quanh. Trong vương quốc có nhiều núi cao, tuy có đường nhưng rất hẹp và uốn lượn quanh các dãy núi. Khí hậu trên núi giá lạnh, mặc dù là tháng ba nhưng vẫn có tuyết bay trong gió. Huyền Trang và Na Thuận dùng thảm lông bọc kín toàn thân, ngay cả ngựa và lạc đà cũng được đắp kín, hai người cúi rạp trên lưng chúng, lặn lội vượt núi tuyết hoang vu.
Đi hơn mười ngày mới coi như vượt qua núi tuyết tiến vào vùng trung bộ của Ca Thấp Di La, khí hậu cũng dễ chịu hơn. Trên đường thỉnh thoảng có thể gặp các thương nhân. Huyền Trang hỏi thăm họ đường đi tới Đông nữ quốc, các thương nhân nói với họ đi sáu trăm dặm về phía đông bắc, qua đèo núi Ca Lạt Côn Lôn[114] (Karakoram) chính là Đông nữ quốc.
“Có điều Đông nữ quốc đã di chuyển về phía tây rồi”, thương nhân đó nói.
Huyền Trang ngạc nhiên: “Vì sao lại di chuyển về tây?”.
“Đại sư có lẽ không biết, mấy năm gần đây Thổ Phồn trỗi dậy, sau khi chinh phục Tượng Hùng, Tùng Tán Cán Bố của Thổ Phồn liền phát động tấn công Đông nữ quốc. Năm ngoái Tùng Tán Cán Bố đánh hạ đô thành Đông nữ quốc, Đông nữ quốc di chuyển về tây đến vùng Bột Luật[115].” Thương nhân đó nói: “Đại sư đi đường nhớ phải tránh né loạn binh, từ đèo Ca Lạt Côn Lôn trở về bắc chính là chiến trường của Đông nữ quốc và Thổ Phồn, thường xuyên có loạn binh cướp bóc”.
Huyền Trang tạ ơn, tiếp tục đi lên bắc.
“Sư huynh, Đông nữ quốc đã bị đánh tan, chúng ta còn có thể tìm được người ở quê hương Liên Hoa Dạ không?”, Na Thuận hỏi.
Huyền Trang yên lặng một lát, nhìn núi tuyết mênh mông thở dài: “Bần tăng rời khỏi Đại Đường mười bốn năm trước, trên đường đã đi qua một trăm mười quốc gia, cầu lấy chân kinh. Trên đường đi bôn ba sương gió là một nhẽ, có lúc cũng sẽ gặp một số chuyện li kỳ lạ lùng, mặc dù không liên quan tới Phật pháp, nhưng bần tăng cũng không bao giờ né tránh, luôn phải tìm tòi nghiên cứu ngọn nguồn để hiểu cho rõ ràng. Na Thuận, ngươi có biết nguyên nhân không?”.
“Chẳng lẽ là lòng hiếu kỳ của sư huynh quá lớn chăng?”, Na Thuận nói.
Huyền Trang bật cười, nói: “Nếu phải tìm Phật pháp trên sách vở, sợ là ngòi bút sẽ chấm cạn hồ Động Đình[116]. Phật pháp và chân ý không bao giờ được ghi chép trên sách vở, chính bản thân phải đi tìm kiếm, đi khai ngộ. Bần tăng Tây du chính vì như vậy, không quan trọng khởi đầu, không quan trọng kết cục, cũng không quan trọng có thể tìm được hay không, chỉ là dùng cả một đời để tự nghiệm và lĩnh ngộ từng tí từng li, từng bông hoa ngọn cỏ mà thế giới Đại Thiên phơi bày trước mặt ta. Cho nên, Na Thuận, đường đi ở ngay dưới chân rồi, như vậy thì không cần do dự, cũng không cần nghi hoặc, cứ việc đi tiếp là được”.
Lên phía bắc sáu bảy trăm dặm lại tiến vào núi Đại Tuyết, ngọn núi tuyết này càng hùng vĩ hơn, như kim tự tháp sùng sững giữa trời, đường hai bên đỉnh núi đều bị sông băng bao phủ, trên núi có tuyết đọng quanh năm, đường lên núi vừa dốc vừa trơn, một số đoạn đường còn có tuyết đọng vài thước. Lạc đà và ngựa thường xuyên bị trượt chân. Huyền Trang lấy vải thô bọc vào chân ngựa và lạc đà, đến những đoạn đường núi dốc đứng thì tự mình leo lên, lấy đinh sắt dài ra đóng xuống mặt băng, buộc dây thừng vào rồi ném cho Na Thuận để Na Thuận buộc vào dây cương ngựa và lạc đà, sau đó hai người hợp lực kéo lạc đà và ngựa lên.
“Sư huynh, cách này của ngài không tồi chút nào”, Na Thuận khen ngợi.
“Bần tăng mấy năm nay đi qua mấy chục dãy Đại Tuyết, trước kia lúc vượt qua núi Đại Lăng[117], đường lên núi có đọng tuyết, có mấy người trượt chân rơi xuống núi, cho nên bần tăng đã làm những thứ này, vì không muốn có thêm người phải bỏ mạng oan uổng nữa”, Huyền Trang nói.
Tiếp tục đi về phía trước chính là đèo Ca Lạt Côn Lôn. Trên đường gặp một số thương nhân, thứ những thương nhân này vận chuyển không phải hàng hóa bình thường mà là nô lệ. Họ dùng một sợi dây to trói hơn mười người vào nhau, nam có nữ có, già có trẻ có, phía trước có người ngồi trên lưng ngựa dắt đi. Những nô lệ này quần áo tạm bợ, đầu bù tóc rối, ánh mắt đờ đẫn đi trên băng tuyết quanh co.
Huyền Trang hỏi thăm mới biết những người này là tù binh của Đông nữ quốc bị quân Thổ Phồn bắt, rồi được những thương nhân này mua lại, đưa đến Thiên Trúc bán. Hai người lặng lẽ nhìn đội nô lệ này khuất xa dần trên núi tuyết. Hai mắt Na Thuận rực đỏ, nói: “Liên Hoa Dạ cũng như vậy mà tới Thiên Trúc sao? Sư huynh, ta thật sự hận chính mình, vì sao lại để nàng phải chịu khổ như vậy!”.
Huyền Trang chỉ lặng lẽ thở dài, tiếp tục đi.
Đi qua đèo, thời tiết dần trở nên ấm áp, núi tuyết đã nằm lại phía sau, trước mắt là đồng bằng, cỏ xanh và hồ nước mênh mông. Bầu trời xanh ngắt, hồ nước phẳng lặng in bóng trời xanh, không nhìn rõ đâu là trời, đâu là đất. Duy chỉ có bóng dáng những chú linh dương tụ lại thành từng đàn chạy lướt qua làm xôn xao những đám cỏ dài, lay động nhẹ vùng trời xanh cỏ biếc vốn đang tĩnh lặng này.
Huyền Trang và Na Thuận tìm được một thương lộ, bắt đầu đi về hướng tây tìm dấu tích của Đông nữ quốc. Sau hai trăm dặm, họ men theo ven bờ đi qua một hồ nước trong như gương, vượt qua một ngọn đồi phủ đầy cỏ xanh, đột nhiên lại thấy kinh ngạc. Dưới thung lũng trước mặt đội quân trùng trùng không biết mệt đang không ngừng chém giết khắp nơi.
Khoảng cách hơi xa, không nghe thấy tiếng hô hoán của binh sĩ, tiếng hí của chiến mã và tiếng kêu thảm thiết của người chết, chỉ thấy ánh tịch dương chiếu qua bóng gươm lướt qua trước mắt Huyền Trang. Giữa đại quân hai bên là bộ binh đánh giáp lá cà, từ trên đồi nhìn xuống giống như hai đàn kiến lao vào nhau, cầm đao kiếm chém giết lẫn nhau, trường mâu đâm tới, trận hình hai bên bị tước mỏng từng lớp. Bên ngoài vùng giao đấu của bộ binh là trận chiến giữa kỵ binh hai bên, vô số kỵ binh không ngừng lao tới như những lớp sóng màu đen va vào nhau bắn ra vô số bọt sóng, người chết vô kể.
Hai người ngây ra nhìn, Huyền Trang thầm niệm chú vãng sinh, Na Thuận lại không cho là cần phải làm vậy: “Sư huynh, bọn họ tin theo ngoại đạo, chú vãng sinh của ngài không siêu độ được bọn họ”.
“Chúng sinh trên đời, không ai là không thể siêu độ”, Huyền Trang nói.
Ngài đang định nói tiếp, đột nhiên phía sau vang lên tiếng vó ngựa dồn dập. Hai người quay lại nhìn, chỉ thấy một đội kỵ binh thám báo Thổ Phồn hò hét chạy tới. Đội thám báo Thổ Phồn này mặc trường bào, tay áo hẹp, tóc thắt bím, trán buộc dây đỏ, hai gò má và trán vẽ đỏ đầy mặt. Chạy đến gần, đầu tiên là chúng đánh ngựa chạy một vòng quanh hai người, không nói một lời giương cung lắp tên, một số mũi tên bắn xuống dưới chân hai người. Hai người không dám cử động nữa, nghe thấy đám kỵ binh kia hò hét gì đó, thúc ngựa chạy quanh hai người. Bọn họ nói tiếng Thổ Phồn, Huyền Trang nghe không hiểu lắm.
Na Thuận từng làm thương buôn đi nhiều nơi, hiểu được một ít, khẽ giải thích: “Bọn họ cho rằng chúng ta là gian tế của Đông nữ quốc”.
Huyền Trang nói nhỏ: “Ngươi nói với bọn họ, chúng ta từ Thiên Trúc đến”.
Na Thuận dùng tiếng Thổ Phồn không được lưu loát lắm nói với đám kỵ binh kia: “Các vị anh hùng miền núi tuyết đáng kính, bọn ta là tăng nhân đến từ Thiên Trúc, người trước mắt ngài chính là Đại Thừa Thiên nổi danh nhất Ngũ Thiên Trúc, đến đây bái kiến tán phổ của quý quốc…”.
Đám kỵ binh kia có lẽ nghe hiểu được, hai tên thủ lĩnh thương lượng một lát, mang theo hai người cùng đội quân đến một vùng đất cao dưới thung lũng. Xung quanh vùng đất cao này lều trại san sát, rất nhiều binh sĩ Thổ Phồn ra vào, vận chuyển tên, lá chắn và túi ném đá, đạn đá hình tròn tới chiến trường, lại có vô số thương binh được đưa về, pháp sư kinh chú của Bản giáo[118] vẽ mặt đỏ vừa đắp thảo dược vừa niệm chú giúp họ trị thương. Cả doanh trại đều rất hỗn loạn.
Đám kỵ binh thám báo kia dẫn bọn họ tiến vào doanh trại, gặp một vị đông bản[119] đang dẫn một ngàn kỵ binh tới chiến trường chi viện. Thấy bọn họ mang một tăng nhân về, đông bản kinh ngạc hỏi han, saư đó lập tức nổi giận: “Đạt Xích, ta thấy ngươi đáng ăn roi lắm! Hai mắt tán phổ như hùng ưng dõi theo chiến sự, ngươi dẫn một đám người vớ vẩn đến làm phiền tán phổ, không bị tán phổ chém đầu mới lạ. Tạm thời nhốt đám tăng nhân này lại, đợi đánh bại nữ vương Tô Bì hẵng bàn tiếp!”.
Thám báo gọi là Đạt Xích kia không dám nói tiếp, dẫn Huyền Trang và Na Thuận tới phía sau doanh trại, nhốt vào trong chuồng bò. Loại bò Tây Tạng ở đây được nuôi để thịt, cách đó không xa có một đám nô lệ đang mổ bò, lột da lấy thịt. Huyền Trang vô cùng sầu não, lại bất đồng ngôn ngữ, đành phải ngồi trong chuồng bò nhập thiền.
Không biết trải qua bao lâu, chợt nghe thấy xa xa truyền đến tiếng hoan hô long trời lở đất của vô số người. Hai người đang kinh ngạc, bỗng thấy một nô lệ hớn hở chạy vào, lớn tiếng hô lên: “Thắng rồi! Chúng ta đã bắt được nữ vương Tô Bì!”.
Một đám nô lệ hô lên điên cuồng, buông dao mổ bò trong tay xuống, vừa múa vừa hát. Huyền Trang nhìn mà lắc đầu không thôi, Na Thuận lại lo lắng: “Sư huynh, ngay cả nữ vương cũng bị bắt làm tù binh, xem ra Đông nữ quốc diệt vong rồi”.
“Đúng vậy!”, Huyền Trang cũng cảm khái: “Mấy năm nay Đông nữ quốc bị Thổ Phồn nhiều lần đánh phá tan tác, diệt vong cũng chỉ là chuyện sớm muộn”.
“Nếu đã vậy, muốn hỏi thăm tin tức về Liên Hoa Dạ chẳng phải sẽ càng khó khăn hay sao?”, Na Thuận lo lắng.
Huyền Trang suy nghĩ một lát: “Đi đến đâu tính đến đấy”.
Hai người đang nói chuyện, đột nhiên tên thám báo gọi là Đạt Xích chạy vào, dùng tiếng Phạn nói: “Ngươi chính là tăng nhân từ Thiên Trúc đến?”.
“Chính là bần tăng”, Huyền Trang chắp tay.
“Có một vị quý nhân muốn gặp ngươi”, Đạt Xích vừa nói vừa mở cửa chuồng bò thả bọn họ ra.
Huyền Trang chui ra, hỏi: “Có phải là tán phổ của các vị không?”.
Đạt Xích không để ý đến ngài, đưa hai người rời khỏi khu giết mổ, đi đến chính giữa nơi đóng quân. Người Thổ Phồn chiến thắng đang quay về doanh trại, người nào cũng đầm đìa máu tươi, nhưng vẻ mặt lại rất phấn khởi, ngay cả hoa văn đỏ trên mặt cũng bị máu hòa tan. Có một số pháp sư kinh chú vừa múa vừa hát những bài hát tế tự cổ xưa.
Phía sau những người Thổ Phồn đang quay trở về doanh trại là rất nhiều tù binh Đông nữ quốc, nam có nữ có, cả người đầy máu, bị trói với nhau thành một hàng dài, do người Thổ Phồn dắt đi. Những người Thổ Phồn này vừa dùng roi quất mạnh vừa lớn tiếng mắng chửi họ bằng vốn tiếng Phạn có hạn. Ngôn ngữ của Đông nữ quốc thuộc hệ tiếng Phạn, không giống của Thổ Phồn, nhưng hai bên đã qua lại hàng ngàn năm, vì vậy dù là người Thổ Phồn bình thường cũng biết vài câu tiếng Phạn. Một số nữ nhân tính cách quyết liệt, không cam lòng chịu nhục nên lớn tiếng chửi lại, ngược lại đám nam nhân Đông nữ quốc thì tỏ ra sợ hãi rụt rè, ủ rũ bước đi.
“Ngay cả nữ vương Tô Bì của các ngươi cũng bị bọn ta bắt làm tù binh rồi, các ngươi còn gì để tự cao tự đại nữa?”.
Binh lính Thổ Phồn cười nhạo, nữ tử Đông nữ quốc nghe vậy thì lập tức khóc lớn, bị người Thổ Phồn áp giải đến doanh trại tù binh.
Huyền Trang im lặng nhìn, đi theo Đạt Xích vòng qua các trạm gác dày đặc tới một vùng đất cao được đại quân bảo vệ xung quanh. Nơi này là chỗ ở của tán phổ và vương tộc Thổ Phồn, doanh trại cao lớn hoa lệ. Đạt Xích bẩm báo, một tên nội tướng từ trong lều đi ra, dẫn Huyền Trang và Na Thuận đến một chiếc lều xa hoa nhất.
Chiếc lều này cực kỳ to lớn, có thể chứa được mấy trăm người. Lúc này ở sâu trong lều treo một tấm bản đồ lớn bằng da bò Tây Tạng, mười mấy quý tộc Thổ Phồn bao quanh hai nam tử trẻ tuổi mặc áo bào, đang hội ý trước tấm bản đồ.
“Sau khi đánh bại Đông nữ quốc, cương vực phía tây của Thổ Phồn đã tiếp giáp Đại - Tiểu Bột Luật, nếu có thể thôn tính Đại - Tiểu Bột Luật thì lên phương bắc có thể vào Tây Đột Quyết, xuống phương nam có thể vào khu vực Thổ Hỏa La. Tán phổ trấn giữ con đường giao thương trọng yếu của ba đại đế quốc Thiên Trúc, Ba Tư, Tây Đột Quyết, có thể thành nghiệp bá muôn đời”, người đứng tuổi hơn nói, không ngờ lại là giọng Đại Đường, còn mang khẩu âm Lạc Dương.
“Đúng thế, đúng thế!”, nam tử trẻ tuổi hơn vỗ tay tán đồng: “Đến lúc đánh bại Đại - Tiểu Bột Luật, Thổ Phồn ta có thể tiến vào Vu Điền, tấn công trực diện vào Tây Đột Quyết! Khi đó Thổ Phồn có thể cùng Đại Đường tiến đánh Tây Đột Quyết, đúng là một chuyện đáng mừng trong đời người!”.
Nội tướng chờ một lát, thấy hai người còn đang đàm luận, đành phải tiến lên đặt tay lên ngực cúi chào, khẽ bẩm báo: “Thưa tán phổ, vị tăng nhân Thiên Trúc mà Vương quý nhân cần gặp đã được đưa đến”.
“Đến rồi à?”, nam tử đứng tuổi quay lại, thuận miệng hỏi. Hắn vừa xoay người lại liền nhìn thấy Huyền Trang, lập tức kinh ngạc. Huyền Trang cũng trợn mắt há mồm.
“Đại sư Huyền Trang!”
“Vương Huyền Sách!”
Thì ra người này chính là tặc soái “Người Bất Lương” của Đại Đường, thân phận công khai là trưởng sử hữu vệ suất của phủ thái tử, Vương Huyền Sách! Năm Trinh Quán thứ ba, Huyền Trang xuất quan Tây du, gặp sự kiện Chiếc bình của vua Đại Vệ, phía sau chính là Vương Huyền Sách thay mặt Đại Đường đấu trí với Tây Đột Quyết và các tiểu quốc Tây Vực. Hai người cũng coi như từng đồng cam cộng khổ, cùng chung hoạn nạn. Mười mấy năm không gặp, Vương Huyền Sách đã gần bốn mươi, trên gương mặt nho nhã phóng khoáng đã in hằn dấu tích của năm tháng, càng trở nên trầm ổn chín chắn. Trên người hắn còn mặc quan phục Đại Đường màu đỏ, hông đeo ngư phù[120] bạc, rõ ràng không ăn nhập gì với đám quý tộc Thổ Phồn.
Hai người ngơ ngác nhìn nhau, đột nhiên Vương Huyền Sách cất tiếng cười to thoải mái, bước nhanh tới chào Huyền Trang: “Đại sư! Đại sư! Chẳng lẽ ngài có phép thần thông hay sao? Ta tìm tăng nhân Thiên Trúc chính là để hỏi thăm tung tích của ngài, ngài lại trực tiếp đến trước mặt ta rồi!”.
“Vương trưởng sử, vì sao ngài lại ở chỗ của người Thổ Phồn?”, Huyền Trang còn khó hiểu hơn: “Vì sao phải hỏi thăm tung tích của bần tăng?”.
Vương Huyền Sách ngẩn ra, không nhịn được cười khổ, nói: “Đại sư, đều là bởi vì ngài! Nào nào nào, ta giới thiệu một chút đã. Vị này chính là Tùng Tán Cán Bố, tán phổ Thổ Phồn!”.
Lúc này Huyền Trang mới chú ý tới nam tử trẻ tuổi để bím tóc, vấn khăn hình ngọn tháp, bên mép để hai chòm râu, cũng bởi vì người này quá trẻ.
Trên thực tế, lúc này Tùng Tán Cán Bố mới chỉ hai mươi tư tuổi. Năm hắn mười ba tuổi, cha hắn là Lãng Nhật Tùng Tán[121] (Namri Songtsen) bị cựu thần đầu độc chết trong cuộc đấu đá giữa cựu thần và tân thần của bộ lạc Nhã Long, đế quốc Thổ Phồn vừa thống nhất đã có chiều hướng sụp đổ. Trong có cựu thần Nhã Long và gia tộc vương hậu làm phản, ngoài có bộ tộc cũ của các vương quốc Tượng Hùng và Tô Bì phất cờ trở lại. Sau khi lên ngôi, Tùng Tán Cán Bố chăm lo việc nước, thành lập một quân đoàn mười ngàn người, chinh chiến ba năm, đuổi cùng giết tận đám cựu thần Nhã Long đã đầu độc cha mình, bình định nội loạn. Hắn tràn đầy tinh lực, có hùng tài đại lược, đầu tiên là lấy phương thức nộp tô thuế để hàng phục Tô Bì, sau đó giết quốc vương Tượng Hùng là Lý Niếp Tú, khiến Đông nữ quốc lại phải di chuyển về phía tây, thống nhất cả cao nguyên. Sau đó hắn dời đô đến thành La Ta, thoát khỏi sự khống chế đối với chính quyền của cựu thân Nhã Long, quốc lực phát triển không ngừng. Mấy năm trước lại liên tiếp đánh bại Đảng Hạng[122], Bạch Lan Khương[123], Thổ Dục Hồn, hùng bá cao nguyên.
Tùng Tán Cán Bố cũng đang quan sát Huyền Trang. Vương Huyền Sách vừa đến Thổ Phồn đã không ngừng tìm thương nhân và tăng lữ đến từ Thiên Trúc để hỏi thăm, Tùng Tán Cán Bố cũng đã nghe ngóng được, chẳng những biết quan hệ giữa tăng nhân này với Lý Thế Dân mà cũng biết rõ danh tiếng của Huyền Trang ở Thiên Trúc. Câu chuyện Huyền Trang tranh biện với Ngũ Thiên Trúc, được tôn là Đại Thừa Thiên cũng khiến Tùng Tán Cán Bố rất ngưỡng mộ. Lúc này được thấy phong thái của Huyền Trang, Tùng Tán Cán Bố cảm thấy còn hơn cả lời người đời vẫn đồn thổi.
Tùng Tán Cán Bố cười nói: “Thanh danh của đại sư, ta ở tận cao nguyên cũng đã được nghe từ lâu. Không ngờ hôm nay lại có thể được nghênh đón đại sư giá lâm, đúng là hết sức vui mừng”.
Tùng Tán Cán Bố sai người thu bản đồ, mang đồ ăn và rượu lên tiếp đãi Huyền Trang và Na Thuận. Hắn tự tay rót nước nho đầy chiếc ly bằng sừng trâu cung kính mời Huyền Trang.
Vương Huyền Sách hỏi: “Đại sư, ngài vì chuyện gì lại tới Thổ Phồn?”.
Huyền Trang nhìn hắn một cái: “Vậy còn Vương trưởng sử lại vì chuyện gì mà tới đây?”.
“Ta ấy à?”, Vương Huyền Sách cười khố: “Ta là bị hoàng đế bệ hạ đuổi tới làm đồ đệ của ngài”.
Lần này đến phiên Huyền Trang nghẹn lời: “Làm đồ đệ của bần tăng? Lời này là sao?”.
Vương Huyền Sách cười khổ kể lại những chuyện đã xảy ra, Huyền Trang vô cùng cảm động. Ngài và Lý Thế Dân vốn không giao thiệp nhiều, chỉ là khi đọ sức với Thôi Giác dưới ngục Nê Lê ở Hoắc Ấp đã cứu Lý Thế Dân một mạng, sau đó mới biết kỳ thực Lý Thế Dân đã biết từ trước. Nhưng Lý Thế Dân vẫn đối đãi với ngài hết sức trọng hậu, vạn phần cung kính. “Sự trọng đãi của bệ hạ, bần tăng luôn khắc ghi trong lòng”, Huyền Trang nhìn về hướng đông bắc chắp tay kính cẩn hành lễ.
“Ôi!”, Vương Huyền Sách lại thở dài: “Đại sư, ngài nói xem ta còn có lựa chọn nào khác không? Có ai lại muốn đến sa mạc Mạc Hạ Diên chịu gió cát sa mạc chứ? Vừa hay công chúa Văn Thành được gả cho tán phổ, ta liền theo sứ đoàn hộ tống công chúa của quận vương Giang Hạ đến Thổ Phồn. Ta đã nán lại Thổ Phồn mấy tháng, chỉ cần có thương nhân từ Thiên Trúc đến liền tới gặp dò hỏi tin tức của ngài, không ngờ hôm nay ngài lại xuất hiện ở nơi này! Xem ra đây cũng coi như là Phật duyên của ta”.
Vương Huyền Sách đứng lên, cung kính quỳ xuống đất: “Đệ tử Vương Huyền Sách phụng hoàng mệnh bái sư. Khẩn cầu đại sư xuống tóc cho”.
Tùng Tán Cán Bố ngây người: “Chờ đã, Vương trưởng sử, ngài thật sự phải xuất gia hay sao?”.
“Không xuất gia thì còn có thể làm thế nào?”, Vương Huyền Sách cũng không cam tâm tình nguyện: “Hoàng mệnh khó trái!”.
“Nhưng…”, Tùng Tán Cán Bố có chút lúng túng: “Vương trưởng sử, ngài có tài trí sách lược kiệt xuất, bàn mưu tính kế bày binh bố trận, chính là cái tài của người làm tướng, sao có thể xuất gia làm một tăng nhân?”.
“Còn có thể làm khác sao?”, Vương Huyền Sách hỏi hắn.
Tùng Tán Cán Bố cũng không biết làm thế nào cho phải, nhìn Huyền Trang thỉnh cầu giúp đỡ. Huyền Trang suy nghĩ một lát, hỏi: “Vương trưởng sử, bệ hạ có tước bỏ chức quan của ngài không?”.
“Không!”, Vương Huyền Sách nói.
“Nếu đã vậy thì bần tăng cũng không thể xuống tóc cho ngài. Nhưng hoàng mệnh không thể trái, ngài không cần xuống tóc, chỉ cần làm một tu sĩ lãnh thọ ngũ giới là được”, Huyền Trang nói: “Bần tăng trước kia từng có hai đệ tử, đại đệ tử A Thuật, nhị đệ tử Khúc Trí Thịnh, hai người họ ngài đều biết. Từ nay về sau ngài chính là tam đồ đệ của bần tăng, ban cho ngài pháp hiệu là Ngộ Tịnh”.[124]
Vương Huyền Sách mừng rỡ, lập tức quỳ lạy: “Sư phụ, Ngộ Tịnh giải nghĩa ra sao?”.
Huyền Trang nói: “Ngài suy nghĩ quá nhiều, tâm tư bất định, khi ngài lĩnh ngộ được sự thanh tịnh nơi ngã Phật, đó cũng chính là lúc ngài đã hoàn toàn giác ngộ, bần tăng sẽ để ngài quay về với triều đình”.
“E rằng vĩnh viễn khó mà quay về được”, Vương Huyền Sách than thở, cởi khăn vấn đầu ra, xõa tóc xuống. Huyền Trang mượn Tùng Tán Cán Bố một chiếc đai, bó tóc hắn lại. Tùng Tán Cán Bố rất hào phóng, lập tức tìm một chiếc đai vàng đưa cho Vương Huyền Sách, nói: “Vương trưởng sử, thầy trò các ngài vân du tứ phương, lúc gặp khốn khó hãy bán chiếc đai vàng này đi, cũng có thể đổi được một ít thóc gạo”.
Những lời này làm Vương Huyền Sách chớm lệ. Đường đường quan chức tòng ngũ phẩm Đại Đường, từ nay lại là người trong Phật môn. Ngũ giới của tu sĩ là không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Ba giới trước tạm chưa tính, nhưng nếu không được nói dối, đường đường là tặc soái của “Người Bất Lương”, làm sao còn có thể thực hiện được sách lược “hợp tung liên hoành[125]” của đại quốc đây? Còn không được uống rượu… Vương Huyền Sách dự cảm được những tháng ngày thê lương của mình đã tới rồi.
Tùng Tán Cán Bố lập tức mở tiệc tiếp đãi Huyền Trang, hắn sai người mang mấy túi rượu thanh khoa[126] lên, nói với Vương Huyền Sách, nếu sau này đã không thể uống rượu, vậy thì đêm nay phải uống cho đã đời mới được.
Mọi người ngồi dưới đất, vừa uống rượu vừa trò chuyện. Huyền Trang thì uống trà thanh khoa Thổ Phồn. Lúc trò chuyện mới biết chuyện lần này công chúa Văn Thành được gả tới Thổ Phồn cũng chứa đầy âm mưu toan tính thâm sâu của Đại Đường.
Thì ra ba năm trước, khi Tùng Tán Cán Bố thống nhất cao nguyên, quân tiên phong đi đến đâu, các vương hầu đều cúi đầu phục tùng đến đó. Hoàng đế Lý Thế Dân không rõ người này ra sao, liền phái Phùng Đức Hà đi sứ Thổ Phồn tìm hiểu hư thực.
Khi đó Tùng Tán Cán Bố mới hai mươi mốt tuổi, thấy đế quốc Trung Nguyên cũng muốn giao hảo với mình, hết sức đắc ý.
Sau đó qua trao đổi mới biết được Đảng Hạng, Đột Quyết đều lấy công chúa Đại Đường, Tùng Tán Cán Bố cảm thấy có chút mất mặt, liền phái sứ giả cùng với Phùng Đức Hà đến Trường An, muốn cầu thân công chúa Đại Đường. Lý Thế Dân không hiểu tình hình Thổ Phồn mới trỗi dậy, vì vậy cũng không coi trọng, lập tức từ chối. Sứ giả Thổ Phồn lo sợ không biết phải truyền đạt với tán phổ ra sao đành phải bịa đặt ra một lời nói dối, nói rằng ban đầu đến Đại Đường được đối đãi rất hậu, hứa gả công chúa cho. Sau đó quốc vương Thổ Dục Hồn vào triều, dùng lời ly gián, chê chúng ta lễ mỏng, vì thế không gả cho nữa.
Tùng Tán Cán Bố giận tím mặt, cảm thấy lòng tự trọng bị sỉ nhục, thế là đưa quân đánh Thổ Dục Hồn. Quốc vương Thổ Dục Hồn là Nặc Hạt Bát[127] (Nuohebo) lúc này vẫn là một tiểu hài tử mới vài tuổi, đúng là đóng cửa ngồi trong nhà cũng gặp họa từ trên trời rơi xuống.
Thổ Dục Hồn bị Đại Đường đánh bại ngay từ năm Trinh Quán thứ chín, quốc vương Thổ Dục Hồn là Phục Doãn[128] (Fuyun) tự sát, quốc gia bị chia cách hai nửa đông tây, đại thần tranh quyền, nội bộ vương quốc hỗn loạn. Tùng Tán Cán Bố sớm đã nhòm ngó Thổ Dục Hồn, mượn cớ này ngang nhiên phát binh, chẳng những đánh tan Thổ Dục Hồn mà còn thừa thắng đánh tan cả người Đảng Hạng và người Bạch Lan Khương.
Nắm chắc thế cục đang thắng lớn, Tùng Tán Cán Bố lại đưa quân đến Tùng Châucủa Đại Đường, đóng quân ở phía tây Tùng Châu, viết cho Lý Thế Dân một bức thư cầu thân lời lẽ cứng rắn: Nếu đại quốc không gả công chúa cho ta, ta sẽ lập tức dẫn binh xâm lược. Ta sẽ đích thân dẫn năm vạn quân, đánh hạ đô thành của ngươi, chém đầu ngươi, cướp công chúa của ngươi.
Lý Thế Dân vừa xem liền nổi trận lôi đình, hạ chiếu nghiêm khắc trách cứ. Tùng Tán Cán Bố tức giận, quả thật dẫn năm vạn đại quân tấn công Tùng Châu.
Tùng Châu là một đô đốc phủ biên cương, chỉ có hơn một vạn người, đô đốc Hàn Uy coi thường Tùng Tán Cán Bố, vội vàng xuất chiến, kết quả đại bại.
Lý Thế Dân giận tím mặt, quyết phân hơn thua với Tùng Tán Cán Bố, ngươi nói dùng năm vạn quân đánh ta, ta sẽ phái năm vạn binh đánh ngươi, hạ lệnh cho Hầu Quân Tập dẫn năm vạn quân cùng các tướng Chấp Thất Tư Lực, Ngưu Tiến Đạt, Lưu Lan đón đánh.
Tả vũ vệ tướng quân Ngưu Tiến Đạt làm tiên phong, tiếp chiến Tùng Tán Cán Bố đầu tiên. Khi đó Tùng Tán Cán Bố vây công Tùng Châu, hơn mười ngày không đánh hạ được, Ngưu Tiến Đạt nhân đêm tối tập kích đại doanh Thổ Phồn, quân Thổ Phồn tan vỡ, bị chém đầu hơn ngàn người. Trận chiến này khiến người Thổ Phồn chịu tổn thất không lớn, lại khiến Tùng Tán Cán Bố vốn tự cao tự đại cho mình là giỏi phải lạnh người dè chừng. Mấy năm nay hắn đánh đâu thắng đó, đánh đâu được đó, sau khi được thấy sức chiến đấu của phủ binh tinh nhuệ Đại Đường liền không khỏi chấn động. Nhưng đã tuyên bố hùng hồn rồi, ngạo khí của Tùng Tán Cán Bố cũng bị kích động, định dẫn quân tái chiến. Các quan lại Thổ Phồn biết rõ trận này không thể đánh tiếp, bởi vì quân đội chủ lực của Đại Đường còn chưa đến, mới chỉ có quân đội tiên phong đã khiến mình chật vật như thế, tái chiến kiểu gì? Huống hồ mấy năm nay Thổ Phồn liên tục thảo phạt khắp nơi, lần lượt tiêu diệt nhiều quốc gia, hậu phương chưa vững, một khi tiền tuyến chiến bại, hậu quả sẽ không thể cứu vãn được.
Chúng thần hết lời khuyên can, Tùng Tán Cán Bố nhất định không chịu lui binh. Đại thần Thổ Phồn cũng rất chính trực, tán phổ không lui binh, ta quyết lấy cái chết can gián! Liên tiếp tám vị đại thần tự vẫn, Tùng Tán Cán Bố không chống đỡ được nữa, đành phải lui binh.
Sau khi Tùng Tán Cán Bố lui về thành La Ta lại cầu thân một lần nữa. Lần này bởi vì đã thấy được sức mạnh của Đại Đường, Tùng Tán Cán Bố quyết định phái đại luận[129] Lộc Đông Tán mang năm ngàn lượng vàng, mấy trăm món bảo vật tới, thành tâm cầu thân. Mà Lý Thế Dân qua trận chiến này cũng đã biết được sức chiến đấu của đế quốc Thổ Phồn mới nổi, tâm ý bị lay động, liền đồng ý gả công chúa Văn Thành cho Tùng Tán Cán Bố.
Mùa xuân năm nay Lý Thế Dân lệnh cho biểu đệ của mình, thượng thư bộ Lỗ, Giang Hạ quận vương Lý Đạo Tông hộ tống công chúa Văn Thành đến Thổ Phồn. Tùng Tán Cán Bố đích thân dẫn đại quân nghênh đón tại Hà Nguyên, nhìn thấy Lý Đạo Tông, Tùng Tán Cán Bố đặc biệt cung kính, dùng lễ của bậc hậu bối trong gia đình để đối đãi. Nhìn thấy người Đại Đường phục sức hoa mỹ, lễ nghi tao nhã, Tùng Tán Cán Bố vừa mất tinh thần vừa hổ thẹn, càng quyết tâm hoàn thành hoài bão biến Thổ Phồn thành cường quốc đương thời.
Vương Huyền Sách kể chuyện công chúa Văn Thành vào Thổ Phồn, giống như một người kể chuyện rong.
Tùng Tán Cán Bố nghe mà cười gượng không thôi: “Để Vương trưởng sử phải chê cười rồi, Tùng Tán có được Văn Thành như có được báu vật. Tổ tiên ta chưa từng có người thông hôn với thượng quốc, nay ta có thể cưới công chúa Đại Đường, thật sự vô cùng may mắn. Đợi tây chinh kết thúc trở lại thành La Ta, ta sẽ xây dựng cho công chúa một tòa thành trì, để hậu thế chứng kiến tình hữu nghị giữa Thổ Phồn ta và Đại Đường”.
Huyền Trang nghe kể cũng buồn cười, có lúc các đại quốc tranh đấu lại không khác gì trẻ nhỏ tranh giành, nhưng có ai biết được phía sau trò hiếu thắng con trẻ này lại là vô số mạng người.
Giữa buổi yến tiệc, Huyền Trang nhắc tới việc muốn tìm một người Tô Bì nữ quốc để hỏi một số chuyện xưa.
Tùng Tán Cán Bố cười lớn: “Đại sư tìm đúng người rồi, hôm nay dũng sĩ Thổ Phồn ta đã bắt được nữ vương Tô Bì. Còn có ai hiểu Tô Bì hơn bà ta, sáng sớm ngày mai ta sẽ sai người đưa nữ vương đến, ngài cứ hỏi thoải mái.
Huyền Trang cảm tạ không ngừng.
Hôm nay Thổ Phồn đại thắng, người Thổ Phồn bắt đầu mở tiệc ăn mừng. Tùng Tán Cán Bố phải đi tham gia yến tiệc, cổ vũ lòng quân, rượu uống ngà ngà liền cáo từ. Hắn mong muốn hai người tham dự, lại bị Huyền Trang lấy cớ đi đường mệt nhọc từ chối khéo. Tùng Tán Cán Bố cũng không nài ép, lập tức sắp xếp lều cho họ nghỉ ngơi.
Lều cách vương trướng không xa, Huyền Trang, Vương Huyền Sách và Na Thuận theo nội tướng đi về lều của mình, trên đường nhìn thấy người Thổ Phồn vây quanh đống lửa vừa múa vừa hát, hoan hô nhảy nhót, còn có một số quý tộc kéo các nữ tù binh Đông nữ quốc đến mua vui.
Huyền Trang không nỡ nhìn, nhắm măt lặng lẽ đi qua.
Vương Huyền Sách lại nói: “Sư phụ, ngài dường như có chút không đành lòng?”.
“Ngươi nói xem”, tâm tình Huyền Trang không tốt lắm.
“Không giấu sư phụ, lần này Thổ Phồn tây chinh là do đệ tử xúi giục”, Vương Huyền Sách cười nói.
Huyền Trang ngẩn ra: “Vì sao lại thế?”.
“Bởi vì Đại Đường đã tiến vào Tây Vực”, Vương Huyền Sách nói: “Sư phụ có lẽ còn không biết, huynh đệ kết nghĩa của ngài, quốc vương Cao Xương - Khúc Văn Thái đã chết. Năm ngoái hoàng đế bệ hạ phái binh công chiếm Cao Xương, Cao Xương cũng diệt vong rồi”.
“Quốc vương Cao Xương, Cao Xương diệt vong?” Huyền Trang lập tức kinh ngạc: “Rốt cuộc là chuyện gì?”.
Huyền Trang có giao tình sâu đậm với quốc vương Cao Xương - Khúc Văn Thái. Năm Trinh Quán thứ ba, lúc ngài Tây du đi qua Cao Xương đã cùng Khúc Văn Thái kết nghĩa huynh đệ và giúp ông ta bình định một trận nội loạn ở Cao Xương, sau đó thậm chí còn nhận tam hoàng tử của ông ta là Khúc Trí Thịnh làm nhị đệ tử. Khúc Văn Thái dốc hết quốc lực giúp Huyền Trang Tây du, chuẩn bị hai mươi tư phong thư và hai mươi tư cuộn lụa cho hai mươi tư quốc vương các vương quốc mà Huyền Trang đi qua trên đường, cứ đi qua một nơi lại đưa lên thư và lụa, thỉnh cầu những vị quốc vương này chăm sóc Huyền Trang.
Điều kiện duy nhất của Khúc Văn Thái là mời Huyền Trang ở lại Cao Xương ba năm để mình phụng dưỡng sau khi lấy kinh trở về. Trong đời này Huyền Trang đã kết giao với vô số quốc vương, để nói thật sự là tương giao, tình cảm sâu nặng lại chỉ có Khúc Văn Thái. (Xem “81 án Tây du: Tây Vực liệt vương ký”)
Huyền Trang hồn bay phách lạc, nhớ lại phong thái của Khúc Văn Thái, hai mắt bất giác ướt lệ, cổ họng nghẹn ngào.
Vương Huyền Sách từng tận mắt nhìn thấy Huyên Trang giao thiệp với Khúc Văn Thái, biết rõ tình cảm của hai người, cũng có chút buồn bã, lập tức kể lại một lượt chuyện Cao Xương bị diệt vong.
“Trước khi Khúc Văn Thái chết, nhị sư huynh Khúc Trí Thịnh của đệ tử trở lại Cao Xương. Sau khi kế thừa vương vị, Khúc Trí Thịnh ra ngoài thành đầu hàng,” Vương Huyền Sách nói: “Đẹ tử đã gặp Khúc Trí Thịnh ở Trường An, nhị sư huynh rất nhớ sư phụ. Nhị sư huynh nhờ đệ tử chuyển lời cho sư phụ, nói nhị sư huynh vẫn rất ổn, mặc dù làm quốc vương vong quốc nhưng lại giúp con dân Cao Xương tránh được ngọn lửa chiến tranh, trong thâm tâm cũng thấy an lòng”.
Huyền Trang thương cảm trong lòng: “Cao Xương bây giờ như thế nào?”.
“Hiện nay đã không còn Cao Xương, bệ hạ lập phủ đô hộ An Tây ở thành Giao Hà, các tiểu quốc như Yên Kỳ, Quy Từ tới tấp thần phục. Bây giờ quân tiên phong Đại Đường đã tiến vào Tây Đột Quyết, đang đuổi hươu với Tây Đột Quyết trên đại thảo nguyên.” Vương Huyền Sách nói: “Cho nên đệ tử mới thuyết phục Tùng Tán Cán Bố tây tiến, chỉ cần hắn tiến vào Vu Điền, chẳng khác nào một mũi đao cắm thẳng vào Tây Đột Quyết, Đại Đường ta chinh phục Tây Đột Quyết tất sẽ càng thêm thuận lợi”.
“Chẳng lẽ Tùng Tán Cán Bố cam chịu để ngươi lợi dụng sao?”, Huyền Trang hỏi.
Vương Huyền Sách cười lạnh: “Sư phụ, Tùng Tán Cán Bố chính là một thế hệ nhân kiệt, dù tuổi còn trẻ nhưng ý chí bừng bừng, lúc đầu hắn cầu thân Đại Đường kỳ thực có ý thăm dò, may mà quân đội Đại Đường ta đang mạnh nên đánh hắn lui về. Nhưng hùng tâm của Tùng Tán Cán Bố sao có thể để yên? Để tránh bị hắn dòm ngó tới, chỉ còn cách đưa hắn đến Tây Đột Quyết”.
“Mưu kế của đại quốc, có bao nhiêu người làm oan hồn chiến thành nam, chết thành bắc đây”, Huyền Trang thở dài.
“Đúng vậy!” Vương Huyền Sách nói: “Thế giới sa bà vốn tàn khốc như vậy, sức người của chúng ta có khả năng thay đổi, đều chỉ là vì muốn bảo vệ ngôi nhà của chính chúng ta. Nếu không dẫn quân đội của Tùng Tán Cán Bố sang hướng tây, để hắn sang đông lên bắc tiến vào Đại Đường ta, biên cương Đại Đường ta lại có bao nhiêu người thê tử li tán, cửa nát nhà tan?”.
Huyền Trang im lặng, thấy những lời Vương Huyên Sách nói đều là sự thật, trong lòng lại đau nhói không thôi. Ba người lặng lẽ đi lại trong đại doanh Thổ Phồn, ánh trăng cao nguyên chiếu sáng doanh trại, chiếu xuống đống lửa và tiếng hát, càng cảm thấy trời xanh mênh mông, tất cả đều vô tình.
“Là bệ hạ lệnh ngươi làm sao?”, Huyền Trang hỏi.
“Bệ hạ?” Vương Huyền Sách bật cười: “Làm gì có chuyện đó? Bệ hạ cách xa hàng ngàn dặm, làm sao biết cục diện Thổ Phồn? Đối sách được bệ hạ áp dụng là nâng đỡ Thổ Dục Hồn, kiềm chế người Thổ Phồn, còn đối sách của đệ tử là làm cho người Thổ Phồn phát triển về hướng tây”.
“Đại quốc tranh đấu thế này, chỉ khẽ động đã chết mấy vạn người, hủy diệt nhiều vương quốc, ngươi lại làm việc tùy hứng như thế”, Huyền Trang trở nên nghiêm khắc: “Cả gan làm loạn, chính là nói những người như ngươi!”.
Vương Huyền Sách vừa định phản bác, đột nhiên nhớ tới thân phận của hai người bây giờ, lập tức ngượng ngùng: “Sư phụ trách mắng rất đúng”.
°°°
Ngày thứ hai, Tùng Tán Cán Bố quả nhiên đưa nữ vương Tô Bì tới gặp như đã hứa.
Nữ vương Tô Bì năm nay đã gần năm mươi tuổi, tóc đã điểm hoa râm, dáng hình cũng có chút tiều tụy nhưng phong thái khí độ lại không hề giảm. Trên người vẫn mặc vương phục bằng lụa xanh, ngoài khoác áo bào, tay áo dài quét đất, trên tai còn đeo bông tai vàng. Nữ vương đời này tên là Thang Bàng Thị, làm tiểu vương[130] mười sáu năm, làm nữ vương tám năm. Năm đó Tô Bì hùng mạnh gần như thống trị cao nguyên, ngay cả người Thổ Phồn cũng từng là phiên thuộc của Tô Bì, phong thái vương giả được dưỡng thành sau nhiều năm làm người ta không dám nhìn thắng.
Nữ vương Tô Bì được Vương Huyền Sách với hơn mười binh lính Thổ Phồn áp giải vào lều, lẳng lặng nhìn Huyền Trang, nói bằng tiếng Phạn lưu loát: “Ngươi là người muốn gặp bản vương?”.
“A Di Đà Phật!”, Huyền Trang cúi người chắp tay: “Bần tăng Huyền Trang, ra mắt nữ vương bệ hạ”.
“Quốc vương của Tô Bì ta được gọi là tân tựu, ngươi xưng hô bản vương là tân tựu là được”, nữ vương Tô Bì nói.
“Tham kiến tân tựu!”, Huyền Trang nói: “Bần tăng mặc dù là người Đại Đường, nhưng lại là đệ tử của đại sư Giới Hiền ở chùa Na Lan Đà, lần này từ Thiên Trúc đi tới Thổ Phồn là để đến quý quốc, không ngờ đúng lúc quý quốc và Thổ Phồn giao tranh, lại gặp tân tựu ở chỗ này”.
Nữ vương Tô Bì có chút kinh ngạc: “Ngươi là đệ tử của đại sư Giới Hiền? Hơn mười năm trước ta từng đích thân đến chùa Na Lan Đà bái kiến đại sư Giới Hiền. Bây giờ sức khỏe của đại sư Giới Hiền vẫn tốt chứ?”.
“Sư tôn vẫn ổn, sức khỏe vẫn tốt, chỉ có chứng thống phong vẫn thường hay phát tác”, Huyền Trang nói.
Nữ vương Tô Bì nghe vậy mới tin, gật gật đầu: “Ngươi quả nhiên là đệ tử của đại sư Giới Hiền. Đại sư Giới Hiền sớm đã không còn khai đàn thu nạp đồ đệ, ngươi trẻ tuổi như thế, đại sư Giới Hiền lại có thể phá lệ vì ngươi, chắc hẳn ngươi cũng là cao tăng đại đức. Thôi được, ngươi nói đi, đến Tô Bì gặp ta có chuyện gì?”.
“Bần tăng muốn hỏi thăm một người”, Huyền Trang nói.
“Nàng tên là Liên Hoa Dạ!”, Na Thuận sốt ruột xen vào.
“Liên Hoa Dạ?” sắc mặt nữ vương Tô Bì lập tức thay đổi, vẻ mặt dường như có chút sợ hãi, có chút chờ mong, lại có cả ngọt bùi cay đắng lẫn lộn, ngay cả tay áo dài cũng hơi run run.
“Tân tựu, ngài biết Liên Hoa Dạ?” Na Thuận hưng phấn chạy tới, nhìn bà đầy chờ mong.
Nữ vương Tô Bì im lặng một lúc lâu mới chậm rãi gật đầu, nói: “Ta đương nhiên biết. Trong Tô Bì rất hiếm có ai là không biết nó. Các ngươi làm sao biết nó? Chẳng lẽ bây giờ nó còn sống?”.
Huyền Trang gật đầu: “Còn sống”.
“Nó bây giờ thế nào rồi?”, nữ vương Tô Bì quan tâm.
“Không được tốt lắm”, Huyền Trang thành thật trả lòi.
“Cũng đúng!”, nữ vương Tô Bì thở dài: “Người như nó, cuộc đời này sao có thể tốt được. Bây giờ nó làm gì?”.
“Nàng…”, Na Thuận buồn bã trong lòng: “Nàng bây giờ làm kỹ nữ ở Càn Đà La”.
Nữ vương Tô Bì biến sắc mặt, lẩm bẩm nói: “Không ngờ lại thật sự ứng nghiệm, chẳng lẽ vẫn không chạy thoát được?”.
“Rốt cuộc là chuyện gì? Tân tựu, ngài làm ơn hãy nói cho ta biết!”, Na Thuận liên tục vặn hỏi.
Nữ vương Tô Bì yên lặng, chậm rãi nói: “Nó là một người chuyển thế. Kiếp trước, kiếp này, tương lai đều sẽ rơi vào luân hồi, không thể chạy thoát”.
Na Thuận kích động toàn thân run rấy: “Quả nhiên như thế, quả nhiên như thế! Tân tựu, xin ngài hãy nói tường tận, Liên Hoa Dạ rốt cuộc có bí mật gì?”.
“Ngươi và Liên Hoa Dạ có quan hệ gì?”, nữ vương Tô Bì nhìn hắn.
“Ta…”, Na Thuận nói đắng chát: “Ta cũng không biết. Có lẽ là kiếp trước ta và nàng có chút túc duyên chưa dứt”.
“A, ngươi tình cờ rơi vào vòng luân hồi này”, nữ vương Tô Bì thở dài: “So với nó, ngươi vẫn còn hạnh phúc”.
Mắt Na Thuận hơi đỏ lên: “Ta biết, Liên Hoa Dạ đã chịu rất nhiều đau khổ. Cho nên ta muốn tra rõ, kiếp trước ta và nàng rốt cuộc có vương vấn gì, ta muốn cứu nàng, cứu nàng khỏi vòng luân hồi này, từ nay sẽ bảo vệ nàng, không còn để nàng bị tốn thương nữa. Tân tựu, xin ngài nói với ta, Liên Hoa Dạ rốt cuộc có bí mật gì?”.
“Năm đó Tô Bì ta ở Khương Đường, quốc mạch kéo dài hơn bảy trăm năm, có hơn mười tiểu quốc phụ thuộc. Chúng ta trồng túc mạch, đào luyện vàng, buôn bán muối ăn, người trong vương quốc đông đúc, cơm áo không lo”, nữ vương Tô Bì chậm rãi kể: “Ta họ Thang Bàng Thị, hai mươi tư năm trước ta vẫn là một quý nhân trong vương tộc, còn chưa được chọn làm tiểu vương. Bởi vì nữ vương qua đời, tiểu vương kế vị làm nữ vương, ta được đề cử làm tiểu vương, bắt đầu tham dự việc nước. Cũng chính vào lúc này, trong vương tộc sinh ra một bé gái, mắt đen như mực, tóc như đêm đen, da trắng muốt như sữa, nữ vương đặc biệt yêu thích, đặt tên là Liên Hoa Dạ. Khi đó mọi người đều cho rằng, sau khi ta kế vị, Liên Hoa Dạ rất có khả năng sẽ là tiểu vương tương lai. Tuy nhiên bảy năm sau Liên Hoa Dạ trở thành một cô bé như được mài bằng ngọc, đột nhiên có ngày lại nói tiếng Phạn. Nữ vương cực kỳ kinh ngạc, hạ lệnh điều tra, được biết Liên Hoa Dạ không ngờ lại là một người chuyến thế, đời trước của nó làm mọi người cực kỳ sợ hãi. Nữ vương lại mời thầy pháp đến xem quẻ, nhận được điềm báo đại hung, là vận mất nước. Nữ vương hạ lệnh diệt khẩu những người biết chuyện, bí mật giấu Liên Hoa Dạ đi”.
Huyền Trang, Vương Huyền Sách và Na Thuận đều kinh ngạc, trong lòng như có sóng to gió lớn. Bọn họ cũng đã nghĩ bí mật của Liên Hoa Dạ hết sức kinh người, không ngờ lại li kỳ cổ quái đến mức này.
“Kiếp trước của nàng rốt cuộc là người nào?”, Huyền Trang không nhịn được hỏi.
“Không thể nói, không thế hỏi, không thể tra”, nữ vương Tô Bì hơi run rẩy, vẻ mặt như đang cố nén sợ hãi, nghiêm khắc khuyên răn: “Ta cũng sẽ không nói, bởi vì một khi bí mật trên người Liên Hoa Dạ được tiết lộ tất sẽ khiến quốc gia sụp đổ, khói lửa loạn lạc”.
Na Thuận lại không thèm quan tâm, hét to: “Ta mặc kệ! Bất kể đất rung núi lở, máu lửa đầy trời, ta đều phải biết nàng rốt cuộc là ai, còn ta lại ở chốn nào!”.
“Nếu ngươi không hối hận, ta sẽ nói cho ngươi!”, nữ vương Tô Bì cười lạnh: “Kiếp trước của nó chính là tiểu vương của Tô Bì ta, Diễn La Na!”.
Cái tên này ba người đều rất xa lạ, Huyền Trang chắp tay hỏi: “Vậy vị tiểu vương Diễn La Na này lại có gì kỳ lạ?”.
Nữ vương Tô Bì thở dài: “Đây là sự sỉ nhục của Tô Bì ta, ngươi đã muốn nghe, ta sẽ nói cho ngươi nghe. Diên La Na sinh ra không lâu đã được vương tộc và thầy pháp lựa chọn làm tiểu vương. Năm hai mươi mốt tuổi, trong một cuộc chiến với Ca Thấp Di La, quân đội của Diễn La Na bị diệt, Diễn La Na bị bắt làm tù binh. Để làm nhục Diễn La Na, quốc vương Ca Thấp Di La bán nàng vào kỹ viện làm kỹ nữ. Sáu năm sau vương tử của Thản Ni Sá[131] (Rajyavardhan) tình cờ gặp nàng, si mê nàng, chuộc nàng ra cưới làm vương hậu”.
Huyền Trang kinh ngạc: “Vương tử Thản Ni Sá? Vương tử nào của Thản Ni Sá?”.
“Tên hắn là Vương Tăng[132] (Rajya Vardhan)”, nữ vương Tô Bì nói.
Sắc mặt Huyền Trang lập tức trở nên nghiêm nghị, trầm ngâm không nói. Vương Huyền Sách với Na Thuận lại không hiểu lắm, hai người hỏi dò, Huyền Trang mới thở dài, đáp: “Vương Tăng chính là huynh trưởng của Giới Nhật Vương. Giới Nhật Vương tên là Hỉ Tăng, có ba huynh muội, ông ta xếp thứ hai, huynh trưởng là Vương Tăng, tiểu muội là La Già Thất Lợi (Rajyashri). Khi đó còn chưa có đế quốc Giới Nhật bây giờ, phụ thân của bọn họ là quốc vương Quang Tăng còn tại thế, định đô ở thành Thản Ni Sá”.
Huyền Trang biết rất rõ đoạn lịch sử này, khi đó đại lục Thiên Trúc chủ yếu có tứ đại cường quốc tranh bá, Thản Ni Sá ở Tây Thiên Trúc, Mục Khắc Lí[133] định đô ở thành Khúc Nữ, Cao Đạt[134] ở Đông Thiên Trúc, Ma Lạp Bà[135] ở Trung Thiên Trúc. Quốc vương Quang Tăng gả công c