← Quay lại trang sách

Chương 9 Sát thủ trong thành Khúc Nữ, -đàm phán và chân tướng

Trở lại đất Thiên Trúc này, Huyền Trang đã vô cùng quen thuộc. Sau khi bôn ba ngàn dặm mới về tới thành Khúc Nữ, ngài lại phát hiện có tiếng kèn lệnh, trên thành cờ xí phấp phới, tể tướng Bà Ni tự mình đi ra nghênh đón. Huyền Trang hỏi người qua đường xung quanh mới biết, không ngờ Y Tự Hầu đệ tam lại đích thân tới thăm Thiên Trúc.

Điều này khiến Huyền Trang vô cùng kinh ngạc, từ xưa tới nay rất ít khi đế vương một quốc gia tự mình đi đến quốc gia khác, đặc biệt là khi Ba Tư và Thiên Trúc đang ở trong tình hình phức tạp như vậy, tại sao Y Tự Hầu đệ tam lại đích thân đến thành Khúc Nữ? Ông ta không sợ bị Giới Nhật Vương giam giữ hay sao?

Lúc này lại thấy từ xa xa có bụi bay mù trời, tiếng gót sắt chấn động. Thứ đầu tiên lọt vào tầm mắt là từng lá vương kỳ Ba Tư, sau đó là quân đoàn bất tử năm trăm người ầm ầm lao tới. Quân đoàn trang bị trọng giáp toàn thân này đi tới đâu cũng mang đến một sức mạnh áp đảo làm mọi người phải kinh hãi. Còn quốc vương Ba Tư - Y Tự Hầu đệ tam thì được quân đoàn bất tử bảo vệ xung quanh, từ xa đi tới, bên cạnh còn có các quan chức của đế quốc Giới Nhật đi cùng.

Huyền Trang cũng không còn xa lạ gì với đám người của đế quốc Ba Tư, nhìn kĩ lại không thấy đại ma cát và thống soái quân đội Phi Lỗ Tán đâu, bảo hộ cho Y Tự Hầu đệ tam là hai quân đoàn trưởng Hách Luân và Nữu Đa Mạn.

Lúc này tể tướng Bà Ni đi tới đón, hai người kính lễ tiến hành nghi thức nghênh tiếp, trong tiếng trống, Bà Ni đón Y Tự Hầu đệ tam vào trong thành.

“Sư huynh, hai người bọn họ tại sao lại thân thiết với nhau rồi?”, Na Thuận thắc mắc.

Huyền Trang lắc đầu: “Có lẽ là trong lúc chúng ta đi tới Thổ Phồn, Càn Đà La lại xảy ra biến cố. Dù sao thì trận quyết đấu đó cũng xem như người Ba Tư đã thua”.

Trên đường đi, Vương Huyền Sách đã tìm hiểu được chuyện xảy ra tại Càn Đà La, lập tức cười nói: “Chuyện quyền mưu tranh bá, lúc hợp lúc tan giữa các cường quốc này không có gì lạ, Y Tự Hầu đệ tam thua trận quyết đấu này chưa chắc đã không phải điều ông ta mong muốn”.

Huyền Trang lại không hiểu: “Sao cơ? Chẳng lẽ ông ta muốn cố ý thua?”.

“Cố ý thua thì chưa chắc, nhưng quyết đấu thất bại e rằng lại vừa đúng với ý nguyện của ông ta”, Vương Huyền Sách giải thích: “Người Ba Tư muốn tới Thiên Trúc tị nạn, có Giới Nhật Vương ở đây, xét cho cùng muốn dùng vũ lực ép buộc là điều không thể, vậy chỉ có thể từ từ đàm phán. Nhưng trước đây hai bên là cường quốc lớn ngang nhau, đế quốc Ba Tư mặc dù đã bị diệt, Y Tự Hầu đệ tam vẫn là quốc vương tôn nghiêm, muốn đàm phán cũng rất khó. Nhưng giờ đây ông ta đánh cược thua, buộc phải hạ thấp địa vị của mình, vừa hay lại là một cơ hội để đàm phán”.

Huyền Trang tỉnh ngộ, nói: “Loại mưu cao kế hiểm này vi sư thật sự không am hiểu. Ngươi nói như vậy lại giải quyết được một nghi vấn trong lòng vi sư. Có điều ngươi có thể đoán được bọn họ rốt cuộc đàm phán thế nào không?”

Vương Huyền Sách bất lực: “Điều này đệ tử sao có thể đoán được? Sư phụ cứ vào thành hỏi một câu sẽ hiểu rõ ngay thôi”.

Huyền Trang bật cười, đợi nghi thức kết thúc liền đi theo dòng người vào trong thành Khúc Nữ.

Vương Huyền Sách lần đầu tiên đến thành Khúc Nữ nên rất tò mò, trên đường vẫn luôn đế ý quan sát xung quanh. Tường thành Khúc Nữ hình vuông, được xây bằng gạch, cao dày chắc chắn, quy mô rất lớn. Nhưng trong thành lại không quy hoạch có trật tự giống như Trương An, phố lớn ngõ nhỏ quanh co, cửa hàng quán rượu rải rác hai bên đường. Tuy nhiên nhà cửa lại cao lớn hơn thành Trường An, nhà cửa của phú hào và chùa điện của các giáo thông thường đều cao ba bốn tầng, lầu các san sát vươn cao lên trời, mái hiên và xà nhà đều chạm khắc những hình vẽ tinh xảo, trên cửa và tường thì vẽ rất nhiều tranh màu.

Vương cung của Giới Nhật Vương lại càng to lớn, lầu các trùng trùng điệp điệp, trên các có lầu, trên lầu có tháp, cả vương cung giống như một sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh xảo.

Trước khi ba người tới vương cung, Y Tự Hầu đệ tam đã được đón vào trong cung, Huyền Trang thông báo họ tên, cầu kiến Giới Nhật Vương. Bây giờ Huyền Trang đã nổi danh khắp Thiên Trúc, cơ hồ không ai là không biết, cấm vệ cung đình không dám chậm trễ, vội vàng bẩm báo. Giới Nhật Vương nghe nói Huyền Trang đã trở về, vội vàng sai người ra đón.

Vào đến sân nhỏ trong vương đình, Giới Nhật Vương dẫn Bà Ni đích thân đi ra nghênh đón, vừa thấy Huyền Trang lập tức sảng khoái cười lớn: “Đại sư, lần trước ta mời ngài giúp thu phục Càn Đà La, ngài một người một ngựa qua sông mà đi, ta vẫn luôn lo lắng. Bây giờ thấy đại sư bình yên trở lại, ta mới yên tâm”.

“Thật hổ thẹn”, Huyền Trang nói: “Khi đó bần tăng đã đồng ý giúp bệ hạ thu phục Càn Đà La, bây giờ không thê hoàn thành, thật sự thẹn với ủy thác của bệ hạ”.

“Đại sư, ngài cần gì phải khiêm tốn như vậy, Càn Đà La ngài đã giúp ta thu phục rồi!” Giới Nhật Vương cười lớn, nhìn thấy Huyền Trang tỏ ra không hiểu lại giải thích: “Đại sư cũng biết, cục diện Càn Đà La bế tắc ở chỗ ai cũng không dám nhúng tay vào, nếu không chắc chắn không thể tránh khỏi giao tranh với ba bên còn lại. Nhưng vì sao ta dám đưa đại quân tới biên giới? Bởi vì đại sư ngài đã tìm được giúp ta một cái cớ! Chính là nhờ ngài đã giúp ta thắng trận cá cược này! Như đã giao ước, quốc vương Càn Đà La phải lệnh cho cả vương quốc quy y, còn người Ba Tư phải rút toàn bộ khỏi Càn Đà La. Nhưng bây giờ thì sao? Quốc vương Càn Đà La chần chừ không làm, Y Tự Hầu đệ tam lại lưỡng lự không đi, vậy nên ta đã mang quân đến ép đuổi, buộc bọn họ thực hiện giao kèo, đây gọi là danh chính ngôn thuận! Đại sư đã giúp ta có được cái cớ này!”.

“Bệ hạ đã xuất binh rồi sao?” Huyền Trang giật mình.

“Đúng vậy”, Giới Nhật Vương tự hào nói: “Ta phái năm vạn đại quân đến đóng ở sông Ấn, mượn danh nghĩa thực hiện giao kèo bức bách Y Tự Hầu đệ tam”.

Huyền Trang ngẩn ra: “Nhưng khi đó ngài nói với bần tăng là phải đợi quốc vương Càn Đà La quy y, ngài và ông ta bí mật liên minh, sau đó mới đưa quân qua sông, không cần đánh vẫn dễ dàng thu phục được Càn Đà La cơ mà?”.

Vương Huyền Sách nghe vậy mới hiểu rõ ngọn nguồn chuyện sư phụ chạy đến Càn Đà La, không nhịn được mà lắc đầu cười khổ.

Quả nhiên Giới Nhật Vương cười lớn: “Thưa đại sư, chuyện giữa quốc gia và quốc gia, chẳng lẽ ta có thể trông chờ vào lòng hướng Phật của quốc vương Càn Đà La hay sao? Cho dù ông ta chịu quy y cửa Phật liệu có chắc sẽ chịu liên minh với ta không? Ta mời đại sư làm vậy kì thực là muốn quốc vương Càn Đà La quy y, từ đó dẫn đến sự nghi kỵ của người Tây Đột Quyết, sau đó ta đưa quân qua sông. Đại quân áp sát biên giới, ông ta mới chịu kết thành đồng minh với ta!”.

“Như vậy là…”, Huyền Trang đã hoàn toàn hiểu ra, lạnh nhạt nói: “Chỉ cần bần tăng đi chuyến này, tất sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh?”.

Giới Nhật Vương nhận ra vẻ bất mãn của Huyền Trang, trầm ngâm không nói gì.

Bà Ni cười nói: “Đại sư, ngài chớ tự trách, cuộc chiến này sớm muộn cũng nổ ra, chỉ là phải xem khi nào bùng nổ, lúc bùng nổ bên nào sẽ chiếm được ưu thế trước mà thôi. Đại sư, ngài giúp đế quốc Giới Nhật ta chiếm được ưu thế trước, đại quân vừa mới uy hiếp, Y Tự Hầu đệ tam đành phải đích thân tới thành Khúc Nữ đàm phán với bệ hạ. Đây đều là công lao của ngài và Sa Bà Mị!”.

Huyền Trang không nói nữa, im lặng lần tràng hạt trong tay, vẻ mặt hơi sầu não.

Giới Nhật Vương nhìn ra tâm tình của Huyền Trang lúc này, cũng không nói thêm nữa, lẳng lặng đón Huyền Trang vào trong vương đình.

Trên một khoảng đất trống giữa vườn trong cung đã dựng cổng chào tiếp đãi Y Tự Hầu đệ tam. Lúc này sắc trời đã tối, trong vườn có đống lửa cháy to, trái cây, rượu và đồ ăn chất đống như núi trên hàng chục chiếc bàn, các trọng thần của đế quốc Giới Nhật đang tiếp đãi đám người Ba Tư này. Nhìn thấy Huyền Trang đi đến, Y Tự Hầu đệ tam lộ vẻ vui sướng, đích thân đi tới chào.

“Đại sư, hôm đó ngài đi không lời từ biệt, ta phái người tìm khắp nơi mà không tìm được, không nghĩ tới hôm nay lại gặp ngài ở thành Khúc Nữ”, Y Tự Hầu đệ tam cười nói.

“Bần tăng cũng ngạc nhiên, không ngờ bệ hạ lại đích thân tới thành Khúc Nữ”, Huyền Trang nói.

Nụ cười của Y Tự Hầu đệ tam lập tức trở nên đắng chát: “Ta thua cược, nhưng nếu rời khỏi Càn Đà La thì lại không có chỗ nào để đi, đành phải đến đàm phán với Giới Nhật Vương”.

“Chẳng lẽ bệ hạ không sợ mình gặp nguy hiếm sao?”, Huyền Trang hỏi.

“Có nguy hiểm đến mấy cũng làm sao bằng được các dũng sĩ Ba Tư chinh chiến sa trường?” Y Tự Hầu đệ tam than thở: “Họ đã hi sinh tính mạng bảo vệ ta, vì sao ta không thể mạo hiểm một lần vì họ?”.

“Bệ hạ nhân từ”, lòng Huyền Trang tràn ngập kính trọng đối với Y Tự Hầu đệ tam. Vị quốc vương vong quốc này kỳ thực là một người tuổi trẻ rất ôn hòa, rất từ bi.

“Ha ha, đại sư chớ khen ngợi ta”, Y Tự Hầu đệ tam cười nói: “Trước khi đến đây ta đã trình quốc thư, Giới Nhật Vương đích thân hứa hẹn, bảo đảm an toàn cho ta. Nếu ta có việc gì, Giới Nhật Vương sẽ mất hết thể diện”.

Người Thiên Trúc đốt lửa nướng cừu non, trải thảm trên cỏ, sau khi dâng đồ chay gồm sữa đặc và trái cây cho đám người Huyền Trang, mọi người liền xoay quanh đống lửa, ăn thịt uống rượu, cùng nhau hò hét, cực kỳ thoải mái.

Giới Nhật Vương rượu đã ngà ngà, đứng dậy nhảy múa, vừa múa vừa hát câu thơ trong “Lê Câu Vệ Đà”[137] (Rig Véda):

Con người có đủ loại nguyện vọng, thợ mộc muốn xe ngựa bị hỏng, thầy thuốc lại mong người khác ngã gãy chân, Bà La Môn lại hi vọng có thí chủ đến. Hỡi rượu Tô Ma[138] (Soma), mau mau trút xuống vì Đế Thích Thiên!

Thợ rèn có củi bên lò lửa, có quạt lông chim để quạt lửa, có đe đá và lửa trong lò hừng hực, chỉ chờ quan khách đem vàng đến trước mặt. Hỡi rượu Tô Ma, mau mau trút xuống vì Đế Thích Thiên!

Ta là thi nhân, phụ thân là lang y, mẫu thân bận xay bột, mọi người đều như loài trâu bò, vất vả cần cù vì hạnh phúc. Hỡi rượu Tô Ma, mau mau trút xuống vì Đế Thích Thiên!

Ngựa mong kéo xe nhẹ, người sung sướng cười vui ồn ã, nam tử mong câu có nữ nhân ở bên, ếch nháỉ mong nước lũ tràn về. Hỡi rượu Tô Ma, mau mau trút xuống vì Đế Thích Thiên!

Người Thiên Trúc phần lớn giỏi ca múa, từng người từng người hòa mình vào cuộc vui, có một số người kéo cả Vương Huyền Sách và Na Thuận tới, mọi người xoay quanh đống lửa, vui sướng hát bài “Rượu Tô Ma” này. Trong chốc lát không khí trở nên sôi trào náo nhiệt.

Giới Nhật Vương nhảy múa xong, cầm chén rượu mỉm cười đi tới: “Hai vị vì sao không nhảy múa một bài?”.

Huyền Trang cười: “Bần tăng chỉ biết niệm kinh, không biết nhảy múa”.

“Vậy còn quốc vương Y Tự Hầu?”, Giới Nhật Vương cười lớn: “Chẳng phải quốc vương Ba Tư chỉ biết hưởng lạc hay sao?”.

Y Tự Hầu đệ tam nghe ra ý đùa cợt trong lời nói của ông ta, nhưng không hề tức giận, chỉ thản nhiên nói: “Đó là chuyện trước kia rồi, ta bây giờ chỉ muốn hết lòng vì Ba Tư”.

Giới Nhật Vương nheo mắt lại, lẳng lặng nhìn Y Tự Hầu đệ tam. Hai vị đế vương đương thời cách nhau không tới một thước, lại dường như có bão táp vần vũ, sóng lớn ngập trời. Rất lâu sau, Giới Nhật Vương mới chậm rãi gật đầu: “Giờ đây đại quân của chúng ta giằng co hai bên sông Ấn, chiến tranh có thể bùng phát bất cứ lúc nào, ngài đã dám đến thành Khúc Nữ của ta, ta nghĩ nhất định ngài đã mang đến thứ có thể làm cho ta vui mừng. Ngài thử nói cho ta nghe xem”.

Y Tự Hầu đệ tam biết cuộc thương lượng thật sự đã đến, lập tức có chút căng thẳng: “Cứ thế bắt đầu sao?”.

Giới Nhật Vương cười lớn: “Đêm nay việc đàm phán giữa ngài và ta, không biết đã khiến bao nhiêu quốc gia, bao nhiêu quốc vương sốt ruột chờ đợi trong lo lắng. Cần gì phải khiến bọn họ chờ thêm nữa?”.

Y Tự Hầu đệ tam cười ha hả: “Thời khắc làm cho cả đại lục, cả thế giới lo lắng bất an, đã lâu ta không trải qua rồi. Nhớ năm xưa ta ngồi trong cung điện ở Thái Tây Phong[139] (Ctesiphon), vạn vương quy hầu, nói ra một câu, đông đến Hô La San, bắc đến Quân Sĩ Thản Đinh Bảo[140] (Constantinople), tây đến Ai Cập, nam đến đại sa mạc, nửa thế giới đều sẽ cuốn lên gió lốc. Chi tiếc bị mua xối gió thổi đi. Nhưng đêm nay tất cả mọi người đều phải dõi theo ta, rất thoải mái, rất thoải mái!”.

Y Tự Hầu đệ tam cười mãn nguyện, ông ta nhìn hoàng cung đèn đuốc huy hoàng, sương khói lượn lờ, lẩm bẩm nói: “Điều này làm cho ta cảm thấy như còn ở Thái Tây Phong. Ta còn có thể khuấy động bão táp mưa sa trên đại lục này…”.

Huyền Trang an ủi: “Bệ hạ, vương triều hưng suy, không phải một sớm một chiều. Ngài chi đang phải nhận lấy ác quả trước đây của các vị vương hầu”.

Y Tự Hầu đệ tam chăm chú nhìn Huyền Trang, đột nhiên cảm động, nhưng cuối cùng lại thở dài: “Sai lầm của ta, ta tự biết, ta sẽ mang tội cả đời, không dám đùn đẩy cho người khác”.

Ông ta nhìn Giới Nhật Vương: “Bệ hạ đã muốn thương lượng, vậy chúng ta sẽ thương lượng. Bốn năm trước, sau khi diệt quốc, ta trốn đông trốn tây như chó nhà có tang. Mới đầu con dân đi theo ta lên đến trăm vạn, vì bảo vệ ta, họ liều chết chém giết với người Đại Thực, hết người này tới người khác chết dưới mương máng ven đường, cho tới bây giờ chỉ còn lại sáu mươi vạn người. Bọn ta ngủ lại giữa rừng núi hoang vu, trên không có mảnh ngói che mưa, dưới không có chỗ đặt lung an giấc. Người già chết đói, trẻ con chết non, ta thường nghĩ, ta phải dẫn bọn họ tới đâu? Làm thế nào trả lại cho họ một nơi để an cư lạc nghiệp?”.

Y Tự Hầu đệ tam rơi lệ, ánh trăng và bóng cây đan vào nhau bên trên hoàng cung, có gió thổi lên, bóng cây đu đưa, tháp Phật cùng chư Bồ Tát, lực sĩ kim cương trên tường thành vương cung dường như sống dậy, cùng chứng kiến câu chuyện cũ mà ông ta không muốn nhớ lại này. Huyền Trang và Giới Nhật Vương không nói gì, lẳng lặng nghe.

“Hỉ Tăng bệ hạ, ta thật sự mệt rồi. Chán ghét chiến tranh, chán ghét chém giết, nếu không phải vạn bất đắc dĩ, ta cũng không muốn khai chiến với ngài. Hi vọng ngài có thể tác thành”, Y Tự Hầu đệ tam lạy Giới Nhật Vương ba lạy.

Giới Nhật Vương trầm ngâm: “Vậy ngài định cùng ta hóa gươm đao thành tơ lụa thế nào?”.

Vẻ mặt Y Tự Hầu đệ tam trịnh trọng: “Nếu bệ hạ chịu tiếp nhận tộc nhân Ba Tư, có thể cho bọn ta một mảnh đất cư trú ở đất Ngũ Hà, ta sẽ hủy bỏ niên hiệu, Ba Tư hủy bỏ quốc hiệu, con dân Ba Tư cam tâm tình nguyện trở thành phiên thuộc của đế quốc Giới Nhật, đời đời vì đế quốc phòng thủ biên cương, vĩnh viễn không bội ước!”.

Giới Nhật Vương rõ ràng rất kinh ngạc: “Ngài là quốc vương Tát San Ba Tư…”.

Y Tự Hầu đệ tam cười đắng chát: “Tát San Ba Tư đã chết rồi! Lúc ta vừa chạy trốn khỏi Thái Tây Phong vẫn luôn nghĩ đến đại nghiệp phục quốc, khôi phục vinh quang ngày xưa. Nhưng hoảng hốt trốn chạy mấy năm nay, người Đại Thực càng ngày càng hùng mạnh, ý nghĩ này đã trở thành lâu đài trên cát, như hoa trong gương, như trăng nơi đáy nước. Bây giờ việc ta cần làm chính là cho mấy chục vạn con dân đi theo mình có một ngôi nhà để ở, làm cho thánh hỏa của Tát San Ba Tư có thể không bị mưa vùi gió dập, vĩnh hằng bất diệt. Còn ta làm một quốc vương hay làm phiên vương cũng có gì quan trọng?”.

Huyền Trang cảm thấy kính nể: “Bệ hạ làm vậy, quả là đại thiện”.

Giới Nhật Vương lại cười lạnh: “Lại không biết đây là thiện hay là giả nhân giả nghĩa?”.

Huyền Trang ngẩn ra: “Lời này nghĩa là sao?”.

Giới Nhật Vương nhìn Y Tự Hầu đệ tam: “Ta muốn hỏi ngài, cả đất Ngũ Hà chia thành tám vương quốc, quốc gia lớn nhất dân số cũng không đến năm mươi vạn, nếu ta để sáu mươi vạn người Ba Tư của ngài tiến vào đất Ngũ Hà vậy làm sao có thể kiểm soát được?”.

Y Tự Hầu đệ tam kinh ngạc, vội vàng giải thích: “Người Ba Tư chúng ta chỉ muốn có một ngôi nhà để ở, tuyệt đối không có lòng bội ước!”.

“Các ngài mới đầu đến, vì tránh họa mà có thể âm thầm chịu đựng, nhưng sau khi đã yên ổn thì sao?”, Giới Nhật Vương nói: “Các ngài sao có thể cam tâm tình nguyện chịu dưới sự cai quản của một quốc gia yếu hơn mình?”.

Y Tự Hầu đệ tam trầm mặc một lát: “Bệ hạ nói như vậy là ép người quá đáng rồi, vậy quốc vương Cưu Ma La thì sao? Vị đồng minh hùng mạnh nhất của ngài ngồi ôm Đông Thiên Trúc, con dân lên đến trăm vạn, ông ta có dám tranh phong với ngài không?”.

“Đó là bởi vì chúng ta cùng tộc, từ xưa tới nay đã hình thành lối sống chung!” Giới Nhật Vương cười lạnh: “Các lãnh chúa lớn nhỏ tầng tầng lớp lớp, kiềm chế lẫn nhau, ai cũng không dám tự ý phá hoại quy tắc này. Nhưng các ngài lại là người từ bên ngoài đến, nhìn Càn Đà La xem, sáu mươi vạn dị tộc đột nhiên tiến vào, cùng dân ban xứ sinh ra bao nhiêu phân tranh? Cả đất Ngũ Hà sẽ loạn hết lên, biên cương đế quốc của ta không yên, một khi các ngài có lòng khác, cùng ngoại tộc cấu kết với nhau, biên cương phía tây của ta sẽ trực tiếp mở rộng cửa, tái diễn họa ngoại tộc xâm lấn năm xưa! Quốc vương Y Tự Hầu, chỉ cần ta để các ngài vào, khác nào ngài đã nắm được…”.

Giới Nhật Vương chỉ chỉ đũng quần của mình: “Trứng của ta!”.

Y Tự Hầu đệ tam không ngờ Giới Nhật Vương kiên quyết như thế, trên mặt lộ rõ vẻ tuyệt vọng.

“Vậy bệ hạ có cách gì có thể tránh được chiến tranh?”, Huyền Trang hỏi.

“Vì sao ta phải tránh chiến tranh?”, Giới Nhật Vương cười lạnh: “Không giấu đại sư, mong muốn của ta chính là khai sáng một đế quốc thành tựu hiển hách, tái hiện lại cảnh tượng hùng mạnh của vương triều Khổng Tước[141]! Chỉ cần ta chiếm được Càn Đà La, lùi có thể giữ được đại lục Thiên Trúc, tiến có thể tranh bá thế giới phương Tây. Cho nên ta phải chinh phục Càn Đà La! Nếu người Ba Tư không lùi, cuộc chiến tranh này tất phải diễn ra!”.

“Bệ hạ, chỉ cần chiến sự nổ ra, ắt sẽ máu chảy thành sông, thây chất như núi. Chẳng lẽ tính mạng của muôn vàn bách tính cũng không đổi được một dục niệm trong lòng đế vương hay sao?”, giọng Huyền Trang trở nên nghiêm nghị.

Giới Nhật Vương cười ha hả: “Đại sư, chiếm được Càn Đà La, con dân của ta sẽ vĩnh viễn không gặp họa bị ngoại tộc xâm lấn. Chỉ cần ta không phụ con dân Thiên Trúc, chỉ cần ta không thẹn với đạo nghĩa trời đất, trên thế gian này, ta còn gì phải sợ hãi nữa?”.

“Vậy bần tăng còn muốn hỏi một câu, từ khi ngài lên ngôi đến nay, chinh phạt các tiểu quốc, quả thật không có gì phải sợ hãi? Quả thật không thẹn với trời đất lương tâm?”, vẻ mặt Huyền Trang cũng có một chút xao động.

Giới Nhật Vương nheo mắt lại, ánh mắt lộ ra một tia sắc lạnh: “Đại sư chẳng lẽ muốn đối địch với ta?”.

“Bần tăng là người trong Phật môn, thứ trong mắt nhìn thấy không phải khác biệt giữa quốc gia và quốc gia mà là sự bình đẳng giữa chúng sinh với chúng sinh. Đối với bần tăng, người Thiên Trúc và người Ba Tư không có gì khác nhau, máu họ chảy ra cũng có màu sắc giống nhau, trời sao trên đầu họ cũng liền một mảnh với nhau. Cho nên, rất xin lỗi bệ hạ, chân bần tăng bước trên thế giới của chúng sinh chứ không chỉ là đất đai Thiên Trúc”, Huyền Trang nói.

“Hừ!”, Giới Nhật Vương cười lạnh: “Nhưng đại sư nên nhớ, thứ ngài ăn, đồ ngài uống là do người Thiên Trúc ta phụng dưỡng! Truyền thụ học vấn cho ngài là chùa của người Thiên Trúc ta!”.

Huyền Trang im lặng một lát, thở dài gật đầu: “Đúng vậy! Cho nên bần tăng không muốn phụ lòng Thiên Trúc, chỉ cầu bệ hạ khai ân”.

Ba người nhất thời yên lặng, đứng nhìn nhau trên bãi cỏ trong hoàng cung. Trăng sáng chiếu xuống cung điện lộng lẫy, cũng chiếu sáng rừng rậm và dòng suối trong vườn, suối như dải lụa, rừng rậm như mực, đan vào thành vùng tối vùng sáng, dường như hoàn toàn chia cách ba người tới các thế giới khác nhau.

°°°

Huyền Trang dẫn Vương Huyền Sách và Na Thuận đi trong ngõ nhỏ của thành Khúc Nữ. Không giống đường phố sạch sẽ của thành Trường An, phố ngõ trong thành Khúc Nữ quanh co khúc khuỷu, nhà dân hai bên cũng không có tường bao, mở cửa ngay ra phố ngõ. Trên đường rác rưởi vung vãi khắp nơi, nước thải tràn lan, khắp nơi đều là phân bò, thỉnh thoảng có mấy con bò đi qua làm nghẽn cả ngõ nhỏ.

Đến trước một ngôi nhà cũ nát, Huyền Trang sai Na Thuận đi gọi cửa.

Na Thuận gõ cửa, hỏi: “Xin hỏi hoắc tra Mai Tháp có nhà không?”.

Hoắc tra chính là hoạn quan. Vị Mai Tháp này chính là thái giám trong hoàng cung của Giới Nhật Vương hơn hai mươi năm trước. Mười mấy năm trước Mai Tháp tuổi già sức yếu, rời khỏi hoàng cung ra ngoài sống. Huyền Trang tốn không ít công sức mới hỏi thăm được năm đó Mai Tháp từng hầu hạ vương phi Diễn La Na trong hoàng cung, bèn không quản trắc trở tìm đến.

Lúc này một nam tử trung niên đi ra, nhìn phục sức của Huyền Trang, biết là một vị cao tăng đại đức, không dám sơ suất liền hành lễ nói: “Tôn giả tìm phụ thân ta có gì phân phó?”.

“Mai Tháp là phụ thân thí chủ?”, ba người đều ngẩn ra.

Nam tử trung niên lúng túng: “Ta là nghĩa tử được phụ thân nhận nuôi sau khi rời khỏi hoàng cung để chăm sóc ngài lúc tuổi già”.

Mọi người nghe vậy mới hiểu ra.

Huyền Trang nói: “Bần tăng có một chuyện xưa trong cung đình hơn hai mươi năm trước muốn hỏi thăm một chút. Phụ thân thí chủ có ở nhà không?”.

“Có, có, có!”, người đó vội vã nói: “Phụ thân đã lớn tuổi, quanh năm nằm trên giường, giờ cũng đang nằm trong phòng”.

Hắn cung kính dẫn Huyền Trang đi vào, đi qua hành lang dài đến một phòng ngủ âm u ẩm ướt. Mai Tháp đang nằm trên giường, tuổi già sức yếu, hai mắt vẩn đục. Huyền Trang ngồi xuống bên cạnh ông ta, nhã nhặn nói: “Hoắc tra, ngài có còn nhớ vương phi Diễn La Na không?”.

“Vương phi…” Ánh mắt vị hoắc tra chậm rãi chìm vào hồi ức: “Đương nhiên nhớ, vương phi Diễn La Na là một chủ nhân rất tốt, tôi chưa từng thấy một nữ nhân nào xinh đẹp, dịu dàng như bà ấy”.

“Ngài hầu hạ bà ấy năm nào?”, Huyền Trang hỏi.

“Chính là năm Vương Tăng bệ hạ lên ngôi”, hoắc tra nói: “Khi đó chúng tôi còn ở thành Thản Ni Sá, thái tử Vương Tăng từ núi Đại Tuyết mang về một mỹ nhân, muốn lấy làm vợ. Khi đó quốc vương Quang Tăng vẫn tại vị, quốc vương Quang Tăng kiên quyết phản đối. Sau đó chúng tôi mới biết, thì ra mỹ nhân này lại là một kỹ nữ. Nhưng thái tử rất yêu nàng, quan hệ phụ tử hai người họ trở nên căng thẳng, Vương Tăng thà bị phế bỏ ngôi thái tử cũng phải lấy nàng ấy làm phi tử. Đến tận lúc quốc vương Quang Tăng ốm chết, thái tử Vương Tăng lên ngôi mới lập nàng ấy làm vương hậu. Cũng chính là năm đó tôi được sai tới hầu hạ vương hậu”.

“Chuyện sau đó thế nào?”, Huyền Trang hỏi.

“Thực ra tôi vốn không hầu hạ bà ấy được bao lâu, chỉ vỏn vẹn có một năm”, vị hoắc tra thở dài: “Hai người yêu nhau say đắm, tôi chưa hề thấy trên đời này có quốc vương và vương hậu ân ái như vậy bao giờ. Đáng tiếc chỉ vỏn vẹn một năm sau, quốc vương Vương Tăng đã viễn chinh Ma Lạp Bà, bị quốc vương Thiết Thưởng Ca lừa giết chết. Sau đó quốc vương Hỉ Tăng lên ngôi, sai tôi đến hầu hạ ông ấy. Còn vương phi Diễn La Na từ đó tự nhốt mình trong thâm cung, không gặp người ngoài, tôi cũng không còn gặp lại bà ấy nữa”.

Huyền Trang cau mày: “Hoắc tra, dù ngài bị điều đi nhưng lúc vương phi Diễn La Na chết ngài cũng phải biết chứ? Rốt cuộc bà ấy chết thế nào?”

“Khi tường vương cung đổ xuống, bà ấy bị đè chết. Khi đó vương hậu đi dưới tường vương cung, ai ngờ bức tường đó nhiều năm không tu sửa, lại bị ngấm mưa to nên đổ xuống đè lên người bà ấy. Đến lúc cứu ra thì bà ấy đã tắt thở”, vị hoắc tra già nhớ lại, thở dài không thôi: “Người tốt như vậy, tại sao lại không được phù hộ chứ?”.

“Tường vương cung đổ xuống?” Huyền Trang chậm rãi lắc đầu: “Không đúng, bà ấy không phải chết như vậy. Ngài suy nghĩ kỹ xem, khi đó có chuyện gì khác thường không?”.

“Khác thường?” Chuyện này đã trôi qua quá lâu, lại không tận mắt nhìn thấy, hoắc tra trầm tư sưy nghĩ, đột nhiên đôi mắt vẩn đục sáng lên: “Tôi nhớ ra rồi!”.

Đúng lúc này xung quanh đột nhiên vang lên tiếng bước chân lộn xộn, ba người đang còn kinh hãi, cửa sổ xung quanh tới tấp vỡ vụn, bảy tám bóng người lao vào trong phòng. Những người thần bí này được huấn luyện kĩ càng, trên mặt đeo mặt nạ, tay cầm đao lao tới nhanh như chớp.

Na Thuận và Vương Huyền Sách đưa tay rút đao ra, bảo vệ Huyền Trang ở phía sau lưng.

“Các ngươi là ai?”, Na Thuận hét to.

Những người thần bí này không nói một lời, giơ đao bổ tới, trong lúc hành động, trên người có tiếng kêu lách cách.

Na Thuận và Vương Huyền Sách vung đao ngăn cản, trong phòng chật chội, vô số bóng người đan xen như chớp, tiếng sắt thép chói tai, trong thời gian ngắn hai bên đã giao thủ hàng chục đao. Huyền Trang càng nhìn càng kinh hãi, những người này không ngờ toàn bộ đều là cao thủ, đao cong tung hoành như ý, ép Na Thuận và Vương Huyền Sách liên tục lui lại, chỉ hơi bất cẩn, trên người đã liên tiếp trúng đao, máu tươi bắn tung tóe. Còn đao cong của Na Thuận cũng chém trúng hai người trong đó, tuy nhiên chỉ nghe thấy tiếng leng keng, trên thân hai người đó tóe lửa, quần áo bị lưỡi đao chém rách, không ngờ lại lộ ra áo giáp vẩy cá bên trong.

“Ta bảo vệ sư phụ, mau lui!” Vương Huyền Sách hét to, giơ chân đạp chiếc bàn về phía đám người kia. Trong lúc bọn chúng vung đao ngăn cản, Vương Huyền Sách dùng một tay ôm Huyền Trang, tay kia đánh vỡ cửa sổ phía sau, lăn ra ngoài sân.

Nhưng kỳ lạ là Huyền Trang vừa ra ngoài, đám người thần bí kia cũng tới tấp rút lui, thoáng cái đã biến mất ở sâu trong ngõ, tiếng vó ngựa dồn dập đi xa, chỉ để lại Na Thuận đứng sững sờ trong phòng.

Huyền Trang đột nhiên hiểu ra: “Bọn chúng không phải tới giết ta!”.

Huyền Trang vội vã chạy vào phòng, quả nhiên viên hoắc tra đã bị đao chém lìa cổ. Ngay cả nghĩa tử của ông ta cũng bị chém đứt cổ, chết oan chết uổng.

Vương Huyền Sách sững sờ: “Mục tiêu của bọn chúng không ngờ lại là hoắc tra?”.

Huyền Trang tái mặt, vuốt mắt cho hoắc tra, lặng lẽ tụng niệm kinh văn.

“Sư huynh!” Na Thuận không hiểu, nhớ tới võ nghệ của đám người này, hắn vẫn còn chưa hết sợ hãi: “Những người này lợi hại như thế, vì sao lại giết một lão hoạn quan trói gà không chặt?”.

“Bởi vì lão hoạn quan này sắp nói ra một chuyện cũ trong cung đình từ hai mươi tư năm trước!”, Huyền Trang thản nhiên nói: “Ngộ Tịnh, ngươi là tặc soái của “Người bất lương, am hiểu mấy chuyện điều tra này, mau tra xem có thể tìm được manh mối hay không!”.

Vương Huyền Sách cười khổ: “Sư phụ, chuyện này e rằng phiền phức rồi”.

“Vì sao?”, Huyền Trang hỏi.

“Vũ khí nhóm người vừa rồi sử dụng là đao cong nhưng là cong xuống dưới”, Vương Huyền Sách nói nhỏ: “Đao cong xuống là binh khí đặc thù của Thiên Trúc, đặc biệt là quân đội trang bị nhiều nhất. Những người này huấn luyện kĩ càng, phối hợp ăn ý, vừa nhìn đã biết chính là người đã từng trải chiến trận”.

“Quân đội Thiên Trúc?”, Huyền Trang biến sắc mặt: “Ngươi nhận định chính xác chứ?”.

Vương Huyền Sách gật đầu, xòe tay ra, lòng bàn tay xuất hiện một mảnh kim loại: “Đây là đệ tử tìm được trong phòng”.

Huyền Trang cầm lấy nhìn kỹ, mảnh kim loại này được làm bằng sắt tinh, trên đó còn có hai lỗ tròn: “Đây là cái gì?”.

“Đây là mảnh giáp!”, vẻ mặt Vương Huyền Sách nghiêm nghị: “Là do Na Thuận dùng đao cong chém rơi từ trên áo giáp. Loại giáp vẩy cá này là loại giáp ngực điển hình của Thiên Trúc. Sư phụ, đao cong xuống, giáp vẩy cá, những người này chắc chắn là binh lính Thiên Trúc, không còn nghi ngờ gì nữa”.

Sắc mặt Huyền Trang rất khó coi, ngài trầm ngâm nói: “Binh lính Thiên Trúc rất ít người được mặc áo giáp, đặc biệt là loại áo giáp thượng đẳng làm bằng sắt tinh này, e rằng chỉ có cấm vệ sát đế lợi[142] trong hoàng cung!”.

Ba người đều yên lặng, một hồi lâu sau Na Thuận mới nói: “Sư huynh, chuyện này e rằng càng ngày càng hung hiểm”.

“Đúng vậy!”, Vương Huyền Sách cũng nói: “Sư phụ, đối phương đã dám phái cấm vệ sát đế lợi đến giết người, thứ nhất là muốn che giấu một chuyện lớn, thứ hai là đang cảnh cáo chúng ta. Nếu còn tiếp tục điều tra, một khi chọc giận đối phương, chắc chắn là sẽ hung hiếm vô cùng”.

“Ý ngươi là gì?”, Na Thuận trợn mắt nhìn hắn: “Ta nói là hung hiểm nhưng không phải là không tra! Ngươi sợ chết thì tránh sang một bên, tự ta sẽ tra!”.

“Không được cãi lộn nữa!”, Huyền Trang ngắt lời hai người: “Chuyện này bần tăng tất sẽ tra đến cùng. Na Thuận, ngươi hãy ra ngoài phố mua một quyển Giới Nhật Vương truyện”.

“Giới Nhật Vương truyện?”, Na Thuận kinh ngạc: “Đó là cái gì?”.

“Hai mươi năm trước, thi nhân cung đình Ba Na[143] viết một quyển truyện ký khen ngợi Giới Nhật Vương, chính là Giới Nhật Vương truyện. Giới Nhật Vương từng bố cáo khắp thiên hạ, chắc là có thể mua được”, Huyền Trang nói: “Quyển sách này ghi chép chuyện cung đình hai mươi năm trước cực kỳ rõ ràng, tìm mua một quyển về xem. Còn nữa, mười năm trước Giới Nhật Vương đúc nhiều bộ huy hiệu sáu chiếc bằng đồng, trên đó có khắc tên để tưởng niệm huynh trưởng Vương Tăng của mình, ngươi đi mua một bộ. Loại huy hiệu này sợ rằng không dễ mua, ngươi hỏi thăm kỹ càng một chút”.

Na Thuận lại rất có lòng tin: “Sư huynh, ngài quên người Túc Đặc bọn ta làm gì rồi à? Chỉ cần trên thế giới này có, ta nhất định có thể mua được. Đúng rồi, sư huynh, thế còn ngài làm gì?”.

“Ta tới hoàng cung một chuyến, tìm Giới Nhật Vương xem có thể tra được hồ sơ điều động cấm vệ sát đế lợi không”, Huyền Trang nói.

Vương Huyền Sách giật mình: “Sư phụ, ngài muốn trực tiếp đi tìm Giới Nhật Vương? Đây chẳng lẽ không phải rút dây động rừng hay sao?”.

Huyền Trang gật gật đầu, sắc mặt nghiêm nghị: “Bây giờ chúng ta đã ở chỗ sáng, muốn làm gì kẻ thù đều biết rõ ràng. Đã như vậy ta sẽ dẫn rắn ra, không phải sẽ tốt hơn sao?”.

“Nhưng mà…”, Vương Huyền Sách do dự: “Làm vậy thật sự quá nguy hiểm!”.

Huyền Trang than thở: “Cầu pháp hay cầu chân tướng, việc nào cũng phải liều mạng đi về phía trước. Đi thôi!”.

Huyền Trang dẫn Vương Huyền Sách đi tới vương cung, vừa nhắc tới chuyện hôm nay, Giới Nhật Vương đã nổi giận, hạ lệnh tra rõ. Tể tướng Bà Ni mang hồ sơ điều động cấm vệ rất dày đến, lại phát hiện hôm nay không hề có cấm vệ sát đế lợi nào được điều ra ngoài cung. Huyền Trang vẫn chưa từ bỏ ý định, nói với Giới Nhật Vương mình nhận được mặt một cấm vệ trong đó, Giới Nhật Vương lệnh toàn thể võ sĩ sát đế lợi tập hợp trong vương cung để Huyền Trang nhận mặt.

Ba ngàn cấm vệ sát đế lợi đứng trước mặt Huyền Trang, Huyền Trang cùng đi với Bà Ni, lần lượt đi qua trước mặt mọi người. Trang bị của những người này quả nhiên giống hệt trang bị của sát thủ ám sát lão hoắc tra, giáp vẩy cá, đao cong xuống. Lúc này bọn họ đều không mặc áo bào bên ngoài, giáp vẩy cá phản chiếu ánh sáng lóa mắt.

Huyền Trang đi qua trước mặt ba ngàn người, nửa canh giờ còn chưa nhìn xong. Lúc này Vương Huyền Sách vội vã chạy tới, nói nhỏ một câu gì đó. Huyền Trang gật đầu, nói với Bà Ni: “Bần tăng tự có tính toán, không cần phải xem nữa”.

Bà Ni ngẩn ra: “Đại sư tìm được mấy thích khách đó rồi hả?”.

Huyền Trang gật đầu, lại lắc đầu, khiến Bà Ni không hiểu ra sao.

Sau khi cáo lỗi Giới Nhật Vương, Huyền Trang rời khỏi vương cung, tỏ ra thần thần bí bí. Giới Nhật Vương và Bà Ni đều không hiểu gì cả, ngay cả Vương Huyền Sách cũng không hiểu. Huyền Trang cũng không giải thích, dẫn Vương Huyền Sách đi gặp Na Thuận.

Na Thuận quả nhiên đã mua được “Giới Nhật Vương truyện” và sáu chiếc huy hiệu. Huyền Trang tìm một chỗ yên tĩnh trong thành, ngồi xuống một tảng đá lật xem, mấy canh giờ không ngẩng đầu lên. Thấy sắc trời đã muộn, Vương Huyền Sách đột nhiên cảm thấy xung quanh có gì đó khác thường, nhìn kỹ lại chợt nhận ra phố lớn nhộn nhịp lại không có một tiếng động nào.

“Không ổn rồi, sư phụ, mau đi thôi!” Vương Huyền Sách không nói thêm lời nào nữa, kéo Huyền Trang đi ngay.

“Chuyện gì vậy?” Trong lúc Huyền Trang đang sửng sốt chợt nghe thấy xung quanh có tiếng vù vù, hàng chục mũi tên bắn tới. Na Thuận hét lớn một tiếng, thiếu niên mười bảy tuổi này không ngờ lại giơ nguyên một chiếc xe kéo ven đường lên chặn ở trước mặt ba người. Mũi tên bắn vào ván xe, không ngờ lại đâm sâu đến ba bốn tấc, đủ để thấy cung cứng tên nhọn thế nào.

“Đi!” Na Thuận kêu to, ba người men sát tường, Na Thuận giơ xe kéo ngăn cản cung tên, đi đến cửa một hộ gia đình. Vương Huyền Sách đạp tung cửa, ba người lách vào, chạy như điên trong phố ngõ quanh co sâu hun hút của thành Khúc Nữ. Đám cung thủ kia cũng vội vã đuổi theo, lần này đám sát thủ không mặc áo giáp, càng không mang vũ khí tiêu chuẩn, chỉ dùng cung tên mà bắn. Bọn chúng chạy nhảy trong ngõ hẹp không hề vướng víu, trong lúc chạy nhảy vẫn giương cung bắn tên như nước chảy mây trôi.

Na Thuận và Vương Huyền Sách bảo vệ Huyền Trang, lúc thì chạy như điên, lúc thì tìm chỗ ẩn nấp, đợi sát thủ đi qua mới xông ra chém giết một vài tên. Mọi người vừa đánh vừa chạy, nhưng sát thủ xung quanh càng ngày càng nhiều, có một số người còn nhảy lên nóc nhà truy đuổi.

“Đi, đến phủ tể tướng! Chỉ có chỗ đó là an toàn!”, Huyền Trang hô to.

Ba người chuyển hướng, nhanh chân chạy như bay về phía phủ của Bà Ni. Vừa tiến vào khu vực phủ đệ của quan lớn phú hào, đám sát thủ dường như hết sức kiêng kị, không dám bắn tên bừa bãi nữa, sợ ngộ thương những người xung quanh. Ba người liều mạng chạy trốn, đến trước phủ của Bà Ni liền xông thẳng vào, bất chấp võ sĩ canh cửa ngăn cản. Huyền Trang từ dưới đất bò dậy, quay đầu nhìn lại, thấy đám sát thủ kia đuổi theo tới cửa lại không dám tiến lên một bước. Một tên sát thủ giương cung định bắn, bị một tên sát thủ khác tát cho một cái rất mạnh. Bọn chúng chần chừ một lát, sau đó lặng lẽ tản ra.

Lúc này tể tướng Bà Ni đang ở trong phủ vội vã đi ra, vừa nhìn thấy Huyền Trang lập tức ngẩn ra: “Đại sư, có chuyện gì vậy?”.

“Ha ha!”, Huyền Trang cười gượng: “Vừa rồi bị người ta đuổi giết, đành phải trốn vào trong phủ của ngài tạm lánh, mong ngài chớ trách”.

“Người nào dám đuổi giết đại sư?”, Bà Ni giận dữ: “Lão phu lập tức hạ lệnh, toàn thành lùng bắt”.

“Vô dụng thôi”, Huyền Trang lắc đầu.

“Vì sao vô dụng?”, Bà Ni kinh ngạc.

Huyền Trang mỉm cười nhìn ông ta. Bà Ni có chút bất an, thấy Huyền Trang không nói đành phải mời bọn họ vào trong nhà. Bốn người ngồi xuống, Bà Ni sai người mang nước ép quả sung lên. Na Thuận và Vương Huyền Sách trải qua một phen kịch chiến, vừa mệt vừa đói, cầm lên định uống lại bị Huyền Trang ngăn cản: “Không được uống, dùng ngân châm thử một chút đã”.

Hai người sợ hãi run lên. Vương Huyền Sách khiếp sợ: “Sư phụ…”.

“Đại sư, ý ngài là gì?”, Bà Ni không vui.

Huyền Trang suy nghĩ một lát, cười áy náy với Bà Ni: “Xin lỗi, là bần tăng nghĩ nhiều rồi, các ngươi cứ uống đi”.

Sắc mặt Bà Ni vừa mới dễ coi hơn một chút, không ngờ Huyền Trang lại bổ sung một câu: “Nhiều người nhìn thấy chúng ta đến phủ tể tướng như vậy, chắc là chúng ta sẽ không chết tại đây”.

Bà Ni giận tím mặt: “Đại sư, ngài đang ám chỉ ta đấy hả?”.

Na Thuận với Vương Huyền Sách lập tức rút đao ra, thị vệ của Bà Ni cũng tràn vào, hai bên giương cung bạt kiếm.

Huyền Trang ngồi yên không động, lặng lẽ uống một ngụm nước sung, nói chậm rãi: “Bà Ni đại nhân, mặc dù ngài có thể tự do điều động cấm vệ sát đế lợi, nhưng ban đầu bần tăng lại vốn không hề nghi ngờ ngài, ngài biết mình đã để lộ ra sơ hở từ lúc nào không?”.

“Ta nào có sơ hở gì?”, Bà Ni lạnh lùng nói.

Huyền Trang lấy ra mảnh sắt trên áo giáp: “Loại mảnh giáp này chắc hẳn không xa lạ với ngài, chỉ có cấm vệ sát đế lợi mới có. Đây là vị sư đệ này của ta đã dùng đao chém xuống khi hoắc tra bị giết. Nhưng bần tăng vào trong hoàng cung, xem xét ba ngàn võ sĩ sát đế lợi, lại không thấy có áo giáp của người nào bị mẻ”.

“Nhưng ngài còn chưa xem xong mà”, Bà Ni cũng giận.

Huyền Trang gật đầu: “Bần tăng đương nhiên chưa xem xong, bởi vì không cần phải xem nữa. Lúc bần tăng nhờ ngài triệu tập tất cả võ sĩ sát đế lợi cũng đã ra lệnh cho đệ tử Ngộ Tịnh đi đến xưởng sửa chữa. Ngài cũng biết, xưởng sửa chữa trong hoàng cung là nơi chuyên sửa chữa vũ khí, bần tăng chỉ sai Ngộ Tịnh đi hỏi thăm một việc, vừa rồi có người nào mang áo giáp bị hỏng đến đây tu sửa hay không”.

Sắc mặt Bà Ni biến thành tái mét: “Thì ra mục đích thật sự của ngài là ở đây”.

“Không sai!” Huyền Trang nhìn ông ta đầy thương xót: “Áo giáp của sát thủ bị hỏng, hắn nhất định biết. Bần tăng nhờ ngài triệu tập võ sĩ sát đế lợi, hắn nhất định đoán được bần tăng muốn tìm chiếc áo giáp bị hỏng này, cho nên hắn không kịp suy nghĩ nhiều, vội vàng mang đến xưởng sửa chữa. Bần tăng xin Giới Nhật Vương hạ lệnh khẩn cấp chính là để bọn chúng không có thời gian suy nghĩ. Ngộ Tịnh, ngươi đã tra ra được là người nào chưa?”.

Vương Huyền Sách đưa cho Bà Ni một tờ bối diệp, bên trên ghi lại hai cái tên.

Bà Ni không nhìn tờ bối diệp đó: “Vậy ngài làm sao biết là ta sai khiến?”.

“Trong hoàng cung, ngài quản lí cấm vệ. Ngài cần xem xét lệnh điều động, ai dám làm giả? Nhưng ghi chép điều động lại bị làm giả.” Huyền Trang nói: “Nhưng cho tới lúc đó bần tăng cũng không thể khẳng định. Vừa rồi bị đuổi giết, bần tăng quyết định mạo hiểm chạy đến phủ của ngài. Nếu đám sát thủ này là người khác phái đến, nhìn thấy bần tăng trốn vào trong phủ tể tướng, chúng nhất định lo lắng bần tăng sẽ tố giác với tể tướng, e rằng sẽ liều mạng xông vào giết chết bần tăng. Kết quả là đám sát thủ kia còn không dám bắn vào trong cổng một mũi tên nào, việc này chứng minh điều gì?”.

Bà Ni ngây ra như phỗng, ngồi bệt xuống ghế.

Huyền Trang áy náy nhìn ông ta, nói nhỏ: “Thật sự xin lỗi, bần tăng chỉ muốn tìm được Liên Hoa Dạ, không hề muốn tìm hiểu những thị thị phi phi của hai mươi năm trước”.

Bà Ni thở dài đắng chát: “Đáng tiếc, tìm được Liên Hoa Dạ, thị thị phi phi của hai mươi năm trước cũng sẽ giấu không nổi nữa”.

“Ngươi quả nhiên biết Liên Hoa Dạ ở đâu”, Na Thuận xông tới, đám thị vệ vội vàng dùng mũi đao chĩa vào ngực hắn. Na Thuận lại không chịu lui bước, giận dữ hét lên: “Nàng ở đâu?”.

Bà Ni vô cùng ảo não, phất tay: “Đi, dẫn Liên Hoa Dạ tới đây!”.

[*] [138] Theo truyền thống Vệ Đà, rượu Tô Ma (Soma hay Haoma) là một loại thức uống phục vị nghi lễ truyền thống của An Độ thời kỳ đầu. Rượu Soma có tư liệu ghi chép là rượu lên men từ nước ép từ thân một loài cây, sau đó được trộn với mật ong và sữa bò. Trong Kinh Vệ Đà, tạng Rig Véda, Mandaias thứ 9 gồm thơ vịnh được xướng ca ở các buổi lễ cúng Soma.

[*] [139] Thái Tây Phong (Ctesiphon) là thủ đô của đế quốc Sassan, cách Baghdad bốn mươi cây số về phía đông nam, hiện vẫn còn di chỉ.

[*] [140] Quân Sĩ Thán Đinh Báo hay Constantinopolis, còn được biết đến với tên Constantinople, là kinh đô của Đế quốc La Mã, của Đế quốc Byzantine/Đông La Mã, của Đế quốc La Tinh và của Đế quốc Ottoman.

[*] [141] Đế quốc Maurya hay đế quốc Khổng Tước là một thế lực hùng mạnh trên một diện tích rộng lơn vào thời An Độ cổ đại, do vương triều Maurya cai trị từ năm 321 đến 185 TCN. Với một diện tích 5.000.000 km², Maurya là một trong các đế quốc lớn nhất trên thế giới vào thời gian mà nó tồn tại, và là đế quốc lớn nhất từng tồn tại trên tiêu lục địa Ấn Độ.

[*] [142] Kshastriya - tầng lớp vua quan quý phái, xếp thứ hai trong bốn tầng lớp Ấn Độ cổ đại, tự cho mình là tầng lớp sinh ra từ cánh tay Phạm Thiên, thay mặt cho Phạm Thiên nắm quyền thống trị dân chúng. (Chú thích của dịch giả)

[*] [143] Banabhatta là một nhà văn và nhà thơ văn xuôi tiếng Phạn nổi tiếng vào thế kỷ thứ VII của Ấn Độ. Ông là Asthana Kavi (nhà thơ hoàng gia) trong triều đình của vua Harsha Vardhana. Các tác phẩm chính của Bãna bao gồm tiểu sử của Harsha là Harshacharita và một trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của thế giới, Kadambari. Bana đã chết trước khi hoàn thành cuốn tiếu thuyết và nó được hoàn thành nốt bởi con trai của ông là Bhusanabhatta. Cả hai tác phẩm này đều là những văn bản có giá trị rất lớn trong kho tàng văn học tiếng Phạn.

[*] [144] Hiện nay Ấn Độ đã khai quật được sáu huy hiệu khắc chữ thời Giới Nhật Vương, được đúc từ năm 627 đến 630 sau công nguyên. Giới sử học căn cứ vị trí khai quật, đặt tên là huy hiệu Banskhera và huy hiệu Madhuban, (Chú thích sách gốc)