Chương 11 Lý Thế Dân - Hâm rượu luận đế vương ở điện Cam Lộ
Trong thành Khúc Nữ, Giới Nhật Vương vẫn giữ tôn trọng với Huyền Trang, gần hoàng cung có một ngôi chùa hoàng gia của đế quốc Giới Nhật, được đặt tên theo dòng họ Phạt Đàn Na của Giới Nhật Vương, gọi là chùa Phạt Đàn Na. Để thể hiện sự tôn kính, Giới Nhật Vương mời Huyền Trang ở tạm trong chùa Phạt Đàn Na.
Đến khuya lại có khách tới thăm, Huyền Trang lệnh Vương Huyền Sách ra đón, đến ngài cũng cảm thấy bất ngờ, không ngờ người đến lại là Y Tự Hầu đệ tam.
“Sao vậy? Đại sư cảm thấy bất ngờ lắm à?”, Y Tự Hầu đệ tam cười nói.
“Quả thật có chút bất ngờ”, Huyền Trang vội vàng mời Y Tự Hầu đệ tam ngồi xuống: “Quốc vương không phải đang đàm phán với Giới Nhật Vương sao? Vì sao lại có thời gian nhàn hạ đến tìm bần tăng?”.
“Đã đàm phán với Giới Nhật Vương xong rồi”, Y Tự Hầu đệ tam thở dài nói.
“Kết quả thế nào?”, Huyền Trang vội vàng hỏi.
Y Tự Hầu đệ tam lắc đầu: “Giới Nhật Vương cuối cùng cũng đồng ý thu nhận tàn tộc Ba Tư ta, tuy nhiên yêu cầu bọn ta di dời đến Trung Thiên Trúc, hơn nữa phải phân tán ra, mỗi quần thể không được vượt quá năm vạn người. Ngoài hàng năm phải nộp nhiều thuế má còn yêu cầu điều động một vạn người biên chế vào trong quân đội của đế quốc Giới Nhật. Những điều kiện này ta không thể đáp ứng, vì vậy đàm phán thất bại. Ngày mai ta sẽ trở lại Càn Đà La”.
Huyền Trang thắc mắc: “Đã có thể có đường sống, vì sao lại không đáp ứng?”.
“Đại sư không biết!” Y Tự Hầu đệ tam cười gượng: “Nếu như ta đáp ứng điều kiện của ông ta, cũng chính là tự tay đưa con dân Ba Tư vào hố lửa. Bọn ta sẽ trở thành một con bò cho ông ta ra roi quất, bóc lột đến tận xương tủy, còn phải ra sa trường làm lá chắn cho ông ta. Ta suy nghĩ ngày đêm là để tìm một nơi an cư lạc nghiệp cho con dân, nhưng ngôi nhà trong mơ của ta không phải như vậy”.
Huyền Trang yên lặng rất lâu: “Sau khi trở về, bệ hạ dự định làm thế nào?”.
Y Tự Hầu đệ tam thẫn thờ, sau đó cười khổ: “Kỳ thực ta đến là để tìm đệ tử của ngài, đại sư Ngộ Tịnh”.
Thấy Huyền Trang kinh ngạc, Y Tự Hầu đệ tam tiếp tục hỏi: “Nghe nói đại sư Ngộ Tịnh là đại quan của Đại Đường?”.
Vương Huyền Sách thở dài: “Trưởng sử hữu vệ suất phủ đông cung, tòng ngũ phẩm”.
“Vậy vì sao lại làm tăng nhân?”, Y Tự Hầu đệ tam hỏi.
“Bệ hạ nhớ sư phụ, đúng lúc tiểu hòa thượng ta phạm lỗi, được bệ hạ nhìn trúng, lệnh ta tới chăm sóc sư phụ”, Vương Huyền Sách giải thích: “Ta và sư phụ đã giao hẹn, nếu trong triều có chuyện, ta có thể trở về triều đình”.
“Bần tăng có nói như vậy à?”, Huyền Trang lạnh nhạt nói.
Vương Huyền Sách giả ngốc: “Ôi? Chẳng lẽ đệ tử nhớ lầm? Khi đó sư phụ nói thế nào nhỉ?”.
Huyền Trang không để ý đến hắn nữa, quay sang Y Tự Hầu đệ tam: “Người này gan to hơn trời, hoàng đế Đại Đường chỉ là muốn hắn tiết chế lại chút thôi”.
“Gan to hơn trời mới có thể vùng vẫy trong thời loạn thế này!” Y Tự Hầu đệ tam cảm khái: “Tính cách của ta, nếu làm quân chủ thời bình còn có thể cố gắng được, trong loạn thế này thật sự không khác gì gà đất, chó sành. Đại sư Ngộ Tịnh, theo ý của ngài, có cách gì giải quyết được cảnh khốn cùng của Ba Tư ta không?”.
“Không có!”, Vương Huyền Sách lập tức nói: “Cục diện bế tắc không giải được”.
Y Tự Hầu đệ tam đắng chát: “Ngay cả ngài cũng nghĩ như vậy sao?”.
Vương Huyền Sách gật đầu: “Bệ hạ đang ở trong lưới, tây có Đại Thực, đông có Thiên Trúc, bắc có Thổ Hỏa La và Tây Đột Quyết, nếu không thoát ra khỏi chiếc lưới này sẽ mãi là cá nằm trên thớt của người khác. Chi là khi nào bị ăn mất thôi”.
Hai mắt Y Tự Hầu đệ tam bỗng sáng lên: “Chẳng lẽ ta có thể thoát khỏi cái lưới này sao?”.
“Có thể, chỉ không biết bệ hạ có dũng khí này không”, Vương Huyền Sách nói.
Y Tự Hầu đệ tam kính cẩn vái: “Xin đại sư chỉ giáo!”.
Vương Huyền Sách cười cười: “Không biết bệ hạ có hiểu về cục diện của Đại Đường và Tây Đột Quyết không?”.
“Biết không nhiều”, Y Tự Hầu đệ tam nói.
“Mười một năm trước, sau khi Đại Đường tiêu diệt Đông Đột Quyết, Dục Cốc Thiết nhi tử của Khả hãn Thủy Tất[147] chạy trốn đến Tây Đột Quyết, thừa dịp Tây Đột Quyết rơi vào phân tranh sau khi Khả hãn Thống Diệp Hộ chết, thu gom binh lực của mình, hướng đông quấy nhiễu biên giới Đại Đường, hướng tây tấn công thế lực cũ của Tây Đột Quyết, cố gắng thống nhất Tây Đột Quyết. Năm kia hắn giết chết Khả hãn Đồng Nga[148], năm ngoái nhi tử của Đồng Nga kế vị lại bị hắn đánh bại, chém chết. Sau đó tôn tử của Đồng Nga là Bạc Bố được lập làm khả hãn, bây giờ song phương đang huyết chiến không ngừng.” Nói đến cục diện chính trị, Vương Huyền Sách thuộc như lòng bàn tay: “Năm ngoái sau khi Đại Đường ta tiêu diệt được Cao Xương, thành lập phủ đô hộ An Tây liền cùng Bạc Bố diệt trừ Dục Cốc Thiết. Tại hạ cho rằng cục diện này chính là đất dụng võ của bệ hạ!”.
“Sao?” Y Tự Hầu đệ tam trầm ngâm: “Người Ba Tư ta làm thế nào?”.
“Đơn giản”, Vương Huyền Sách búng ngón tay: “Việc bệ hạ thật sự nên làm không phải dời quân về hướng đông mà nên tiến lên phương bắc. Bởi vì dời về phía đông, ngài phải đối mặt với kẻ thù, tiến lên phương bắc, ngài sẽ gặp bằng hữu. Nếu bệ hạ lên bắc, đi qua Thổ Hỏa La tiến vào đại thảo nguyên Tây Đột Quyết, liên minh với Đại Đường tấn công Dục Cốc Thiết, bệ hạ nghĩ xem tình hình sẽ như thế nào?”.
Y Tự Hầu đệ tam rơi vào trầm tư, một hồi lâu không nói. Huyền Trang cũng mặc kệ đệ tử của mình uốn ba tấc lưỡi thuyết phục quốc vương Ba Tư.
“Ý ngài là, nếu Ba Tư ta có thể phối hợp với Đại Đường tiêu diệt Dục Cốc Thiết thì có thể tới Đại Đường tránh nạn sao?”, Y Tự Hầu đệ tam hỏi.
Vương Huyền Sách liên tục lắc đầu, thở dài nói: “Bệ hạ, ngài đừng có lúc nào cũng nghĩ đến tránh nạn được không? Ngài là đế vương, cần gì phải nhờ người khác che chở? Đến lúc Đại Đường ta thống nhất Tây Vực, thứ ngài có được là Thổ Hỏa La!”.
Y Tự Hầu đệ tam đột nhiên kinh hãi, hơi thở cũng trở nên nặng nề: “Thổ Hỏa La? Ta có thể nhận được Thổ Hỏa La? Sao có thể như vậy?”.
“Vì sao không thể?” Vương Huyền Sách nói: “Giờ đây quân đội Thổ Hỏa La đều đã bị Bạc Bố điều động lên bắc tham chiến, cả Thổ Hỏa La đều đang thành không nhà trống. Ngài muốn tiến vào Tây Đột Quyết tất phải hành quân thần tốc chiếm lĩnh Thổ Hỏa La, như vậy mới có thể bất ngờ đánh vào sau lung Dục Cốc Thiết, phối hợp với Đại Đường giáng cho hắn một đòn chí mạng! Bạc Bố tôn hoàng đế của ta làm thiên khả hãn, ngài lại vì Đại Đường ta lập nên công lớn, có sự ủng hộ của Đại Đường ta, chỉ là một Thổ Hỏa La, ai dám tranh đoạt với ngài?”.
Y Tự Hầu đệ tam ngạc nhiên mừng rỡ: “Đại sư nói không sai, ta cũng biết Thổ Hỏa La đang ở thế thành không nhà trống, chỉ có điều kiêng kị thế lực Tây Đột Quyết, không dám tùy tiện đánh chiếm. Nếu Đại Đường sẵn sàng ủng hộ, ta nắm chắc mười phần có thể nhanh chóng chiếm được Thổ Hỏa La!”.
“Đúng vậy!” Vương Huyền Sách nghe vậy mới cười, tán thưởng như nhìn đứa trẻ ngoan dễ dạy bảo: “Địa thế Thổ Hỏa La bệ hạ chắc chắn biết rõ, núi non trùng điệp, dễ thủ khó công. Đặc biệt có sự hậu thuẫn của Đại Đường, ngài sẽ không ngừng được tiếp tế, cho dù người Đại Thực có thiên binh vạn mã cũng làm gì được ngài đây? Như vậy có phải là tốt hơn nhiều so với việc cố gắng vượt sông, cùng Giới Nhật Vương chém giết hay không?”.
“Không sai!” Y Tự Hầu đệ tam hưng phấn, mặt đỏ phừng phùng, vội vàng nói: “Đại sư, ngài có thê bẩm báo hoàng đế Đại Đường là người Ba Tư chúng ta sẵn lòng phối hợp hay không?”.
“Nhưng…”, Vương Huyền Sách khó xử nhìn Huyền Trang: “Ta đang làm đồ đệ của sư phụ, làm sao có thể tự tiện về Trường An?”.
Huyền Trang sớm đã nhìn ra tâm tư của hắn, không để ý tới hắn.
Y Tự Hầu đệ tam nhìn Huyền Trang cầu khẩn: “Đại sư…!”.
Huyền Trang thở dài: “Đạo tu, chính là tu tâm. Ngộ Tịnh, tâm ngươi đã ở triều đình, bần tăng cũng không ngăn ngươi nữa”.
Vương Huyền Sách nghiêm mặt nói: “Sư phụ, đệ tử phụng chỉ xuất gia, đương nhiên tâm ở Phật môn, ngài ngàn vạn lần đừng hiểu lầm”.
“Vậy thì tiếp tục theo bần tăng tu hành đi!”, Huyền Trang nói.
Vương Huyền Sách vội vàng đổi giọng: “À… Đệ tử vừa ngộ ra một lẽ, cứu một mạng người còn hơn xây bảy tầng tháp. Lúc này sáu mươi vạn người Ba Tư đang phải lang bạt, không có chỗ về, nếu đệ tử có thể tìm cách giúp họ tránh được cuộc chiến tranh này, chẳng lẽ không phải còn có công đức hơn xây bảy mươi tầng tháp hay sao? Bồ Tát nói, ta không xuống địa ngục, ai xuống địa ngục, cho nên đệ tử quyết định, đệ tử thà không làm hòa thượng nữa cũng phải giúp người Ba Tư hoàn thành sứ mệnh này!”.
Huyền Trang lẳng lặng nhìn hắn, vẻ mặt ung dung bình thản. Vương Huyền Sách bị ngài nhìn đến chột dạ, cúi gằm mặt xuống.
Huyền Trang nói: “Được, ngươi đi đi!”.
“Thật không?”, Vương Huyền Sách cực kỳ vui mừng.
Huyền Trang gật đầu: “Bần tăng sẽ viết một bức thư nói rõ tình hình cụ thể, ngươi mang về cho hoàng đế bệ hạ, bệ hạ chắc chắn sẽ không trách tội ngươi tự ý quay về”.
Vương Huyền Sách nghe vậy mới thật sự xấu hổ, đối mặt với tấm lòng rộng mở của Huyền Trang, những thủ đoạn nhỏ nhặt của bản thân thật sự khiến hắn không khỏi ngượng ngùng.
Vương Huyền Sách quỳ rạp xuống lạy: “Đệ tử đa tạ sư phụ thành toàn!”.
Thế là Vương Huyền Sách và Y Tự Hầu đệ tam bí mật thỏa thuận, tối hôm đó Vương Huyền Sách hộ tống Y Tự Hầu đệ tam trở lại trạm nghỉ, hai người cùng thảo quốc thư, dùng chữ Hán và chữ Ba Tư viết thành hai bản, sau khi đóng dấu niêm phong, giao cho Vương Huyền Sách cất đi.
Y Tự Hầu đệ tam nắm tay Vương Huyền Sách, không ngừng dặn dò: “Vương trưởng sử, tiền đồ sống chết của sáu mươi vạn con dân của ta giao phó hết cho ngài! Nếu có thể được Đại Đường che chở, ta thề với thần Mã Tư Đạt, tộc nhân Ba Tư của ta vĩnh viễn làm phiên thuộc Đại Đường”.
“Bệ hạ yên tâm, Đại Đường cùng Ba Tư luôn luôn giao hảo. Có lời hứa của ngài, hoàng đế Đại Đường tất sẽ tương trợ!”, Vương Huyền Sách cảm động đáp úng: “Tại hạ lần này đi, nhất định sẽ không phụ sứ mệnh!”.
Y Tự Hầu đệ tam trịnh trọng nói: “Đây không phải sự hứa hẹn của đế vương mà là lời thề!”.
Y Tự Hầu đệ tam đích thân tiễn ra tận cửa, nhìn theo Vương Huyền Sách một người một ngựa biến mất trong bóng đêm, rồi khẽ thở dài.
Quân đoàn trưởng Hách Luân và Nữu Đa Mạn đi tới, Hách Luân vui sướng nói: “Bệ hạ thật sự định lên bắc theo kế hoạch của Vương Huyền Sách sao?”.
“Tạm thời chỉ là một hi vọng thôi”, Y Tự Hầu đệ tam nói lạnh nhạt.
Hách Luân ngẩn ra: “Chẳng lẽ bệ hạ còn chưa quyết định?”.
“Đương nhiên!” Y Tự Hầu đệ tam nói: “Đường tiến quân lên phương bắc đâu có dễ dàng như Vương Huyền Sách nói, vô số quan ải, nơi nào cũng có thể xảy ra bất trắc. Nếu chúng ta không đánh hạ được Thổ Hỏa La thì ngay cả chỗ dung thân bây giờ cũng phải vứt bỏ. Cho dù có đánh bại được Thổ Hỏa La, nhưng nếu cuối cùng Dục Cốc Thiết giành chiến thắng trong cuộc nội chiến với Tây Đột Quyết, chúng ta cũng sẽ phải đối mặt với sự trả thù của Dục Cốc Thiết. Cho dù kết quả viên mãn, Bạc Bố đánh bại Dục Cốc Thiết, nhưng nếu quân đội Đại Đường không tiếp ứng kịp thời, chúng ta lại phải đối mặt với sự trả thù của Bạc Bố! Cho nên đây chỉ là một hi vọng, chỉ là hi vọng thôi…”.
Y Tự Hầu đệ tam lẩm bẩm nói, trên tế đàn thờ lửa Tát San trong trạm nghỉ, ngọn lửa vẫn cháy hừng hực, chiếu sáng khuôn mặt Y Tự Hầu đệ tam, khuôn mặt ấy lúc sáng lúc tối trong ánh lửa, mang đầy bi thương và tuyệt vọng.
°°°
Canh ba buổi sớm hôm sau, mặt trời vừa lên trên đồng bằng sông Hằng, Huyền Trang tiễn Vương Huyền Sách ra ngoài cổng thành. Huyền Trang nhìn đồ đệ này, nói: “Thời khắc li biệt, bần tăng không nói thêm nữa, chỉ khuyên răn ngươi một câu: Thiên đạo vô tình, xem chúng sinh như cỏ rác. Nhưng nếu ngươi cũng coi đồng loại của mình như cỏ rác, sau này trở về triều đình, địa vị càng cao, gây họa càng lớn”.
“Sư phụ!” Vương Huyền Sách cười gượng: “Nhưng trên thực tế, dù là đệ tử hay là người bình thường, trong mắt đế vương đều chỉ là cỏ rác. Trong kẽ hở giữa cuộc chiến của các đại quốc, con dân trăm họ thậm chí còn không bằng một mớ cỏ để nhóm lửa, bọn họ còn không buồn cắt lấy, chỉ đạp thẳng xuống dưới bùn đất”.
“Như vậy nếu ngươi làm quan to cũng sẽ coi muôn dân trăm họ như củi rác để nhóm lửa sao?”, Huyền Trang nghiêm nghị nhìn hắn.
Vương Huyền Sách yên lặng một lát, lắc đầu: “Sư phụ, ngài có trải qua loạn lạc Tùy mạt không?”.
“Ta còn lớn hơn ngươi chừng mười tuổi, làm sao lại chưa từng trải qua?”, Huyền Trang nói.
“Đúng vậy! Sư phụ và ta đều là người Lạc Dương, từ khi Dương Huyền Cảm làm phản, ngọn lửa chiến tranh không ngừng thiêu đốt Lạc Dương, Vương Thế Sung, Trạch Nhượng, Lý Mật, Đậu Kiến Đức, Vũ Văn Hóa Cập, lại thêm đương kim hoàng đế, vô số thế lực giao chiến quanh Lạc Dương, xác nằm khắp nơi, vùng Hà Lạc gần như không còn bóng người. Sư phụ, đệ tử đã sống trong hoàn cảnh đó”, Vương Huyền Sách nói: “Sư phụ, ngài có biết cảm giác bất lực của một đứa bé khi đứng trước ngọn lửa chiến tranh không? Vương kỳ trên tường thành thay đổi liên tục, ngươi hát xong đến lượt ta ra sân khấu, hôm nay ở trong thành là quân Ngõa Cương, ngày mai mở cửa lại là quân Trịnh của Vương Thế Sung, khó khăn lắm mới giữ được tính mạng dưới lưỡi đao của quân Trịnh, sau chớp mắt quân Đường lại đến. Cho nên đệ tử vô cùng cảm kích Đại Đường, Đại Đường đã kết thúc loạn thế, cho đệ tử được yên bình, cho đệ tử vinh quang. Đệ tử từ nhỏ đã lập lời thề, quyết không để mặc người khác thao túng nữa. Đệ tử phải làm một con cá chạch, luồn lách giữa kẽ hở của các đại quốc, làm cho tay của những đế vương này trở thành tay của đệ tử, làm cho đao của những đế vương này trở thành đao của đệ tử! Kiếp này đệ tử thề trung thành với Đại Đường, nhưng cho dù là hoàng đế Đại Đường cũng không thể khống chế cuộc đời của đệ tử. Sư phụ, đệ tử cũng có tình thân, nhân tính, nhưng những thứ ấy thật sự quá xa xỉ, khoảnh khắc khi hai lưỡi đao chém tới không còn chỗ cho lòng thương cảm.”
Huyền Trang thở dài: “Có một số việc là sự đời làm thay đổi lòng người. Bần tăng cũng không ép buộc, chỉ hi vọng ngươi có thể suy nghĩ nhiều hơn về những tình cảm tốt đẹp ấy, không được chà đạp chúng”.
“Đệ tử bái biệt sư phụ!” Vương Huyền Sách quỳ xuống khấu đầu, rơi lệ từ biệt Huyền Trang.
Những ngày qua, hắn thật sự có tình cảm với Huyền Trang. Có điều khi đi lên hướng bắc được hơn một trăm dặm, Vương Huyền Sách ghìm ngựa đứng bên một bờ vực, đột nhiên sờ đầu thấy vẫn còn đeo đai bó tóc, lập tức bực bội tháo đai xuống, dùng hết sức ném mạnh xuống vực, sau đó dùng sợi dây buộc tóc lên.
Hắn lớn tiếng hét về phía vực sâu: “Vương Huyền Sách ta đã quay trở lại rồi! Đại Đường! Thổ Phồn! Thiên Trúc! Tây Đột Quyết! Đại Thực, Các đế vương, hãy run sợ đi…”.
Sau khi phát tiết xong tâm tình, Vương Huyền Sách mới chợt nhớ ra: “Ôi thôi! Đai vàng của ta! Là vàng đấy!”.
Vương Huyền Sách xót của nhưng cũng không làm gì được, đành phải thúc ngựa lên bắc. Lần này không đi đường cũ mà từ thành Khúc Nữ đi về phía đông bắc, tiến vào Nê Bà La[149] (Licchavi), vượt qua núi Hi Mã Lạp Nhã, đi tới Thổ Phồn.
Tùng Tán Cán Bố biết tin liền vô cùng mừng rỡ, đích thân đón Vương Huyền Sách vào cung điện Bố Đạt Lạp[150] (Potala) thết đãi. Hai người trò chuyện mấy ngày, Vương Huyền Sách từ biệt Tùng Tán Cán Bố, đi lên con đường cổ Đường Phồn[151], đầu tiên là vượt qua miệng núi Đường Cổ Lạp[152] (Tanggula) tiến vào Thanh Hải. Lúc này Thanh Hải đang thuộc Thổ Dục Hồn, có điều Thổ Dục Hồn đã thần phục Đại Đường, Vương Huyền Sách lấy ngư phù của mình ra, người Thổ Dục Hồn thấy vậy thì nhiệt tình đối đãi, cung cấp tất cả nhu yếu phẩm. Sau khi qua Thanh Hải là tới Đại Đường, dọc theo hành lang Hà Tây tiến vào thung lũng Vị Thủy, phía cuối chính là Trường An huy hoàng!
Trên đường ngựa không dừng vó, đêm ngày thần tốc, đi suốt ba bốn tháng, cuối cùng Vương Huyền Sách cũng thấy Trường An.
Từ cửa Kim Quang vào Trường An, bước trên khu Tây Thị đông vui tấp nập, nước mắt hắn chực trào ra. Chỉ vì uống say lỡ tay làm vỡ chén lưu li mà bị hoàng đế đuổi ra khỏi Trường An, đầu tiên là làm sứ giả hộ tống công chúa xuất giá, sau đó hóa thành mưu sĩ Thổ Phồn, tiêu diệt Tô Bì nữ quốc, đang lúc hào khí trong lồng ngực lên đến đỉnh cao lại phải xuất gia làm hòa thượng, theo Huyền Trang lang bạt khắp nơi. Bây giờ nghĩ lại, Vương Huyền Sách cảm thấy như một giấc mơ. Dường như đêm qua say rượu ở Bình Khang Phường, má kề tay ấp, sau một đêm tỉnh lại, tú bà nói: Vương lang quân, mộng hoàng lương chưa tàn, hãy ngủ thêm lát nữa.
Nhớ tới Bình Khang Phường, trong lòng Vương Huyền Sách nóng như lửa đốt, lại không dám khinh suất. Bây giờ hắn còn chưa bàn giao công việc, coi như vẫn đang trong nhiệm vụ đi sứ, đành phải đến khu Tây Thị ăn một bữa cơm Trường An chính hiệu, sau đó đến bộ Lễ bàn giao công việc, nộp lại nửa mảnh ngư phù đã nhận khi đi sứ. Quan bộ Lễ kinh ngạc hỏi: “Vương trưởng sử, sứ đoàn hộ tống công chúa đến Thổ Phồn đã về gần một năm rồi, vì sao bây giờ ngài mới trở về?”.
Vương Huyền Sách nghe mà hai mắt rưng rưng, nhưng hắn đến Thiên Trúc tìm Huyền Trang chính là sứ mệnh Lý Thế Dân đích thân giao phó, không liên quan tới bộ Lễ, cũng không tiện nói rõ. Là tặc soái của “Người Bất Lương”, hắn trao đổi với hoàng đế không cần thông qua các bộ, mà có cách khác, lập tức thông qua bí thư giám dâng sớ báo lên hoàng đế. Lý Thế Dân lập tức tuyên Vương Huyền Sách đến điện Cam Lộ trong cung Thái Cực yết kiến.
Lý Thế Dân quan sát hắn từ trên xuống dưới, nói: “Tốt lắm, hơn một năm tôi luyện, tính tình đã trầm ổn hơn rồi. Vương khanh, khanh có tìm được đại sư Huyền Trang không?”.
“Thần đến Thiên Trúc, chẳng những tìm được đại sư Huyền Trang mà còn bái đại sư làm thầy, đi theo đại sư ngao du Thiên Trúc”, Vương Huyền Sách nói: “Thần nói rõ với đại sư bệ hạ vẫn nhớ mong, đại sư quay về hướng đông bắc mà vái, cảm động trước thâm tình hậu nghị của bệ hạ”.
Vương Huyền Sách kể một lượt chuyện Huyền Trang khiêu chiến cao tăng Ngũ Thiên Trúc, tranh luận tại thành Khúc Nữ, cuối cùng được tôn là Đại Thừa Thiên. Lý Thế Dân nghe xong vỗ tay tán thưởng: “Hòa thượng giỏi lắm! Trẫm quả thật không nhìn nhầm, đúng là thiên lý mã của Phật môn, danh tiếng khắp chốn, truyền bá quốc uy Đại Đường ta!”.
Vương Huyền Sách thân mang sứ mệnh mà đến, báo cáo cục diện Càn Đà La và cảnh khốn cùng Y Tự Hầu đệ tam đang gặp phải. Tầm nhìn của Lý Thế Dân được mở rộng, ông ta sai người khiêng bản đồ vào để Vương Huyền Sách giải trình về tình hình các quốc gia, nghe rất say mê.
“Vương khanh, khanh nghĩ thế nào về đế vương các đại quốc hiện nay?”, Lý Thế Dân hỏi.
Vương Huyền Sách giật mình, lại không dám không đáp: “Nói đến đế vương mạnh mẽ nhất trên đời này, đương nhiên là bệ hạ. Từ khi bệ hạ lên ngôi tới nay đã càn quét tứ phương, Đông Đột Quyết, Thổ Dục Hồn, Cao Xương, Yên Kỳ, Tây Đột Quyết, Tiết Diên Đà[153], toàn bộ đều khuất phục. Các vương triều Trung Nguyên ta chưa bao giờ hùng mạnh như thế”.
Lý Thế Dân nghe vậy cười lớn: “Thế còn thứ hai?”.
“Thứ hai…”, Vương Huyền Sách do dự một lát: “Thứ hai chính là Cáp Lý Phát của Đại Thực! Người Đại Thực trỗi dậy trên sa mạc, trong mấy năm ngắn ngủi đã diệt Tát San Ba Tư, phía bắc đánh Bái Chiêm Đình, tây chinh phục Ai Cập, phía đông sắp đánh tới Thổ Hỏa La, sợ rằng sớm muộn sẽ tiến vào đại thảo nguyên Đột Quyết, đối chiến với Tây Đột Quyết”.
“Không sai, người Đại Thực mới trỗi dậy trên sa mạc, quân đội đang mạnh, e rằng hàng chục năm không suy giảm”, Lý Thế Dân cảm khái: “Thế còn thứ ba?”.
“Giới Nhật Vương có thể coi là thứ ba được không?”, Vương Huyền Sách nói.
Lý Thế Dân lắc đầu: “Theo trẫm thấy, không phải là Giới Nhật Vương. Trẫm cho rằng nên là Tùng Tán Cán Bố. Hắn còn trẻ đã thống nhất Thổ Phồn, chinh phục Tượng Hùng, Tô Bì nữ quốc, đánh tan Đảng Hạng, Thổ Dục Hồn, Bạch Lan Khương. Trẫm nghe nói tâm nguyện lớn nhất của Tùng Tán Cán Bố chính là sau khi chinh phục Bột Luật sẽ tiến vào đại thảo nguyên Đột Quyết, cùng người Tây Đột Quyết, người Đại Thực quyết chiến thư hùng!”.
“Nhưng tại sao không phải là Giới Nhật Vương?”, Vương Huyền Sách hỏi.
“Giới Nhật Vương?” Lý Thế Dân chỉ vào bản đồ: “Giới Nhật Vương trước kia cũng là một đấng kiêu hùng, nhưng bây giờ năm tháng không chỉ khiến gân cốt hắn già yếu đi mà còn làm suy giảm cả tinh thần và khí phách của hắn. Vài năm trước tấn công Nam Thiên Trúc thất bại, hắn lại thật sự thu quân về. Bây giờ lại nghĩ đến chuyện vượt sông Ấn, thu phục Càn Đà La. Hừ, nếu hắn hành động quyết đoán, trẫm còn bội phục hắn chút ít, nhưng khanh xem hắn, nhìn trước ngó sau, chần chừ không quyết, đây là việc làm của đế vương hay sao?”.
“Nhưng Giới Nhật Vương cũng quả thật có chỗ khó xử”, Vương Huyền Sách nói: “Y Tự Hầu đệ tam chiếm Càn Đà La, thế lực không yếu. Một khi Giới Nhật Vương vượt sông về tây, nhất định hai bên phải liều mạng một trận, cho dù đánh thắng, người Đột Quyết ở phía bắc, người Đại Thực ở phía tây cũng sẽ nhân cơ hội lao vào cắn ông ta”.
“Không!” Lý Thế Dân quả quyết: “Trước khi Bạc Bố và Dục Cốc Thiết của Tây Đột Quyết phân rõ thắng bại, sẽ không ai để ý đến Càn Đà La. Còn người Đại Thực bây giờ binh lực đang lún sâu tại Hô La San, bọn chúng có thể có ý định tấn công Càn Đà La, nhưng mục đích sẽ chỉ là giết chết Y Tự Hầu đệ tam. Trước khi bình định toàn bộ Ba Tư, bọn chúng tuyệt đối sẽ không dồn quân vượt biên giới để giao chiến với Giới Nhật Vương. Cho nên, nếu Giới Nhật Vương quả quyết, tự mình chiếm cơ hội đoạt lấy Càn Đà La trước, tiến có thể công, lùi có thể thủ. Còn chuyện sau này, quan tâm làm gì, trước hết phải đánh hạ được mới tính tiếp. Miếng thịt đã vào trong miệng chẳng lẽ còn có thể nhả ra?”.
“Đáng tiếc, Giới Nhật Vương không có dũng khí này”, Vương Huyền Sách than thở: “Vậy bệ hạ thấy Y Tự Hầu đệ tam có cơ hội sống sót hay không?”.
“Y Tự Hầu đệ tam, người này tính cách quá yếu, chỉ là miếng mồi trên thế giới toàn là cường địch này, là một bữa tiệc trong mắt các vương hầu”, Lý Thế Dân tiếc nuối: “Nếu hắn chịu tiến quân lên Thổ Hỏa La phía bắc, còn có thể có chút tác dụng, bây giờ đám người Ba Tư này chi e sẽ kiệt quệ hết trong cuộc chiến tranh đoạt sông Ấn”.
Vương Huyền Sách vô cùng khâm phục tầm nhìn của Lý Thế Dân, lập tức quỳ lạy: “Thần tự chủ trương, đã thuyết phục Y Tự Hầu đệ tam lên bắc, tiến vào Thổ Hỏa La”.
Lý Thế Dân ngẩn ra, nhìn hắn đầy quái dị, một hồi lâu mới nói: “Thật can đảm, trẫm thật sự không nhìn lầm khanh!”.
Ông ta đi tới trước bản đồ, quan sát kĩ càng: “Ý khanh ở Tây Đột Quyết sao?”.
“Suy nghĩ của thần làm sao giấu được bệ hạ”, Vương Huyền Sách cười gượng.
Lý Thế Dân không để ý tới lời nịnh nọt của hắn, lẩm bẩm trước bản đồ: “Y Tự Hầu đệ tam nếu lên Thổ Hỏa La ở phía bắc thì người lo sợ nhất là ai? Là Dục Cốc Thiết! Động cơ của Y Tự Hầu đệ tam chỉ có hai khả năng, một là cùng Thổ Hỏa La nương nhờ Bạc Bố, hai là bỏ qua Bạc Bố, nương nhờ Đại Đường ta. Dù là khả năng nào, lưỡi đao của người Ba Tư cuối cùng cũng phải chém về phía Dục Cốc Thiết. Dục Cốc Thiết sẽ làm thế nào?”.
“Chiếm lĩnh Thổ Hỏa La trước”, Vương Huyền Sách cười nói.
“Đúng!” Lý Thế Dân nói: “Như thế, chúng ta biết trước Dục Cốc Thiết phải chia quân, có thể thừa dịp binh lực của Dục Cốc Thiết mỏng yếu mà nhanh chóng tập kích, triệt để đánh tan hắn. Chỉ cần đánh tan Dục Cốc Thiết, Bạc Bố còn có thể chần chừ như bây giờ nữa sao? Chỉ có thể hoàn toàn thần phục Đại Đường!”.
Vương Huyền Sách khen ngợi từ đáy lòrig: “Bệ hạ đúng là mưu kế thâm sâu, tầm nhìn vời vợi!”.
“Đây rõ ràng là mưu kế của khanh!”, Lý Thế Dân hừ một tiếng: “Như vậy đích thực có thể đánh tan Dục Cốc Thiết. Nhưng Vương khanh có nghĩ không, nếu như Dục Cốc Thiết đích thân dẫn quân đánh chiếm Thổ Hỏa La, chúng ta đánh tan quân đội của hắn để lại ở Vu Điền cũng có ý nghĩa gì? Điều trẫm cần không phải là đánh bại Dục Cốc Thiết mà là triệt để tiêu diệt sức mạnh của hắn, làm cho Tây Đột Quyết không dám phản kháng Đại Đường ta nữa!”.
Vương Huyền Sách kinh ngạc nhìn Lý Thế Dân, không biết ông ta dự định thế nào.
“Truyền người của trung thư xá”, Lý Thế Dân hạ lệnh.
Trực thuộc trung thư xá là người của trung thư tỉnh, chịu trách nhiệm khởi thảo chiếu lệnh, xem như người hầu của hoàng đế. Một lát sau, người trực trung thư xá là Mã Chu vào yết kiến, Lý Thế Dân nói: “Mã khanh, thảo ý chỉ của trẫm, truyền cho Quách Hiếu Khác ở phủ đô hộ An Tây. Nói với hắn, Dục Cốc Thiết sẽ chia quân nam chinh Thổ Hỏa La. Nếu hắn ở lại Vu Điền, có thể tìm cơ hội dẫn quân công phá, cần phải bắt giết được hắn. Nếu hắn đích thân nam chinh, có thể nhân cơ hội phân hóa mua chuộc thuộc cấp của hắn, đợi thời cơ triệt để bao vây tiêu diệt”.
Mã Chu thảo chỉ xong mang đến thượng thư tỉnh đóng dấu, sau đó sai người khẩn cấp gửi đi.
Vương Huyền Sách cực kỳ thán phục: “Bệ hạ không nhìn được mất nhất thời mà nhìn xa trông rộng, thần không bằng”.
Lý Thế Dân cười to: “Tây Đột Quyết kỳ thực không có gì phải lo lắng, bất kể Dục Cốc Thiết hay là Bạc Bố đều chỉ là hai con sói mà thôi. Từ sau khi Khả hãn Thống Diệp Hộ chết, Tây Đột Quyết đã không còn là mãnh hổ nữa, trẫm sớm muộn cũng sẽ nắm được nó trong tay”.
Vương Huyền Sách cũng trở nên hào hứng: “Bệ hạ cảm thấy trên đời này rốt cuộc có ai là đối thủ?”.
“Trên đời này không có ai”, Lý Thế Dân cười nói: “Cao Câu Ly ở phía đông chỉ là tiểu quốc, như mụn trên da, trẫm sớm muộn sẽ đoạt được. Còn về Tây Vực, người sau này phải lo lắng, một là Tùng Tán Cán Bố của Thổ Phồn, hai là Đại Thực mới trỗi dậy trên sa mạc. Có điều chỉ cần trẫm giành được Tây Đột Quyết, nắm chặt Thổ Hỏa La, bất kể Thổ Phồn hay là Đại Thực, trẫm muốn công liền công, muốn thủ liền thủ. Thế giới sa bà này, Đại Đường không có đối thủ nữa!”.
Lý Thế Dân hăng hái, tràn ngập khí thế.
Đúng lúc này Mã Chu cầm một công văn đi vào, vẻ mặt căng thẳng lo lắng: “Bệ hạ! Bệ hạ!”.
Lý Thế Dân ngạc nhiên, Mã Chu xưa nay là người trầm ổn, tại sao lại hoảng loạn như thế?
“Chuyện gì?”, Lý Thế Dân nói.
Mã Chu hít sâu một hơi, dâng công văn lên, nói: “Tề Châu truyền đến tin tức. Ngũ hoàng tử, Tề vương Lý Hữu, dấy binh mưu phản!”.
Hai người đều kinh ngạc, Lý Thế Dân dường như không nghe rõ: “Ai… ai tạo phản?”.
“Ngũ hoàng tử, Tề vương Lý Hữu”, Mã Chu nói nhỏ.
Lý Thế Dân ngớ ra, rồi đột nhiên nổi giận, đạp tung bàn và đồ đạc trên đó, giận dữ hét lên: “Nhi tử của trẫm dấy binh tạo phản? Hạ Kiệt, Thương Trụ, Bạo Tân, Tùy Dạng, ngu ngốc tàn bạo như vậy cũng không có nhi tử tạo phản. Nhi… Nhi tử của trẫm lại muốn tạo phản? Muốn phản lại trẫm?”.
“Bệ hạ!”, Vương Huyền Sách khuyên giải: “Têf vương Lý Hữu tính tình luôn luôn quái đản, thích kết giao với kẻ gian tà, bản tính vốn như thế, không liên quan đến bệ hạ”.
“Ôi!” Lý Thế Dân dường như trong phút chốc đã già đi hơn mười tuổi, lẩm bẩm nói: “Phụ tử tương tàn, thịnh thế binh đao, sau này sử sách sẽ viết thế nào về trẫm?”.
Ông ta run rẩy đứng lên, bỗng thấy quay cuồng, sau đó ngã xuống đất.
Sau khi tỉnh lại, Lý Thế Dân tự tay viết chiếu thư, lệnh thượng thư bộ Binh, Anh quốc công Lý Tích dẫn phủ binh thảo phạt Tề vương Lý Hữu:
Ta thường răn ngươi chớ gần tiểu nhân, chính là vì thế Ngươi vốn ngoan ngoãn đức hạnh, lại nghe tà ngôn, tự rước lấy họa, dẫn đến hủy diệt. Đau đớn thay, sao mà ngu dốt đến vậy. Nào có khác gì chim thú, quên hiếu quên trung, quấy nhiễu đất Tề, giết người vô tội. Giữ lại tường thành vững chắc, lại hóa tích củi rước nguy, phá tình thân bàn thạch, đi gây hấn binh đao. Lại bội lễ trái nghĩa, trời đất cũng không dung. Bất hiếu khi quân, quan thần cùng phẫn nộ. Xưa là nhi tử của ta, nay là thù địch quốc. Vạn thế lưu danh trung liệt, chết không hối tiếc. Ngươi sống là tặc thần, chết là nghịch quỷ. Người khác thì lưu tiếng thơm, còn ngươi thì việc ác vô cùng. Từng nghe Trịnh Thúc, Hán Lệ, đều hung hăng ngang ngược, há ngờ nhi tử của ta, cũng là như thế. Ta vì thế mà trên thẹn với trời, dưới thẹn với đất, vô cùng đau tiếc, biết nói sao đây.
Lý Thế Dân viết xong chiếu thư, không nhịn được ôm mặt khóc lớn.
Ông ta triệu Vương Huyền Sách đến, nghiến răng nghiến lợi dặn dò: “Khanh theo Lý Tích đi đến Tề Châu dẹp loạn, tên nghịch tử này tạo phản thì chỉ cần một trận là có thể dẹp yên. Nhưng trẫm muốn biết, rốt cuộc là kẻ nào xúi giục hắn mưu phản! Việc này ngươi bí mật điều tra, không cần thông qua quan lại triều đình!”.
Vương Huyền Sách kinh hãi, nhẹ giọng nhận lệnh: “Vâng! Thưa bệ hạ, thần nghe nói Tề vương rất tin tưởng Yên Hoằng Tín, bất kể hắn nói gì cũng nghe. Mà người tên Yên Hoằng Tín này chính là tỷ phu của Âm Hoằng Trí. Thần có cần nghiêm khắc tra hỏi Yên Hoằng Tín hay không?”.
Vấn đề này, ngay cả Lý Thế Dân cũng không quyết được.
Tề vương Lý Hữu là nhi tử của Lý Thế Dân và Âm phi. Ngự sử trung thừa Âm Hoằng Trí là cữu cữu của Lý Hữu.
Phụ thân của Âm phi và Âm Hoằng Trí chính là danh tướng Âm Thế Sư, lưu thủ Tây Kinh thời Tiền Tùy. Năm đó Lý Uyên khởi binh chống Tùy, vây công Tây Kinh. Trong cơn giận dữ, Âm Thế Sư phái người bắt giết nhi tử thứ năm của Lý Uyên là Lý Trí Vân và phá hủy mộ tổ từ đường của Lý Uyên. Lý Uyên căm hận thấu xương, sau khi công phá Tây Kinh liền giết hết ba đời của Âm Thế Sư. Ấu tử Âm Hoằng Trí và ấu nữ bởi vì tuổi còn nhỏ nên được Lý Uyên tha chết. Sau đó Lý Thế Dân nạp Âm thị làm thứ phi, sinh hạ Tề vương Lý Hữu. Còn Âm Hoằng Trí cũng được Lý Thế Dân rất tín nhiệm, lần lượt nhậm chức thị lang bộ Lại, ngự sử trung thừa.
Ý của Vương Huyền Sách rất rõ ràng, một khi tra hỏi Yên Hoằng Tín, rất có thể sẽ liên lụy tới Âm Hoằng Trí, thậm chí liên lụy tới Âm phi, sợ rằng lại là một trận rối ren trong hoàng thất.
“Tra!” Lý Thế Dân do dự một lát, nghiến răng nghiến lợi nói: “Bất kể là ai, phải tra đến cùng! Không có người xúi giục, nhi tử của trẫm sẽ phản lại trẫm sao? Hừ, ngoài cửa tam vương tranh đoạt, nhà Đường nay gặp luân hồi? Trẫm không tin!”.
Vương Huyền Sách không dám nói tiếp, nhận lệnh mà đi.
Đại quân của Lý Tích lao thẳng tới Tề Châu, Vương Huyền Sách thì dẫn “Người Bất Lương” chạy tới Tề Châu trước một bước, lập tức cảm thấy kinh ngạc: Đây giống như đang tạo phản loạn sao? Phòng ngự thì lỏng lẻo, binh sĩ hoảng hốt bất an, nghe nói Lý Hữu đã truyền hịch đến mấy châu xung quanh, căn bản không có ai nghe theo.
Vương Huyền Sách tìm được binh tào Tề Châu là Đỗ Hành Mẫn, hỏi thăm tình hình Lý Hữu, hỏi xong thì càng thêm kinh ngạc. Sau khi Lý Hữu dựng cờ tạo phản, phong chức lung tung cho các sủng thần của mình, nào là Thượng Trụ Quốc, Thác Tây Vương, Thác Đông Vương gì đó. Mà lúc này cả Tề Châu đều biết Lý Tích dẫn quân đến dẹp loạn, Lý Hữu thì đang làm gì? Hắn vẫn giống như thường ngày, cùng thủ hạ yến ẩm cả ngày, thâu đêm suốt sáng.
Trong lúc ăn chơi, thỉnh thoảng Lý Hữu cũng nhắc tới đại quân triều đình. Yên Hoằng Lượng là đệ đệ của Yên Hoằng Tín say rượu cười to: “Đợi quân của Lý Tích đến, thần tay phải cầm rượu, tay trái cầm đao, vì đại vương chém hết đại quân của Lý Tích!”.
Lý Hữu hết sức vui vẻ.
Vương Huyền Sách lập tức bạo gan, cùng Đỗ Hành Mẫn bàn bạc, dứt khoát đánh thẳng vào phủ Tề vương, bắt Lý Hữu!
Đỗ Hành Mẫn cũng là một kẻ gan to hơn trời, không kém gì Vương Huyền Sách. Hai bên tụ tập gần trăm người trung thành với triều đình, đêm khuya đi tới phủ Tề vương, đào thủng tường bao, đánh vào vương phủ.
Quân đội trong phủ Tề vương lập tức sụp đổ, căn bản không chịu được một đòn.
Đám người Lý Hữu và Yên Hoằng Lượng đang yến ẩm, hai người cũng rất phiền não, đang thương lượng có cần lên núi Đậu Tử ngoài thành làm cướp hay không. Lý Hữu có chút lưu luyến không rời, chần chừ không quyết. Đúng lúc này Vương Huyền Sách tập kích vương phủ, hai người còn tưởng đại quân của Lý Tích đã phá thành, hoảng sợ mặc áo giáp, cầm cung tên trốn vào trong nhà, lệnh cho cận vệ thân tín chống cự.
Vương Huyền Sách bao vây cả phủ viện, ra lệnh tấn công. Nhưng phủ viện này xây dựng rất kiên cố, Vương Huyền Sách lại không dám làm Lý Hữu bị thương, hai bên giằng co từ lúc trời sáng đến giữa trưa, Lý Hữu không chịu đầu hàng.
Vương Huyền Sách sốt ruột quát to: “Lý Hữu, ngươi trước kia là nhi tử của hoàng đế, giờ đây là phản tặc Đại Đường. Nếu còn không đầu hàng, ta sẽ phóng hỏa!”.
Lý Hữu cũng sốt ruột, nói vọng qua cửa sổ: “Nếu ngươi không làm hại tính mạng của Yên Hoằng Lượng và mọi người, bản vương sẽ hàng!”.
“Được! Ta tuyệt đối không giết hắn!”, Vương Huyền Sách hứa hẹn.
Lý Hữu cũng thoải mái hơn, lập tức vứt vũ khí đầu hàng. Quân sĩ lần lượt trói gô bọn chúng lại, Lý Hữu còn tức giận quát lớn: “Làm ra vẻ là được rồi, dây thừng trói lỏng một chút, cõng gai nhận tội cũng chỉ là hình thức thôi mà. Đúng rồi, tìm cho bản vương mấy cành gai cắm lên! Mà thôi, chỗ này cách Trường An còn xa, gai đâm đau lắm, đợi bản vương đến Trường An rồi cắm”.
Vương Huyền Sách và Đỗ Hành Mẫn đưa mắt nhìn nhau.
“Đỗ binh tào, ngài trông coi Lý Hữu. Ta phải thẩm vấn riêng một người”, Vương Huyền Sách dặn dò xong sai người dẫn Yên Hoằng Lượng vào một phòng bên cạnh, một mình thẩm vấn hắn: “Là người nào xúi giục Tề vương mưu phản?”.
Yên Hoằng Lượng ủ rũ: “Kì thực cũng không phải xúi giục, trưởng sử của Tề vương là Quyền Vạn Kỷ do bệ hạ phái tới vẫn có mâu thuẫn với bọn ta. Hắn quản giáo Tề vương nghiêm khắc, cho rằng bọn ta đều là tiểu nhân, nhiều lần muốn đuổi bọn ta đi. Sau đó ta bí mật mưu đồ với Tề vương ám sát Quyền Vạn Kỷ, không ngờ hắn lại phát hiện được, bắt hai tên tâm phúc của ta tống vào ngục và báo cho triều đình. Tháng trước bệ hạ chuẩn bị phái thượng thư bộ Hình là Lưu Đức Uy đến Tề Châu tra rõ việc này, một khi điều tra, đầu ta coi như lìa khỏi xác rồi! Ta và Tề vương hận Quyền Vạn Kỷ thấu xương, thừa dịp hắn ra ngoài liền bắn chết hắn. Nhưng sau khi giết hắn xong bọn ta mới nghĩ ra, đâu có ích gì, dù sao Lưu Đức Uy vẫn sẽ đến điều tra… Cho nên, suy đi tính lại, chi bằng tạo phản luôn!”.
Vương Huyền Sách trợn mắt há mồm: “Có vậy thôi sao?”.
“Có vậy thôi”, Yên Hoằng Lượng khẳng định.
“Đồ ngốc!”, Vương Huyền Sách oán hận. Lúc này hắn đã xác định, việc Lý Hữu mưu phản không hề liên quan đến Âm Phi và Âm Hoằng Trí, xảy ra cơ sự này chỉ bởi vì gã này là một thằng ngốc.
“Ta không phải kẻ ngốc”, Yên Hoằng Lượng lại sốt ruột: “Hột Can Thừa Cơ nói, những quan lại này ức hiếp các hoàng tử quá đáng, kêu bọn ta đứng lên phản kháng, lúc thái tử đến nhất định sẽ bênh vực bọn ta!”.
Vương Huyền Sách hoảng sợ tột độ: “Ngươi nói ai?”.
“Hột Can Thừa Cơ!”, Yên Hoằng Lượng nói: “Hiệu úy tả vệ suất phủ thái tử, thị tòng của thái tử. Chuyện Lưu Đức Uy sẽ đến điều tra bọn ta cũng là do thái tử sai hắn đến mật báo”.
Mồ hôi lạnh chảy ròng ròng trên trán Vương Huyền Sách, sắc mặt mưa nắng thất thường. Hắn lặng lẽ đi ra ngoài, liếc trái rồi lại liếc phải. Đám binh sĩ cùng xông vào phòng, vung đao chém giết.
“Vương Huyền Sách, ngươi không giữ lời!”, Yên Hoằng Lượng hét lên. Vương Huyền Sách không quay đầu lại mà đi thẳng ra ngoài. Chốc lát sau binh sĩ đã chém Yên Hoằng Lượng nát bét.
Cuộc phản loạn của Tề vương bị dẹp yên như một vở hài kịch. Sau khi đại quân của Lý Tích đến, vị thần tướng bách chiến này cũng cười khổ không thôi. Triều đình bỏ ra rất nhiều công sức, điều động mấy vạn đại quân phủ binh từ chín Châu, kết quả phản loạn lại bị hơn một trăm người dẹp yên.
Lý Tích thương lượng với Vương Huyền Sách một lát, trước báo tin chiến thắng, sau đó áp giải đám Lý Hữu trở lại Trường An.
[*] [148] Ishbara Tolis hay A Sừ Na Đồng Nga là khá hãn trị vì Tây Đột Quyết trong thời gian từ năm 634-639. Con trai của Mạc Hạ Thiết.
[*] [149] Nê Bà La (còn gọi là Ni Bà La) tức Licchavi là một vương quốc cổ đại thuộc tiểu lục dịa Ấn Độ, hiện là vùng Thung lũng Kathmandu ở Nepal, từ khoảng 400 đến 750 SCN.
[*] [150] Cung điện Potala là cung điện cao nhất thế giới, nằm ở Lhasa, thủ phú của Tây Tạng. Cung điện này được coi là biểu tượng của Phật giáo Tây Tạng. Potala từng được sử dụng như là cung điện mùa đông của Đức Đạt Lai Lạt Ma, cũng như là nơi đặt chính phủ Tây Tạng. Đây là một công trình biểu tượng cho quyền lực gắn liền với các đời Đạt Lai Lạt Ma và Tạng Vương, đóng vai trò gìn giữ, truyền bá văn hóa truyền thống của Tây Tạng.
[*] [151] Đường cổ Đường Phồn là con đường giao thông tới Tây Nam rất nổi tiếng của Trung Quốc vào thời nhà Đường, từ trong nước muốn đi tới các nước Thanh Hái, Tây Tạng, Nĩ Bạc Nhĩ (Nepal), Ấn Độ,… buộc phải đi qua con đường này.
[*] [152] Đường Cổ Lạp (Tanggula) là một dãy núi ở trung tâm của cao nguyên Tây Tạng.
[*] [153] Tiết Diên Đà hay Syr-Tardush là một bộ lạc Thiết Lặc cô và hãn quốc ở trung bắc châu Á, họ từng có thời điểm là chư hầu của Đột Quyết, song sau đó đã liên kết với nhà Đường chống lại Đông Đột Quyết.
[*] [154] Sắc phong chức vị hầu, quản lý vạn hộ dân, lợi tức thuế má thu được nộp thăng cho vị đó, không cần cống vua.