← Quay lại trang sách

Chương 12 Binh biến Huyền Vũ Môn thời Trinh Quán

Lý Thế Dân nhận được tin chiến thắng lại chẳng hề thấy vui mừng. Tấu chương của Lý Tích và Vương Huyền Sách đã chúng thực chuyện nhi tử của mình khởi binh tạo phản. Lý Thế Dân vừa giận dữ vừa nhục nhã. Bản thân luôn chăm lo việc nước, tạo nên thịnh thế Trinh Quán, Đại Đường huy hoàng, kết quả lại bị nghịch tử này cho một bạt tai.

Tuy nhiên trong vấn đề xử trí Lý Hữu như thế nào, phía triều đình lại xuất hiện nhiều tranh luận gay gắt. Đám Phòng Huyền Linh cho rằng có thế giáng làm thứ dân, trục xuất đến Lĩnh Nam. Đám Trưởng Tôn Vô Kị thì yêu cầu phải trừng phạt nghiêm khắc.

Phòng Huyền Linh bẩm rằng: “Thưa bệ hạ, Tề vương là nhi tử ruột thịt của người. Mặc dù làm điều ác không chịu hối cải, nhưng cũng vẫn còn tình nghĩa phụ tử. Tề vương có chết cũng không hết tội, nhưng nếu bệ hạ xử tử Lý Hữu, e rằng sẽ tổn hại đến danh tiếng”.

Trưởng Tôn Vô Kị phản bác: “Người làm phụ thân phải nghĩ đến tình nghĩa phụ tử, hắn là nhi tử có nghĩ tới không? Đại mưu nghịch, tội ác tày trời. Lý Hữu thân là Tề vương, lại bất trung bất hiếu bất nhân bất nghĩa, nếu không nghiêm khắc trừng trị, pháp luật triều đình, đại nghĩa quân thần ở nơi nào? Chẳng lẽ để mọi người trong thiên hạ đều biết, chỉ cần là nhi tử của hoàng đế thì phạm tội mưu phản vẫn thoát chết được sao?”

Phòng Huyền Linh còn muốn nói nữa, Lý Thế Dân đã đau buồn phất tay, bước chân lảo đảo rời khỏi điện Cam Lộ. Bóng hình già nua hốc hác, tuổi mới bốn mươi mà thoạt nhìn lại như lão niên đã ngoài năm mươi.

Lý Thế Dân rời khỏi điện Cam Lộ, đi tới nội thị tỉnh. Tề vương Lý Hữu bị giam ở nơi này.

Lý Thế Dân đi vào cung thất, nội thị giám đỡ ông ta ngồi xuống, sau đó đưa Lý Hữu ra quỳ dưới chân ông ta.

Lý Thế Dân bình tĩnh nhìn nhi tử này của mình: “Vì sao muốn mưu phản?”.

Lý Hữu ủ rũ: “Làm hoàng tử của phụ hoàng quá mệt”.

“Quá mệt?” Lý Thế Dân giận tái mặt, một cước đạp Lý Hữu ngã ngửa ra, hét lớn: “Trẫm từ trong núi thây biển máu chém giết lẫn nhau của Tùy mạt đi ra, giành lấy thiên hạ Đại Đường cho các ngươi, để các ngươi trở thành thiên hoàng quý tộc, ban cho ngươi cả một châu. Làm nhi tử của trẫm, ngươi lại còn than quá mệt! Sao ngươi không đi làm heo làm chó!”.

Lý Hữu mặt vẫn đang chảy máu, lại cười nói: “Phụ hoàng, ngài anh minh ngút trời, uy nghi thần võ, nhi thần đương nhiên vạn phần bội phục. Nhưng vì sao ngài lại bắt mỗi một nhi tử của mình đều phải trở thành người như ngài? Phải thân cận Nho sĩ, học rộng hiểu sâu, khiêm tốn hiếu học, biết nghe can gián. Từ nhỏ ngài đã phái hơn mười vị sư phụ đến dạy bảo nhi thần, muốn bồi dưỡng nhi thần thành người như đại ca và tứ ca, nhưng nhi thần lại không muốn học theo bọn hắn!”.

“Học bọn chúng có gì không tốt?” Lý Thế Dân tức giận thở hổn hển.

“Học bọn hắn có gì tốt chứ?” Lý Hữu nhếch miệng: “Nói cho cùng, đại ca và tứ ca cũng đều làm bộ cho ngài xem mà thôi. Đại ca mười ba tuổi đã có thể viết sách lược trị quốc sao? Hắn viết cái con khỉ, toàn là một đám đại thần giúp đỡ để làm ngài vui vẻ thôi. Tứ ca à? Nói là mười tám tuổi đã bắt đầu chủ biên ‘Quát Địa Chí’, hừ, còn không phải tìm một đám văn nhân đến viết cho hắn sao? Vì sao chứ? Bởi vì ngài thích thế! Ngài hi vọng nhi tử của ngài đều là người tài đức toàn vẹn. Nhưng nhi thần lại không muốn làm như vậy, nhi thần chỉ thích cưỡi ngựa săn bắn, tụ tập đánh bạc, cùng bạn bè uống rượu chuyện trò”.

“Đó là bởi vì ngươi đắm mình trong trụy lạc!” Lý Thế Dân giận dữ.

“Đó là bởi vì bọn hắn có dã tâm!” Lý Hữu không lưu tình chút nào: “Phụ hoàng, bọn hắn muốn làm ngài vui, muốn ngồi lên ngai vị hoàng đế. Nhi thần lại không muốn, chỉ muốn tự do tự tại sống cuộc đời này. Nhi thần không muốn phải đeo mặt nạ, nào là đạo đức văn chương, nào là danh tiếng nhân từ, những thứ này nhi thần hoàn toàn không cần!”

Lý Thế Dân cực kỳ tức giận: “Tại sao trẫm lại sinh ra một đứa con như ngươi chứ?”

Lý Hữu khinh khỉnh: “Phụ hoàng còn muốn sinh được một nhi tử như thế nào đây? Như đại ca và tứ ca à? Thôi đi phụ hoàng, ngài đang diễn, bọn hắn cũng diễn, mọi người đều đang diễn, chỉ có nhi thần là không muốn diễn mà thôi”.

“Trẫm diễn cái gì?” Lý Thế Dân hỏi.

Lý Hữu cười, nói: “Phụ hoàng, ngài nóng lòng muốn biến đám nhi tử của mình thành người đạo đức hoàn mĩ, còn không phải là vì đạo đức của ngài có vết nhơ sao? Binh biến Huyền Vũ Môn, ngài giết đại bá và tứ thúc, bức bách tổ phụ thoái vị, còn đuổi cùng giết tận mười vị biểu huynh biểu đệ của nhi thần, với những tội nghiệt này, ngài diễn minh quân tài đức có ai tin chứ!”.

“Lớn mật!” Lý Thế Dân tức giận đến suýt phát điên, xông lên vừa đấm vừa đá Lý Hữu. Lý Hữu bị đánh máu me đầy người, nằm trên mặt đất.

Lý Hữu cười khanh khách không ngùng: “Phụ hoàng, chuyện đã như vậy. Ngài có tì vết về đạo đức, cho nên mới cố gắng biến chúng nhi thần thành người đạo đức hoàn mĩ, nhi thần cảm thấy không có ý nghĩa, không muốn diễn, muốn làm gì thì làm nấy. Lần này tốt rồi, những ngày ăn chơi lu bù không còn nữa, Tề vương cũng không làm được. Ngài hãy phế nhi thần thành thứ dân, nhi thần sẽ sống tự do tự tại cả đời trong dân gian là được”.

“Ngươi muốn tự do tự tại cả đời?” Lý Thế Dân cười gằn.

Lý Hữu cảm khái: “Đúng vậy! Đáng tiếc từ nhỏ nhi thần không học được cách kiếm tiền, đành phải bán một chút đồ đạc, có lẽ ăn uống không lo”.

Lý Thế Dân giận quá hóa điên, cười lớn bước ra ngoài điện: “Không ngờ trẫm lại sinh ra một kẻ ngốc! Người đâu, thảo chiếu! Ban chết cho Lý Hữu, giáng Âm phi xuống tần!”.

Lý Hữu ngây ra, lập tức gào khóc bò theo: “Phụ hoàng, ngài muốn giết ta sao? Ta là nhi tử của ngài cơ mà!”.

“Ngươi từng là nhi tử của ta, bây giờ là tội nhân của quốc gia!” Lý Thế Dân lạnh lùng nói.

“Như vậy thì ngài cũng không thể giết ta được! Đây là phụ tử tương tàn!” Lý Hữu kêu.

Lý Thế Dân không quay đầu lại, đi ra nội thị tỉnh.

Lý Hữu tuyệt vọng, cười thảm hét lên: “Phụ hoàng, ngài khơi dòng huynh đệ tương tàn cho Đại Đường, ta khơi dòng phụ tử tương sát cho Đại Đường. Hoàng thất Đại Đường ta chẳng lẽ phải phạm hết tội nghiệt trong thiên hạ sao?”

Bước chân Lý Thế Dân dừng lại một chút, cuối cùng vẫn dấn bước đi thẳng không quay đầu lại.

°°°

Vương Huyền Sách và Đỗ Hành Mẫn mai phục trong một nhà dân ở Thông Thiện Phường, nhìn chằm chằm vào ngõ tối đối diện.

“Đến rồi!” Đỗ Hành Mẫn nói nhỏ. Vương Huyền Sách vẫy tay, các cao thủ của “Người Bất Lương” phía sau lũ lượt tản ra.

Đỗ Hành Mẫn là binh tào Tề Châu, sau khi bắt Lý Hữu được Vương Huyền Sách tán thưởng, cho rằng người này to gan lớn mật, rất hợp ý mình, bèn điều hắn vào đội tặc soái “Người Bất Lương” làm phó tướng của mình. Hắn biết đằng sau vụ mưu phản của Lý Hữu có bàn tay của thái tử can dự vào, nhưng lại không hề có bằng chứng, cũng không dám nói với Lý Thế Dân, thế là rải ra một số đông nhân thủ truy tìm tung tích của Hột Can Thừa Cơ.

Vị Hột Can Thừa Cơ này là nhân vật mấu chốt của phe thái tử, chuyên giúp thái tử làm một số chuyện “không sạch sẽ”, năm ngoái việc ám sát Vu Chí Ninh cũng do hắn đích thân ra tay. Vương Huyền Sách vốn cho rằng hắn đã trốn thoát, không ngờ vẫn còn đang bán mạng giúp thái tử.

Trong ngõ nhỏ đối diện có một căn nhà của kỹ nữ, lầu xanh Trường An phần lớn tụ tập ở hội phường Bình Khang, có điều Hột Can Thừa Cơ không dám xuất đầu lộ diện, đành phải tìm kỹ nữ ở khu dân nghèo phía nam thành Trường An. “Người Bất Lương” dưới trướng Vương Huyền Sách trải rộng khắp Trường An, theo dõi hơn một tháng, cuối cùng cũng chặn được hắn.

Lúc này cửa ngách căn nhà đó mở ra, một nam tử đầu đội mũ người Hồ đi ra, bên hông đeo đao. Loại mũ này phía trên có chóp nhọn, phía dưới có vành mũ, còn có tai mũ lật lên, có thế che khuất cả khuôn mặt hắn.

“Có phải hắn không?” Vương Huyền Sách hỏi “Người Bất Lương” phụ trách theo dõi.

“Người Bất Lương” đó gật đầu xác nhận: “Chính là hắn!”.

“Bắt lấy hắn!” Vương Huyền Sách ra lệnh một tiếng, “Người Bất Lương” tới tấp từ tường cao nhảy xuống, xông về phía Hột Can Thừa Cơ.

Hột Can Thừa Cơ biết tình hình không ổn, rút trường đao ra chống lại “Người Bất Lương”. Vương Huyền Sách đã tận mắt nhìn thấy võ công của người này, biết hắn võ nghệ cao cường, chỉ có gã cầm mạch đao lần trước mới có thể đánh bại được. Vì vậy lần này triệu tập tới đây đều là cao thủ, bốn năm người xoay quanh Hột Can Thừa Cơ đâm chém như đèn kéo quân, tiếng đao kiếm va chạm dày đặc như rang đậu.

Hột Can Thừa Cơ không chống cự được, liên tục trúng đao, vội vàng vung đao đẩy ra hai người, cướp đường mà chạy. Vừa chạy vào ngõ nhỏ, đột nhiên một tấm lưới từ trên trời giáng xuống, bốn “Người Bất Lương” mỗi người cầm một góc lưới từ trên tường nhảy xuống chụp lên người hắn. Hột Can Thừa Cơ giận dữ hét lên, nhưng càng giãy giụa càng bị siết chặt như một cái bánh tét.

Vương Huyền Sách thở phào nhẹ nhõm, cùng Đỗ Hành Mẫn từ trên tường nhảy xuống, lột mũ hắn xuống, chính là Hột Can Thừa Cơ. Vương Huyền Sách cười nói: “Dẫn đi!”.

Hột Can Thừa Cơ nhìn thấy Vương Huyền Sách, sắc mặt tức thời tái nhợt, không nói một lời. “Người Bất Lương” khiêng hắn lên, chạy ra ngõ nhỏ, đặt vào trong xe ngựa dừng ngoài đầu ngõ, nghênh ngang rời đi. Cả quá trình vây bắt diễn ra nhanh chóng, chỉ sau thời gian uống nửa chén trà, trong ngõ nhỏ đã khôi phục sự tĩnh lặng như cũ.

Sự tồn tại của người này quá nhạy cảm, Vương Huyền Sách không dám mang hắn về nha môn, mà tìm một tòa viện bí mật ở khu nam thành giam giữ hắn để thẩm vấn.

“Hột Can huynh, huynh và ta đều ở suất phủ thái tử, cũng coi như là đồng liêu”, Vương Huyền Sách thở dài: “Thủ đoạn của ‘Người Bất Lương’ hẳn là huynh đã biết, ta không muốn dụng hình trên người huynh, tốt nhất là chúng ta cứ thẳng thắn với nhau”.

Hột Can Thừa Cơ yên lặng rất lâu: “Vương trưởng sử, ngài có biết chỉ cần ta mở miệng sẽ gây ra sóng gió to lớn thế nào trong triều đình không?”.

Vương Huyền Sách gật đầu: “Đương nhiên biết”.

“Ồ, ta quên mất. Vương trưởng sử ngài gan to hơn trời, cơn sóng gió này chưa chắc không phải là cơ hội tiến thân của ngài”, Hột Can Thừa Cơ cười khổ: “Muốn ta khai ra, có một điều kiện”.

“Huynh nói đi”, Vương Huyền Sách nói.

“Trước mặt hoàng đế, coi như ta tự thú tố giác”, Hột Can Thừa Cơ nói: “Như thế ta còn có thể giữ được một mạng, bằng không ta chết chắc, vì sao phải tặng cho ngươi công lao lớn này?”.

“Được!” Vương Huyền Sách lập tức gật đầu, hắn thấy Hột Can Thừa Cơ có vẻ không tin, lập tức giải thích: “Huynh cũng không cần hoài nghi, đây là công lao, cũng là vũng lầy. Công lao này quá lớn, mạo hiểm cũng quá lớn, một mình ta nuốt không trôi, cũng không dám nuốt”.

Hột Can Thừa Cơ cười gượng: “Ngài nói không sai, ta cũng chỉ tìm đường sống trong cõi chết, đánh bạc một lần. Tốt rồi, ngài hỏi đi, ta nói”.

“Ai sai khiến huynh đến Tề Châu xúi bẩy Lý Hữu mưu phản?” Vương Huyền Sách hỏi.

“Thái tử”, Hột Can Thừa Cơ nói: “Việc xúi bẩy Lý Hữu đã được tiến hành hơn một năm, trong thời gian này đều là ta qua lại truyền tin”.

Vương Huyền Sách lệnh thầy ký ghi chép nội dung đối đáp của hai người, sau đó hỏi: “Vì sao thái tử lại xúi bẩy Lý Hữu mưu phản?”.

Hột Can Thừa Cơ lộ vẻ châm chọc: “Bởi vì chính thái tử muốn mưu phản!”.

Lời này vừa nói ra, Vương Huyền Sách lập tức run lên. Mặc dù đã có chuẩn bị tâm lí nhưng vẫn cảm thấy cực kỳ kinh hãi. Thầy ký ghi chép bên cạnh cũng kinh hãi không thôi, mặt cắt không còn giọt máu, bàn tay cầm bút cũng run lẩy bẩy. May mà trong phòng không có người khác, nếu không một khi câu này truyền ra sẽ gây nên phong ba bão táp vô biên trên triều đình Đại Đường.

“Từ năm Trinh Quán thứ mười lăm, thái tử đã chuẩn bị kế hoạch mưu phản, tuy nhiên bệ hạ anh minh thần võ, muốn bắt chước bệ hạ làm một cuộc binh biến Huyền Vũ Môn là điều rất khó”, Hột Can Thừa Cơ nói: “Cho nên mưu sĩ Vi Linh Phù bày mưu tính kế, xúi giục Tề vương Lý Hữu mưu phản, đến lúc đó tất nhiên triều đình sẽ tập trung toàn bộ chú ý đến Tề Châu. Mà khi hoàng đế phái đại quân dẹp loạn nhất định phải điều tướng quân với phủ binh Trường An đi, như vậy các vị trí trong quân đội Trường An sẽ khuyết người, thái tử nhân cơ hội này đưa người của mình vào, bí mật khống chế hoàng thành. Chỉ tiếc Tề vương Lý Hữu quá non kém, bọn ta vốn dự tính hắn có thể chống cự ba tháng, không ngờ đại quân dẹp loạn còn chưa tới Tề Châu, bản thân hắn đã bị bắt rồi”.

Cố họng Vương Huyền Sách khô khốc, hắn gắng gượng ép mình không run lên: “Vậy bây giờ kế hoạch của thái tử là gì?”.

Hột Can Thừa Cơ nói: “Sau khi Lý Hữu bị bắt, thái tử hạ lệnh cắt đứt tất cả liên lạc với Tề Châu, chờ xem tình thế thay đổi”.

“Phe cánh của thái tử có những người nào tham dự?” Vương Huyền Sách hỏi.

“Những thành viên cốt lõi là Hán vương Lý Nguyên Xương, phò mã đô úy Đỗ Hà, thượng thư bộ Lại Hầu Quân Tập, tả đồn vệ trung lang tướng Lý An Nghiễm”, Hột Can Thừa Cơ nói.

Vương Huyền Sách cảm thấy đầu óc quay cuồng. Hắn vốn tưởng thái tử chỉ dựa vào lực lượng của vệ suất phủ, không ngờ lại có nhiều đại quan triều đình tham dự như vậy. Đỗ Hà là nhi tử của tể tướng Đỗ Như Hối đã quá cố, Hán vương Lý Nguyên Xương là dị mẫu huynh đệ của Lý Thế Dân, hai người này tạm không nói. Hầu Quân Tập là danh tướng của triều đình, chiến tích cầm quân chỉ kém Lý Tình và Lý Tích. Lý An Nghiễm càng nguy hiểm hơn, hắn nắm giữ túc vệ của hoàng cung. Có thế nói thái tử đã hoàn toàn nắm đủ điều kiện để thực hiện binh biến.

“Bọn họ định phát động binh biến thế nào?” Vương Huyền Sách hỏi.

Hột Can Thừa Cơ nói: ‘Theo kế hoạch lúc trước, đầu tiên thái tử giả vờ đột ngột phát bệnh, hoàng đế nhất định sẽ đến đông cung thăm hỏi. Hán vương và Đỗ Hà là hoàng thân, sẽ đi theo hoàng đế, vào trong phòng của thái tử sẽ đột nhiên khống chế hoàng đế. Hoặc giết chết, hoặc làm hôn mê. Sau đó thái tử và Hán vương lấy danh nghĩa hoàng đế bị thích khách do Lý Hữu phái tới đâm bị thương, phải đưa vào trong cung chữa trị, lừa mở cổng thành, sau đó dựa vào lực lượng của Lý An Nghiễm khống chế hoàng cung. Sau đó giả mạo chiếu chỉ để Hầu Quân Tập điều động mười sáu vệ nha môn phía nam khống chế Trường An, việc lớn tất thành”.

Vương Huyền Sách nghe mà mồ hôi đầm đìa, kế hoạch chính biến của thái tử gồm nhiều khâu ghép lại, mỗi khâu đều có trợ thủ đắc lực hành động, nếu không có phòng bị, e rằng thật sự có khả năng thành công. Hơn nữa ở Đại Đường, thái tử có binh quyền, thái tử thống lĩnh mười suất phủ đông cung, bên dưới có ba mươi đội chiến xa, có binh lực khoảng ba vạn người. Trong đó tả hữu giám môn suất phủ, tả hữu nội suất phủ là thân binh trực thuộc của thái tử, có ba ngàn người, đều đóng quân trong hoàng thành, về lí thuyết, muốn tạo chính biến, số binh lực này hoàn toàn đủ dùng. Huống hồ còn có nội ứng Lý An Nghiễm và ngoại viện Hầu Quân Tập nữa.

“Chỉ có điều Lý Hữu bị diệt quá nhanh”, Hột Can Thừa Cơ nói thêm: “Bây giờ không thể mượn danh nghĩa Lý Hữu nữa, có thể sau này sẽ có điều chỉnh”.

“Thời gian cụ thế là lúc nào?” Vương Huyền Sách hỏi.

“Bất cứ lúc nào cũng có thể phát động”, Hột Can Thừa Co suy nghĩ một lát, đột nhiên mặt biến sắc: “Không ổn rồi! Giờ Mùi một khắc hôm nay ta phải đến gặp Vi Linh Phù nhận nhiệm vụ! Người này rất giỏi mưu tính, thấy ta không tới e rằng sẽ nghi ngờ!”.

Vương Huyền Sách vội vàng hỏi: “Bây giờ là giờ gì?”.

“Giờ Thân một khắc”, thầy ký đáp.

“Hỏng rồi!” Vương Huyền Sách cuống lên, tức giận quát: “Tại sao ngươi không nói sớm?”.

“Bị ngài bắt được, đầu óc bây giờ vẫn còn hỗn loạn. Ai mà nhớ được chuyện này”, Hột Can Thừa Cơ oan ức đáp trả.

Vương Huyền Sách trong lòng sốt ruột, cầm tờ khẩu cung lên, để Hột Can Thừa Cơ ấn dấu tay, sai người trông chừng hắn rồi vội vã chạy ra ngoài, dẫn Đỗ Hành Mẫn và đám “Người Bất Lương” chạy về hoàng thành.

Chạy tới phố Chu Tước đã nghe thấy tiếng trống đóng cửa liên hồi không ngừng. Trường An thực hiện giới nghiêm, sau khi mặt trời lặn, lính coi cổng thành Thừa Thiên bắt đầu đánh hồi trống đầu tiên, cửa cung điện đóng lại. hồi trống thứ hai chấm dứt, cổng cung thành đóng lại. hồi trống thứ ba chấm dứt, cổng hoàng thành, kinh thành, phường thị đóng lại. Trống sáng ba trăm tiếng, trống chiều tám trăm tiếng.

Sau khi trống chiều vang lên, các con phố chính trong thành không còn bóng người, kim ngô vệ và vũ hậu bắt đầu tuần tra, một khi thấy trên đường có người đi đường vi phạm lệnh giới nghiêm lập tức trói lại, quất hai mươi roi. Dùng trống làm tín hiệu là ý tưởng của Mã Chu, lúc đầu triều đình sai người ra phố hô to, sau đó Mã Chu cảm thấy biện pháp này không ổn, liền tấu xin Lý Thế Dân đặt trống trên phố, chỉ cần đến giờ, từ cung thành đến hoàng thành đến ngoại thành, tất cả các phố lớn đi ra mười hai cổng thành đều đánh trống, cực kỳ tiện lợi.

Vương Huyền Sách dẫn binh mã thúc ngựa phi nhanh trên phố lớn, lúc này tiếng trống ầm ầm, đã bắt đầu gõ trống đóng cổng. Vương Huyền Sách lòng nóng như lửa đốt, hắn phải bẩm báo với hoàng đế tin thái tử mưu phản ngay lập tức, một khi không vào được cung thành sẽ càng phiền phức. Giờ thân ba khắc, hoàng thành đóng cổng, hắn cấp tốc chạy vào được hoàng thành nhưng cung thành đã đóng.

Đỗ Hành Mẫn kiến nghị để hôm sau bẩm báo hoàng đế, Vương Huyền Sách lại không dám chậm trễ. Lý Thế Dân ở cung thành, đông cung của thái tử ở phía đông cung thành, chỉ cách một bức tường, có cửa Thông Huấn để ra vào. Ngộ nhỡ thái tử phát động chính biến trong đêm, người bên ngoài hoàn toàn không thể phát hiện được.

Nhưng lúc này cổng thành đã đóng, không có mệnh lệnh của hoàng đế, bất kỳ ai cũng không được mở cửa thành. Vương Huyền Sách sai người tới trung thư ngoại tỉnh, những trung thư xá nhân không cần trực đêm phần lớn đều ngủ đêm ở đây. Vương Huyền Sách vừa đến liền nhìn thấy Mã Chu đi ra.

Vương Huyền Sách vội vàng hỏi: “Mã xá nhân, ta có việc gấp cần gặp bệ hạ, không biết ngài có cách nào có thể thông báo hay không?”.

“Cung thành đã đóng, ai cũng không có biện pháp nào khác để vào”, Mã Chu nói.

“Trung thư tỉnh của các ngài ban đêm truyền tấu chương chẳng phải có thể dùng giỏ treo đi vào hay sao?” Vương Huyền Sách nói: “Ta có thể viết tẩu chương, ngài đưa vào giúp ta”.

“Như vậy thì được, nhưng bây giờ bệ hạ không ở trong cung”, Mã Chu nói.

“Sao? Bệ hạ đi đâu rồi?”, Vương Huyền Sách hỏi.

“Lúc ta bàn giao công việc, đông cung phái người tới nói thái tử điện hạ đột nhiên lâm bệnh nặng, bệ hạ sốt ruột đi thăm rồi”, Mã Chu nói.

Vương Huyền Sách lập tức kinh hoàng.

°°°

Nhận được tin thái tử bệnh nặng, Lý Thế Dân không hề có chút hoài nghi. Mấy năm nay sức khỏe thái tử đích thực không tốt, nhiều lần ốm nặng, hơn nữa tranh đấu với Ngụy vương Lý Thái, áp lực tâm lí rất lớn, đột nhiên ngã bệnh cũng là lẽ thường. Năm ngoái xảy ra sự kiện ám sát Vu Chí Ninh, sau khi trừng phạt thái tử, Lý Thế Dân cũng tự nghĩ lại, cảm thấy mình quả thật yêu cầu thái tử quá nghiêm khắc, hơn nữa mình sủng ái Ngụy vương Lý Thái quá mức đích thực cũng tạo thêm áp lực rất lớn cho thái tử. Đúng như Ngụy Trưng nói: “Gia đình thường dân, phụ mẫu thiên vị ấu tử còn khiến trưởng tử cảm thấy ghen tị, huống hồ là nhà đế vương”.

Lý Thế Dân vẫn có tình cảm thâm tình với thái tử Thừa Càn, dù sao đây cũng là nhi tử đầu tiên của ông ta và Trưởng Tôn hoàng hậu. Trưởng Tôn hoàng hậu đã chết, Lý Thế Dân chỉ cần nhớ tới tình cảm với thê tử quá cố cũng phải quyết tâm bảo vệ Thừa Càn. Vừa nghe thấy Thừa Càn ngã bệnh nặng, ông ta lập tức hạ lệnh di giá đông cung.

Lúc này trống đóng cửa đã vang lên, nhưng có lệnh vua, Huyền Vũ Môn lập tức lại mở ra. Lý Thế Dân cùng thị tòng ra cửa, đi về phía đông tới cổng Nguyên Đức ở mặt bắc đông cung. Thuộc quan của đông cung đều ra cửa nghênh đón thánh giá. Hán vương Lý Nguyên Xương và phò mã Đỗ Hà cũng ở trong đám người nghênh đón.

Lý Nguyên Xương là nhi tử thứ bảy của Lý Uyên, Lý Thế Dân nói: “Thất đệ đêm nay không về phủ à?”.

Lý Nguyên Xương cố kìm lo lắng cực độ, tươi cười trả lời: “Hoàng huynh, đêm nay vốn đang đánh cờ với thái tử, nào ngờ thái tử đột nhiên ngã bệnh, đông cung hết sức rối ren, thần đệ liền ở lại trông coi thái tử”.

“Thất đệ thật có lòng!” Lý Thế Dân cảm khái vỗ vỗ tay Lý Nguyên Xương: “Thái tử thế nào rồi?”.

“Vẫn còn đang hôn mê”, Lý Nguyên Xương nói buồn bã: “Ngự y đang chẩn trị”.

Lý Thế Dân lòng nóng như lửa đốt, được mọi người vây quanh, chạy tới điện Trường Sinh, tẩm cung của thái tử.

Trong điện Trường Sinh im ắng, Lý Thế Dân cảm thấy kỳ lạ, Lý Nguyên Xương vội vàng giải thích: “Sợ quấy nhiễu thái tử, thần đệ đã đuổi hết những người không liên can ra ngoài rồi”.

Lý Thế Dân mới đi đến ngoài điện, đột nhiên nghe thấy phía nam hoàng thành truyền đến tiếng hò hét của vô số người, dường như còn có tiếng vó ngựa phi nhanh, tiếng áo giáp va chạm. Lý Thế Dân từng trải sa trường, vô cùng nhạy cảm với âm thanh này, đây rõ ràng chính là tiếng điều động đại quân! Ông ta kinh ngạc: “Âm thanh gì vậy?”.

Đúng lúc này một thuộc quan đông cung mặt không còn chút máu chạy tới: “Xảy ra chuyện lớn rồi! Vương Huyền Sách xúi giục người của vệ suất phủ thái tử tạo phản rồi, đang tấn công hoàng cung!”.

Lý Thế Dân và Lý Nguyên Xương đều kinh ngạc. Lý Thế Dân kinh ngạc vì Vương Huyền Sách sao lại tạo phản? Lý Nguyên Xương kinh ngạc vì mình còn chưa phát tín hiệu, vệ suất phủ thái tử tại sao đã xuất binh rồi? Hơn nữa… Vương Huyền Sách sao lại làm vậy? Chuyện này có liên quan tới hắn sao?

°°°

Các phủ suất của tả hữu nội suất phủ cũng có nghi vấn tương tự.

Vương Huyền Sách biết hoàng đế đã tới đông cung, lập tức đoán được đêm nay thái tử sẽ mưu phản, tính mạng của hoàng đế chỉ e như ngàn cân treo sợi tóc. Hắn lập tức nói chuyện này với Mã Chu, Mã Chu vừa nghe cũng sợ ngây người, phản ứng đầu tiên chính là đến mười sáu vệ nha môn phía nam điều binh. Vương Huyền Sách hỏi hắn: “Nhân mã mười sáu vệ, ngài có thể điều động được sao?”.

“Ta sẽ nói là thái tử chuẩn bị mưu phản!”, Mã Chu nói.

“Bằng chứng đâu?”, Vương Huyền Sách hỏi: “Không có lệnh điều động của hoàng đế và thượng thư tỉnh, mười sáu vệ dám xuất binh dựa vào lời nói của một mình ngài sao?”.

Vậy… Vậy ta đi gọi mở cửa thành”, Mã Chu nói.

“Tốt quá! Ngài có thể làm thủ vệ Thừa Thiên Môn mở cổng, ngài sẽ lập công đầu!”, Vương Huyền Sách nói.

Mã Chu suy nghĩ một lát, lập tức ảo não. Muốn mở cửa hoàng cung, thủ tục còn phức tạp hơn điều binh mười sáu vệ: “Vậy ngươi nói phải làm thế nào?”.

Vương Huyền Sách nghiến răng: “Làm cho thái tử động binh sớm!”.

Hắn lập tức dẫn Mã Chu và “Người Bất Lương” thúc ngựa chạy tới tả hữu nội suất phủ thái tử. Tả hữu nội suất phủ thái tử ở góc đông bắc hoàng thành, đối diện với cửa nam đông cung. Vương Huyền Sách thúc ngựa chạy như điên, ầm âm xông vào nha môn hữu nội suất phủ. Lúc này trong hữu nội suất phủ đèn đuốc sáng choang, phủ suất, phó suất, trưởng sử cùng với các tướng tá thuộc hạ đang lo âu chờ đợi. Mọi người yên lặng ngồi trong nha môn, ba ngàn quân đội cung đã lên dây, đao đã rút khỏi vỏ, ngóng chờ tín hiệu trong đông cung, gối lên giáo mà nằm.

Đúng lúc này Vương Huyền Sách thúc ngựa chạy như điên vào, hét lớn: “Sự tình có biến, thái tử hạ lệnh, lập tức tấn công Thừa Thiên Môn!”.

Mọi người sợ hãi run cầm cập, phủ suất nhìn thấy người vừa hô hoán là Vương Huyền Sách, không khỏi kinh ngạc: “Vương trưởng sử? Hữu vệ suất phủ các ngài cũng gia nhập sao?”.

“Hữu vệ suất không gia nhập, nhưng Vương mỗ vẫn là người của thái tử!”.

Vương Huyền Sách quay ngựa định đi, phủ suất vội vàng chạy ra hỏi: “Vương trưởng sử, rốt cuộc xảy ra chuyện gì?”.

“Kế hoạch có biến, thái tử không thể phát tín hiệu, lập tức tấn công Thừa Thiên Môn!” Vương Huyền Sách quay ngựa: “Lập tức xuất binh! Ta đi thông báo những người khác!”.

Vương Huyền Sách không nói nhiều nữa, lập tức thúc ngựa phi nhanh đến hữu giám môn suất phủ, xông vào trong nha môn. Binh lính canh gác lập tức tụ tập tới, phủ suất cũng vội vã chạy ra: “Vương trưởng sử làm vậy là cớ gì?”.

Vương Huyền Sách hét lớn: “Sự tình có biến, thái tử hạ lệnh, lập tức tấn công Thừa Thiên Môn!”.

“Cái gì?” Phủ suất hữu giám môn lập tức ngẩn ra: “Là sao? Tại sao thái tử lại hạ lệnh tấn công Thừa Thiên Môn?”.

Vương Huyền Sách thở phào nhẹ nhõm, biết giám môn suất phủ không gia nhập tạo phản, cũng không nói gì, quay ngựa phi nhanh ra ngoài, để lại phủ suất hữu giám môn ngơ ngác đứng trong gió.

Hắn tiếp tục thúc ngựa phi nhanh, lần lượt thông báo cho mười vệ suất phủ của thái tử, không ngờ lại có ba phủ gia nhập phản đảng của thái tử. Ba phủ này mặc dù không biết cụ thể xảy ra chuyện gì, nhưng đều biết tham dự việc mưu phản này chính là chuyện rủi ro cao, bất cứ biến số nào cũng có thể xảy ra. Mặc dù sớm nửa canh giờ so với kế hoạch trước đó, nhưng sớm thì đã sao, dù sao cũng mưu phản, vậy thì làm thôi!

Ba suất phủ lập tức tập hợp binh lực, đại quân gần năm ngàn người tụ tập ngoài Thừa Thiên Môn, người hô ngựa hí, thiết giáp rung chuyến.

Cấm vệ nha môn phía bắc canh giữ Thừa Thiên Môn cũng không biết vệ suất phủ tại sao lại phát điên tấn công mình, trung lang tướng tức khắc quát to: “Các ngươi định tạo phản hả?”.

Phủ suất hô to: “Ngụy vương mưu phản, ám sát bệ hạ! Phụng lệnh thái tử điều vệ suất phủ vào cung dẹp loạn, mau mau mở cổng thành!”.

Trung lang tướng sợ đến hồn phi phách tán, nhưng lúc này không rõ tình thế, không dám mở cửa thành: “Có dụ lệnh của thái tử không?”.

Phủ suất lấy dụ lệnh của thái tử đã chuẩn bị từ trước ra, giơ cao lên: “Mời xem!”.

Trung lang tướng đó lại không dám ra xem, đành nói: “Xin lỗi, tình thế chưa rõ, nếu có phản loạn, sáu quân nha môn phía bắc bọn ta chắc chắn sẽ tự bảo vệ an toàn của bệ hạ”.

Phủ suất giận dữ, lại không dám làm mất thời gian, hạ lệnh công thành. Trung lang tướng biết có đại sự xảy ra, hắn cũng không rõ rốt cuộc là thái tử mưu phản hay là Ngụy vương mưu phản, hoàng đế sống chết thế nào, nhưng vì chức trách nên vẫn hạ lệnh chống cự. Trên thành dưới thành lập tức kêu giết, mũi tên xé gió, đao thương chói mắt.

Ba suất phủ sớm có chuẩn bị từ trước, lập tức bắc thang công thành sai người trèo lên. Những người bên dưới thì đẩy xe công thành, bất chấp màn tên như mưa xối mà xông tới Thừa Thiên Môn, va đập ầm ầm. Trong chốc lát máu thịt tung tóe, xác chết ngổn ngang, trong ngoài hoàng thành toàn bộ hỗn loạn, bất kể là bên mưu phản hay là bên chống cự, ai cũng không rõ tình hình, nhưng mọi người đều biết một việc: Vương Huyền Sách xúi giục người của vệ suất phủ mưu phản!

°°°

Đông cung, điện Trường Sinh.

Hán vương Lý Nguyên Xương phản ứng lại đầu tiên, hét lớn “một tiếng: “Bắt lấy hoàng đế!”.

Từ các chỗ ẩn nấp bí mật trong ngoài điện Trường Sinh có hàng ngàn giáp sĩ ùa ra bao vây đám người Lý Thế Dân. Còn đội cấm vệ bách kỵ bảo vệ Lý Thế Dân chính là tinh anh trong tinh anh. Lý Thế Dân chọn lựa những người dũng mãnh thiện chiến từ các thiếu niên trong quan hộ và Hồ tịch, cưỡi tuấn mã yên da báo, mặc áo da thú, thành lập đội quân cưỡi ngựa bắn cung, quy mô chỉ có trăm người, vì vậy gọi là bách kỵ.

Bách kỵ có thể nói là dũng mãnh nhất trong quân đội Đại Đường, vừa thấy hoàng đế gặp nguy hiểm lập tức phản ứng vô cùng nhạy bén, cùng nhau xuống ngựa, đẩy chiến mã ra xung quanh tạo thành từng tầng từng lớp phòng ngự, bảo vệ Lý Thế Dân. Lý Thế Dân lúc này mới hiểu chuyện gì đang xảy ra: Thái tử làm phản rồi!

Ông ta thẫn thờ, nhưng kiếp sống chinh chiến nhiều năm vẫn giúp ông tỉnh táo lại, nhìn Lý Nguyên Xương, lạnh lùng nói: “Gọi Thừa Càn đi ra gặp trẫm!”.

Lúc này thái tử Thừa Càn từ trong điện Trường Sinh đi ra, đứng trên bậc thềm trước cửa. Phụ tử hai người nhìn nhau qua quân trận trùng điệp.

“Thừa Càn!” Cảm giác đầu tiên của Lý Thế Dân không ngờ lại không phải giận dữ mà là đau lòng: “Ngươi cũng phản lại trẫm sao?”.

“Phụ hoàng, nhi thần bất hiếu”, Lý Thừa Càn nói.

“Vì sao?”, Lý Thế Dân giận dữ quát.

“Bởi vì nhi thần quá mệt mỏi rồi”, Lý Thừa Càn thương cảm nói.

Lý Thế Dân kinh ngạc, ông ta đột nhiên nhớ ra, vừa mới một tháng trước, mình cũng hỏi Lý Hữu như vậy, Lý Hữu cũng trả lời giống vậy.

Lý Thế Dân không khỏi cảm thấy mịt mù: “Vì sao lại quá mệt?”.

“Làm nhi tử của ngài mệt, làm thái tử mệt”, Lý Thừa Càn nói: “Làm nhi tử của ngài, ta nói chuyện, làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ, đọc sách, nghe chính sự, tất cả mọi việc đều phải phù hợp với tiêu chuẩn ngài đặt ra, chỉ cần có một sai lầm nhỏ nhặt là sẽ có bảy tám sư phụ nghiêm khắc trách cứ. Cho dù ăn cơm để rơi một hạt cũng sẽ có chiêm sự quở trách ta, cho rằng ta không thương trăm họ, lãng phí mồ hôi nước mắt nhân dân. Ta đọc sách mệt muốn nghỉ ngơi một lát, sẽ có sư phụ viết sớ khuyên can bảy tám ngàn chữ, phê bình ta tan tác tơi bời. Sau đó ngài còn hết sức tán dương hành vi của bọn họ. Vì thế làm thái tử của ngài càng mệt, càng khó. Ta là thái tử của ngài, ta là người thừa kế tương lai đế quốc này của ngài! Nhưng ngài sủng ái tứ đệ làm cho văn võ bá quan, trong cung ngoài cung đều cho rằng việc ta làm thái tử chính là một trò cười! Bọn họ đều cho rằng ta không được sủng ái bằng tứ đệ, không tài hoa bằng tứ đệ, danh vọng thua kém tứ đệ, các sư phụ khuyên can răn dạy càng làm mọi người cảm thấy ta làm gì cũng không đúng, chỉ vì là trưởng tử nên mới dày mặt ngồi trên vị trí thái tử. Phụ hoàng, mấy năm nay ta cùng tứ đệ tranh đấu gay gắt, lại không có một lần thắng. Ta càng ngày càng thất sủng, có thể thấy đã sắp bị phế bỏ rồi. Phụ hoàng, trước có Tiền Tùy phế thái tử Dương Dũng, tương lai của một thái tử bị phế bỏ sẽ ra sao, người người đều biết. Vì sao ta không liều chết một lần?”.

Lý Thế Dân đau xót trong lòng không sao nguôi được: “Trẫm chưa từng nghĩ tới chuyện phế ngươi! Ngươi là trưởng tử của trẫm, trước khi lâm chung mẫu hậu của ngươi nhiều lần dặn dò trẫm phải bảo vệ ngươi thật tốt. Trẫm làm sao lại nỡ phế ngươi?”.

Lý Thừa Càn cười thảm: “Nhưng thưa phụ hoàng, tất cả mọi người đều cho rằng ta sẽ bị phế bỏ, vì sao lại thế? Chẳng lẽ đây không phải là các quan lại phỏng đoán ý ngài hay sao? Chẳng lẽ đây không phải hậu quả do ngài thường ngày sủng ái tứ đệ mà thành hay sao? Khi lòng người trong triều đều theo ý thích của ngài, chuyến hướng ủng hộ tứ đệ, thái tử ta còn tự bảo vệ mình thế nào được nữa?”.

Lý Thế Dân như trúng một đòn giáng nặng nề, sắc mặt trắng bệch như tờ giấy.

“Thái tử, không thể kéo dài thời gian!” Lý Nguyên Xương quát: “Bắt được hoàng đế, phong vạn hộ hầu[154]!”.

Những giáp sĩ này đều là tư binh của Lý Nguyên Xương và Đỗ Hà, vừa nghe hiệu lệnh liền cầm trường mâu vây giết, bách kỵ liều chết chống cự. Hai bên va chạm, máu văng khắp nơi, sân điện chật hẹp, hơn một ngàn người chen lấn trong sân chật như nêm cối. Trong tình thế này, tất cả mọi thủ đoạn đều vô dụng, hai bên gần như áp sát vào nhau, nhắm mắt lại đâm trường mâu đã có thể đâm trúng cơ thế người, vung đao chém bừa liền có thể chém trúng người. Bách kỵ biến chính mình thành một tấm lá chắn bằng thịt người to lớn, hết lớp này đến lớp khác ngã xuống, nhưng đa số vẫn bảo vệ Lý Thế Dân vừa đánh vừa lui ra Nguyên Đức Môn. May mà lúc này Nguyên Đức Môn còn do bách kỵ khống chế, hai bên chém giết đẫm máu trong cổng hẹp.

Lý Thừa Càn và Lý Thế Dân vẫn giằng co trong ánh đao bóng kiếm, một tiến một lùi, cách trăm ngàn người, hai người nhìn nhau chằm chằm, trong lòng hai bên đều có một nỗi bi thương cực độ.

Hán vương Lý Nguyên Xương lại không có tâm tình này như thái tử, thấy mãi không bắt được Lý Thế Dân, trong lòng càng trở nên lo lắng. Lúc này hắn chỉ muốn chửi bới ầm ĩ, vệ suất phủ ở ngoài thành vì sao lại phát động sớm? Theo kế hoạch trước đó, chỉ cần hoàng đế vào điện Trường Sinh, tất sẽ không thể mang theo toàn bộ bách kỵ, đến lúc đó phục binh trong điện có thể rất dễ dàng bắt được Lý Thế Dân, một đao đoạt mệnh, giá họa cho Ngụy vương Lý Thái, việc lớn đã thành! Nhưng đúng thời điểm mấu chốt này, vệ suất phủ đáng chết lại phát động binh biến!

Người còn uất ức hơn Lý Nguyên Xương là Lý An Nghiễm. Hắn là tả đồn vệ trung lang tướng, rất được Lý Thế Dân tín nhiệm, phụ trách bảo vệ hoàng cung. Chiến tranh ngoài Thừa Thiên Môn vừa bùng nổ, hắn cho rằng người của vệ suất phủ nhận được tín hiệu của thái tử, điều này chứng tỏ thái tử đã bắt được hoàng đế. Lý An Nghiễm cực kỳ hưng phấn, lập tức dẫn theo thân binh của mình xông vàọ doanh trại túc vệ ngoài điện Thái Cực, cùng nhau hô to: “Ngụy vương mưu phản, bệ hạ bị hại, mau theo thái tử dẹp loạn!”.

Toàn bộ cấm vệ nha môn phía bắc đều kinh hãi tỉnh dậy, tới tấp hỏi han xảy ra chuyện gì. Lý An Nghiễm đã sắp xếp người lan truyền tin đồn, nói Ngụy vương phái thích khách ám sát hoàng đế, thái tử dẫn người của vệ suất phủ đang đánh dẹp phản loạn, yêu cầu mọi người đi theo Lý tướng quân, khống chế cung thành, đề phòng bè đảng Ngụy vương!

Trong tình huống không rõ thông tin, cấm vệ nha môn phía bắc như ruồi mất đầu, vậy mà lại có không ít người theo Lý An Nghiễm bắt đầu khống chế cổng thành các nơi. Lý An Nghiễm mừng rỡ, quan trọng nhất trong các cổng thành chính là Huyền Vũ Môn, bởi vì nơi này là đường thái tử phải đi qua để tiến vào cung thành. Lý An Nghiễm lập tức dân theo cấm vệ nha môn phía bắc định khống chế Huyền Vũ Môn, giao phong quyết liệt với tướng sĩ phòng thủ Huyền Vũ Môn.

Thấy tướng sĩ phòng thủ Huyền Vũ Môn không chống cự được nữa, Lý An Nghiễm lập tức sai người mở Huyền Vũ Môn, nghênh đón thái tử vào cung. Hắn chạy ra Huyền Vũ Môn đầu tiên, đưa mắt nhìn về phía đông cung, quả nhiên nhìn thấy một đám người chạy về phía Huyền Vũ Môn. Lý An Nghiễm hưng phấn đến mức tim muốn nhảy ra ngoài, ai nói thái tử què chân? Rõ ràng là chạy rất nhanh mà!

Nhưng… Không đúng, tại sao phía sau còn có người đuổi giết?

Lý An Nghiễm cũng không hiểu, lập tức thúc giục mọi người nghênh đón, quát: “Mau mau, bệ hạ đã băng hà, nghênh đón thái tử vào thành, chính là công lớn…”.

Còn chưa nói xong, hắn đã lập tức kinh ngạc. Người chạy ở phía trước rõ ràng là hoàng đế Lý Thế Dân! Lúc này cấm quân nha môn phía bắc đang chuẩn bị đi theo thái tử dẹp loạn cũng giật mình, hoàng đế vẫn ổn mà!

Mọi người kinh ngạc nhìn Lý An Nghiễm, Lý Thế Dân lập tức hiểu ra, lạnh lùng nói: “Bắt lấy hắn!”.

Cấm vệ nha môn phía bắc không hề do dự, vung đao tấn công thuộc hạ của Lý An Nghiễm đang dựa vào nơi hiểm yếu chống cự, bắt sống Lý An Nghiễm. Lúc này thái tử và Lý Nguyên Xương dẫn người đuổi theo tới nơi, Lý Thế Dân không chạy nữa, được cấm vệ nha môn phía bắc bảo vệ xung quanh, hạ lệnh bắt phản đảng của thái tử.

Phe cánh của thái tử bây giờ chỉ còn bảy tám trăm người, sao có thể là đối thủ của cấm vệ nha môn phía bắc, không đến thời gian uống một chén trà đã bị chém giết gần hết. Thái tử thấy chuyện đã thất bại, cười thảm một tiếng, vung đao tự vẫn, lại bị phò mã đô úy Đỗ Hà ôm lấy, đoạt mất đao, vặn tay ra sau lưng đẩy ra.

“Bệ hạ!” Đỗ Hà khóc nước mắt giàn giụa: “Thần bị bọn chúng uy hiếp, không thể không làm!”

Lý Thế Dân chán ghét nhìn hắn một cái, cấm vệ bắc nha trói gô thái tử, Đỗ Hà, Lý Nguyên Xương lại.

°°°

Lúc này cuộc chiến tranh đoạt ở Thừa Thiên Môn ngày càng khốc liệt. Ba đạo binh lính suất phủ hung hãn không sợ chết, trèo lên thang mây như kiến. Bị xe công thành liên tục đâm vào, cổng thành Thừa Thiên Môn cũng không chịu nổi, ầm ầm đổ xuống. Được ba vị phủ suất dẫn đầu, mấy ngàn đại quân hò hét xông vào Thừa Thiên Môn.

Vương Huyền Sách và Mã Chu đúng xa xa im lặng nhìn, mặt xám như tro.

“Thái tử… cuối cùng vẫn thành công rồi”, Mã Chu ngậm ngùi.

“Làm hết sức mình, nghe theo thiên mệnh vậy!”, Vương Huyền Sách cũng cười khổ không thôi: “Chỉ hi vọng Đại Đường sẽ không nghênh đón một trận loạn thế”.

“Vương trưởng sử, ngài định thế nào?”, Mã Chu hỏi: “Ta còn đỡ, ít ra còn có thế về nhà làm một bách tính bình dân, còn ngài lần này bị người của thái tử đảng hận thấu xương rồi”.

“Ta ấy à?” Vương Huyền Sách cười miễn cưỡng: “Đương nhiên là chạy rồi! Lẽ nào còn đợi ở đây để thái tử chém đầu hay sao?”.

“Chạy?”, Mã Chu lại không lạc quan: “Thiên hạ rộng lớn, nhưng có nơi đâu nằm ngoài vương thổ, ngài còn có thể chạy đến đâu?”.

“Cùng lắm ta chạy đến Thiên Trúc, tiếp tục theo sư phụ làm hòa thượng!”, Vương Huyền Sách nghiến răng nghiến lợi. Hắn quay ngựa: “Được rồi, Mã xá nhân, ta đi trước một bước. Trước khi cổng thành Trường An mở ra, ta phải tìm chỗ ẩn nấp. Trời vừa sáng, chỉ sợ thái tử đảng sẽ lùng bắt toàn thành”.

Vương Huyền Sách vừa định thúc ngựa đi, trong Thừa Thiên Môn đột nhiên trở nên yên tĩnh, dường như hàng ngàn hàng vạn người đột nhiên bị bóp cổ, chiến trường chém giết hỗn loạn vừa rồi chỉ trong nháy mắt đã có thể nghe thấy tiếng kim rơi. Vương Huyền Sách kinh ngạc quay lại, thấy phản quân đã xông vào Thừa Thiên Môn lại chậm rãi lùi ra. Hắn không nhìn thấy mặt những người này, chỉ thấy thân thể bọn họ cứng đờ, lùi lại từng bước, nhanh chóng lùi ra Thừa Thiên Môn, lùi đến quảng trường ngoài cổng.

Trong Thừa Thiên Môn, một bóng người chậm rãi đi ra. Đầu chít khăn đen, mặc áo bào long cổn đỏ vàng, thần thái bình thản từ từ đi ra Thừa Thiên Môn. Chính là Lý Thế Dân!

“Vạn tuế, vạn tuế…!” quân phòng thủ trên Thừa Thiên Môn vui mừng khôn xiết hoan hô ầm ĩ.

Còn phản quân ngoài Thừa Thiên Môn thì sắc mặt xám xịt, thân thể run rẩy, dù có thiên binh vạn mã, dù có đao kiếm trong tay, nhưng nhìn người tay không tấc sắt trước mặt lại không một ai có dũng khí phản kháng!

Keng! Không biết là vũ khí của ai rơi xuống đất đầu tiên. Lập tức mấy ngàn phản quân toàn bộ vứt vũ khí xuống, quỳ sát đất. Ba phủ suất cầm đầu phản loạn đứng ngây như phỗng trong đám người, run rẩy nhìn Lý Thế Dân đến gần. Ba người liếc nhau, đồng thời nghiến răng vung đao tự vẫn.

Thi thể ngã xuống giữa đám người.

Một trận phản loạn, Lý Thế Dân ngay cả một câu cũng chưa nói, đã nhanh chóng bị dẹp yên.

[*] [155] Tích một phú thương vì ghét nghe tiếng chim sẻ kêu ầm ĩ vườn nhà, thuận tay lấy ngọc quý Tùy hầu thay đạn đá ban chim, sẻ bay đi thì ngọc cũng mất chẳng tìm lại được. Lại nói tích vua Tần bị bệnh ung nhọt nặng, cho tìm người chữa trị, kẻ dùng tay mổ nặn ung nhọt thì được thưởng một cỗ xe, kẻ dùng lưỡi liếm sạch mủ ung nhọt được thưởng năm cỗ xe.