Chương 13 Yêu nhân, yêu thuật, yêu ngôn
Tất cả vây cánh của thái tử đều bị bắt, nhưng triều thần thường ngày qua lại thân thiết với thái tử thật sự quá nhiều, Lý Thế Dân đặc biệt hạ chỉ, chỉ bắt người tham dự mưu phản, trong đó nhân vật mấu chốt nhất chính là Hầu Quân Tập. Trong một đêm, hàng ngàn người bị bắt, Hầu Quân Tập cũng khoanh tay chịu trói. Có điều lúc lục soát đông cung lại không tìm được thuật sĩ Vi Linh Phù khiến Lý Thế Dân vô cùng căm hận.
Việc giải quyết tàn dư mấy ngày sau mới có thể hoàn thành. Lý Thế Dân cầm trên tay danh sách vây cánh của thái tử, đau xót không nguôi. Lý Nguyên Xương là đệ đệ ruột của mình, Đỗ Hà là hiền tế của mình, Khai Hóa Công Triệu Tiết là nhi tử của tỷ tỷ mình, Lý An Nghiễm là tướng quân bảo vệ bên cạnh mình, Hầu Quân Tập là danh tướng Đại Đường được mình tin tưởng nhất, một trong hai mươi tư công thần Lăng Yên Các. Cuộc mưu phản này của thái tử giống như dùng dao khoét thịt Lý Thế Dân, đau đến tim gan tê liệt. Bởi vì việc đầu tiên ông ta phải đối mặt chính là xử trí những người này như thế nào!
Về việc phải xử trí thái tử thế nào, mấy ngày nay trên triều đình cũng ý kiến xôn xao, có người chủ trương làm theo gương xử lí Tề vương Lý Hữu, ban chết. Có người không đồng ý, cho rằng tổn thương cốt nhục tình thân, đi ngược lại luân lí. Nhưng phe chủ trương ban chết thì vặn lại: Thái tử là tôi lại phản vua, là con lại phản cha, nếu không nghiêm trị, luân lí cương thường ở đâu? Luật pháp quốc gia ở đâu?
Lúc này thông sự xá nhân Lai Tế phá vỡ cục diện bế tắc, nói: “Bệ hạ vẫn có thể là từ phụ, thái tử có thể sống đến cuối đời, như vậy tốt thay!”.
Lý Thế Dân bị chạm đến chỗ bi thương trong lòng, cổ họng nghẹn ngào: “Các vị công khanh, trẫm muốn khấn cầu một chuyện”.
Thấy hoàng đế nói trịnh trọng như thế, Phòng Huyền Linh và Trưởng Tôn Vô Kị vội vàng nói: “Bệ hạ mời nói”.
“Binh biến Huyền Vũ Môn và Thừa Thiên Môn xóa bỏ đi được không?” Lý Thế Dân nói.
Mọi người đều ngẩn ra, không hiểu ý Lý Thế Dân, ngay cả Trưởng Tôn Vô Kị luôn luôn ngang ngạnh cũng không dám tùy tiện đoán bừa, trong đại điện rất yên lặng. Lý Thế Dân thấy vậy, không thể không nói rõ ràng ý mình: “Việc thái tử mưu phản, hãy làm cho nó biến mất trong sách sử đi! Binh biến Huyền Vũ Môn, binh biến Thừa Thiên Môn đều coi như chưa từng xảy ra, thái tử trong lúc bí mật mưu đồ đã bị Hột Can Thừa Cơ tố giác, vây cánh toàn bộ bị bắt”.
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, không nghĩ tới hoàng đế lại đưa ra yêu cầu như vậy. Đây là trắng trợn yêu cầu tất cả mọi người cùng ông ta dối trá, bóp méo sách sử! Tất cả cùng nhìn đám người Phòng Huyền Linh, Lệnh Hồ Đức Phân, Hứa Kính Tông, là những người phụ trách biên soạn sách sử trong thời Trinh Quán.
“Các vị công khanh”, Lý Thế Dân không nhìn Phòng Huyền Linh mà nhìn một lượt mọi người cầu khẩn: “Trẫm chỉ muốn giảm bớt tội lỗi của thái tử, cho hắn một lí do sống sót. Mấy tháng trước trẫm đã ban chết cho Hữu nhi, chẳng lẽ bây giờ lại phải ban chết cho thái tử sao? Bây giờ trẫm đã gần năm mươi tuổi, gia đình bình thường người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh đã là bi ai của nhân gian, huống hồ là trẫm phải tự tay giết chết nhi tử của mình? Các khanh dù không thể hiểu được cảm giác cô quả của một hoàng đế, lẽ nào lại cũng không hiểu được sự đau khổ của một người làm phụ thân như ta hay sao?”.
Lý Thế Dân nói, hai mắt rưng rưng, nhưng mọi người vẫn yên lặng. Thực ra mọi người rất hiểu ý Lý Thế Dân, một mặt dĩ nhiên là ông ta muốn giảm tội cho thái tử để thái tử có thể giữ mạng, thành toàn đạo nghĩa phụ tử, mặt khác e rằng cũng là suy nghĩ đến thanh danh thiên thu vạn thế của mình. Lý Thế Dân cả đời xây dựng hình tượng quân chủ nhân nghĩa, nhưng hai nhi tử liên tiếp khởi binh tạo phản, lịch sử đời sau ai còn tin tưởng sự nhân thiện của ông ta nữa?
Nhưng… Nhưng bóp méo sách sử, đó là tội phải bêu danh thiên cổ! Đặc biệt là các sử gia Phòng Huyền Linh, Lệnh Hồ Đức Phân, việc này quả thực còn khó chịu hơn bị róc xương lóc thịt. Lý Thế Dân cũng biết rõ ý phản đối của mọi người, cho nên mới kéo mọi người cùng xuống vũng bùn này ngay trên đại điện, bóp méo sách sử là quyết định chung của mọi người, ai cũng đừng làm thánh nhân.
Mọi người không nói, Lý Thế Dân cũng không nói, yên lặng nhìn bọn họ. Xem ra bọn họ không đồng ý, Lý Thế Dân cũng tuyệt đối không chịu bỏ cuộc. Cuối cùng Trưởng Tôn Vô Kị không nhịn được nữa: “Bệ hạ, nghĩa phụ tử chính là luân lí của trời đất, bệ hạ muốn thành toàn nghĩa phụ tử, chúng thần đương nhiên không dám có ý kiến. Đúng không, Phòng tướng công?”.
Phòng Huyền Linh thở dài đắng chát.
Trưởng Tôn Vô Kị lại nhìn chằm chằm Lệnh Hồ Đức Phân và Hứa Kính Tông, hai người cũng im lặng thở dài.
“Được rồi”, Trưởng Tôn Vô Kị nói: “Mọi người đều đã đồng ý, việc này cứ quyết định như vậy”.
Lý Thế Dân cảm kích gật gật đầu, không nói gì nữa, yên lặng bãi triều.
°°°
Trong nội thị tỉnh, Lý Thừa Càn ngồi cô độc trong cung điện tối tăm, cổng cung điện đóng chặt, xung quanh truyền đến tiếng bước chân và tiếng áo giáp va chạm của cấm vệ nha môn phía bắc. Cung điện trống rỗng, Lý Thừa Càn yên lặng quỳ dưới đất, thẫn thờ nhìn trăng sáng ngoài cửa sổ, dường như trong nháy mắt, ánh trăng này đã đi qua cả đời mình. Nhưng sau khi ánh trăng đi hết, trên mặt đất này đâu còn lại một dấu vết gì?
Thừa Càn đột nhiên cười cô độc. Đúng lúc này ngoài cửa vang lên tiếng bước chân, hai tên cấm vệ mở cửa, Dương phi cầm hộp cơm đi vào. Dương phi là thân mẫu của Tào vương Lý Minh, được phong làm quý phi, rất được sủng ái, nhưng mình trước giờ vốn không thân thiết với Dương phi, vì sao lúc này bà ta lại tới đây?
Thừa Càn còn đang kinh ngạc trong lòng, Dương phi đã đặt hộp cơm xuống trước mặt hắn: “Thái tử chắc là đói rồi đúng không? Dùng một chút cơm đi!”.
“Vì sao bà tới đây?”, Thừa Càn hỏi.
Dương phi thở dài: “Văn Đức hoàng hậu là ân nhân của ta, ta cũng chứng kiến thái tử lớn lên, chuyện phụ tử hai người mặc dù ta không thể can dự, nhưng cũng không đành lòng nhìn thái tử chịu khổ. Đây là những món thái tử thích ăn, ta lệnh cho Thượng thiện giám làm, thái tử mau ăn một chút đi”.
Hai mắt Thừa Càn dần đỏ lên: “Ta chưa từng biết bà còn quan tâm đến ta như thế”.
“Lòng người tự có phán xét, Thanh Tước (nhũ danh của Ngụy vương Lý Thái) mặc dù cũng là Văn Đức hoàng hậu sinh ra, nhưng mấy năm nay hắn dùng thủ đoạn với thái tử, mọi người đều nhìn thấy hết”, Dương phi cũng rơi lệ: “Một thái tử hiền lành lại bị ép thành như vậy, người biết chân tướng có ai là không đau lòng?”.
“Phụ hoàng sủng ái tứ đệ, ta cũng không còn gì để nói”, Thừa Càn buồn bã: “Mấy ngày nay ta đã ngẫm lại, cũng là do tính tình ta có chút gàn dở”.
“Từ khi thái tử mắc tật ở chân, tính tình đúng là có chút cực đoan, nhưng nếu không phải Thanh Tước dùng những thủ đoạn hèn hạ đó sai người xúi bẩy thái tử, ta thật sự không tin thái tử tao nhã hiếu thuận khi xưa lại phản sư, hại đệ, sát phụ mưu phản!” Dương phi tính tình hiền hậu, cho dù tức giận cũng vô cùng đoan trang.
“Tứ đệ sai người xúi bẩy ta?”, Thừa Càn ngẩn ra: “Người nào xúi bẩy ta?”.
“Thái tử còn không biết sao?” Dương phi ngẩn ra: “Từ sau khi thái tử mưu phản thất bại, trong cung đã truyền khắp nơi, nói Vi Linh Phù là nội gián Thanh Tước phái đến bên cạnh thái tử”.
“Hả?”, Thừa Càn hoàn toàn kinh ngạc: “Chuyện… chuyện là thế nào?”.
Dương phi giậm chân: “Thái tử đúng là, đến lúc này người vẫn chưa hay biết gì, làm sao có thể không thất bại chứ? Ta hỏi thái tử, năm ngoái thái tử ám sát Vu Chí Ninh, có phải cũng do Vi Linh Phù xúi bẩy không?”.
Thừa Càn suy nghĩ một lát, gật đầu: “Đúng là thế’”.
“Như vậy từ năm ngoái thái tử bắt đầu dụ dỗ Tề vương tạo phản, có phải cũng là tên Vi Linh Phù này xúi giục?” Dương phi hỏi.
Thừa Càn gật đầu: “Đúng, là hắn!”.
“Hơn nữa hôm nay thái tử lên kế hoạch mưu phản có phải cũng là do Vi Linh Phù thuyết phục không?”, Dương phi hỏi.
Lần này Thừa Càn gật đầu không hề do dự: “Đúng, hắn chẳng những giúp ta chế định sách lược, hơn nữa còn thuyết phục Hầu Quân Tập về phe ta… Hắn quả thật là người của tứ đệ?”.
Dương phi nhìn vị thái tử hồ đồ này, thật sự không nói được gì. Sắc mặt Thừa Càn dần trở nên trắng bệch.
“Sao lại đến nước này! Sao có thể như vậy!” Thừa Càn khóc thất thanh: “Ta và hắn là cùng một mẫu thân sinh ra, từ nhỏ tình cảm sâu đậm, vì sao hắn lại tìm trăm phương ngàn kế đẩy ta đến tình cảnh không thể quay đầu này?”.
“Dưới hoàng quyền, triều đại nào có tình thân huynh đệ?” Dương phi buồn bã than thở.
“Phụ hoàng đã phế bỏ ngôi vị thái tử của ta rồi”, Thừa Càn lau nước mắt, hỏi: “Có phải sẽ sắc lập hắn làm thái tử không?”.
“Cũng có khả năng này”, Dương phi nói: “Hôm qua Thanh Tước vào cung cầu khẩn bệ hạ sắc phong hắn làm thái tử và hứa hẹn khi mình chết chắc chắn sẽ giết chết con nối dõi, truyền ngôi vị hoàng đế cho Lý Trị”.
“Làm loạn luân thường đạo lí, nói xằng nói bậy”, Thừa Càn mắng.
“Đúng vậy!”, Dương phi nói: “Lời này không có ai tin, nhưng bệ hạ lại tin”.
Thừa Càn giận dữ cực độ: “Hôm nay ta rơi vào tình cảnh này, tất cả đều do Lý Thái! Không ngờ hắn lại ác độc như thế, cho dù ta chết cũng phải kéo hắn cùng xuống địa ngục!”.
“Rốt cuộc xử trí thái tử như thế nào, bệ hạ còn chưa quyết, chưa chắc thái tử phải chết”, Dương phi nói: “Nhưng muốn kéo Thanh Tước cùng bại cũng không khó”.
Thừa Càn ngẩn ra, vội vàng thi lễ: “Làm thế nào được? Xin quý phi dạy ta!”.
Dương phi nói: “Chỉ cần thái tử hỏi bệ hạ một câu, ngôi vị thái tử có thể dựa vào âm mưu quỷ kế để cướp đoạt hay sao? Nhất định có thể cắt đứt hi vọng đoạt ngôi vị của Thanh Tước!”.
Thừa Càn nhất thời còn chưa hiểu, đột nhiên ngoài cửa vang lên âm thanh của cấm vệ: “Tham kiến bệ hạ!”.
“Ai ở trong điện?”, giọng Lý Thế Dân vang lên.
“Là quý phi nương nương”, cấm vệ trả lời.
“Ừ!” Lý Thế Dân không nói gì thêm, chỉ phát ra âm mũi.
Lúc này cửa điện mở ra, Lý Thế Dân đi vào, Dương phi vội vàng đứng dậy bái kiến.
Lý Thế Dân nhìn thái tử với vẻ mặt phức tạp, lại hỏi Dương phi: “Ái phi vì sao ở đây?”.
Dương phi dịu dàng nói: “Đều là nhi tử trong nhà, mặc dù phạm quốc pháp, nhưng nhớ tới Trưởng Tôn tỷ tỷ năm xưa, trong lòng thiếp cũng không đành, liền sai thượng thiện giám làm chút đồ ăn, không để thái tử phải khổ sở”.
Vừa nhắc tới Trưởng Tôn hoàng hậu, Lý Thế Dân lại thấy thương cảm, thoáng nhìn hộp cơm dưới đất, nhã nhặn nói: “vẫn là ái phi có lòng. Ái phi về cung đi, trẫm và Thừa Càn nói chuyện”.
Dương phi lặng lẽ cúi chào, lui ra ngoài. Trong cung điện trống trải còn lại phụ tử hai người yên lặng đối mặt một lát, ánh mắt lại cùng hướng ra chỗ khác.
“Một tháng trước, trẫm tiễn biệt Hữu nhi trong nội thị tỉnh này, không ngờ hôm nay lại đến đưa tiễn ngươi”, giọng Lý Thế Dân khô khốc, lộ ra vẻ thê lương già nua.
“Nhi thần chỉ sợ là phụ hoàng sẽ còn đưa tiễn nhiều nhi tử hơn nữa ở nơi này”, Thừa Càn nói.
“Ngươi đang nguyền rủa trẫm sao?” Lý Thế Dân lần này lại không giận dữ, trên mặt chỉ có vẻ chán nản sâu sắc.
Thừa Càn lắc đầu: “Nhi thần chỉ cảm khái số mệnh của mình. Phụ hoàng dựa vào chính biến cung đình mà đoạt được đế vị, tứ đệ mới học theo, đẩy nhi thần đến cảnh phản nghịch. Cho nên nhi thần sợ rằng bất kể hoàng tử nào làm thái tử đều sẽ có người nhòm ngó”.
Lý Thế Dân không muốn nghe người khác nhắc tới nhất là chuyện Huyền Vũ Môn khi xưa, lập tức nổi giận: “Chính ngươi không ra gì, lại trách Thanh Tước?”.
Thừa Càn kinh ngạc: “Chẳng lẽ phụ hoàng còn không biết, mưu sĩ Vi Linh Phù của nhi thần là nội gián do tứ đệ phái tới sao?”.
“Cái gì?”, Lý Thế Dân ngây ra.
Thừa Càn lộ vẻ châm chọc, kể lại chuyện Vi Linh Phù được Lý Thái phái đến xúi bẩy mình ám sát Vu Chí Ninh, kích động Lý Hữu tạo phản, định ra kế hoạch cung biến. Lý Thế Dân kinh ngạc ngây ra như phỗng.
“Nhi thần đã bại, bản lĩnh không bằng người khác, trong hoàng gia vô tình này cũng không có gì để oán trách”, Thừa Càn mỉa mai: “Nghe nói phụ hoàng có ý lập tứ đệ làm thái tử, vậy thì thay nhi thần chúc mừng tứ đệ. Hắn quả thật là nhi tử giống phụ hoàng nhất”.
Lý Thế Dân nóng rát mặt, giải thích: “Trẫm còn chưa quyết định lập Thanh Tước làm thái tử”.
“Như vậy vẫn là sẽ lập hắn?”, Thừa Càn cười ha hả: “Phụ hoàng đây là muốn nói với con cháu, vị trí thái tử Đại Đường thì ra có thể dùng âm mưu thủ đoạn mà cướp đoạt sao?”.
Trong đầu Lý Thế Dân đột nhiên như có sấm chớp. Thừa Càn vẫn không thể hiểu được hàm nghĩa thật sự của câu này, nhưng Lý Thế Dân lập tức hiểu được, bởi vì đây là chuyện ông ta sợ hãi nhất.
Từ năm Vũ Đức nguyên niên, Đại Đường lập quốc hai mươi lăm năm, mặc dù bước đầu mở ra thịnh thế, nhưng chuyện vua tôi Đại Đường lo lắng nhất là vương triều này rốt cuộc có thể kéo dài bao lâu. Lúc nhà Tùy hưng thịnh còn mạnh mẽ hơn Đại Đường hiện này, nhưng vẫn chỉ kéo dài được hai đời là diệt vong. Huống hồ trước Đại Đường, từ Ngụy Tấn đến Chu, Tùy, trong hơn bốn trăm năm, vô số vương triều, tuổi thọ dài nhất cũng không tới năm mươi sáu mươi năm, ít thì hai mươi ba mươi năm. Lý Thế Dân và triều thần cả ngày thảo luận làm thế nào phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này, làm cho Đại Đường hoà bình ổn định lâu dài.
Lý Thế Dân kỳ thực không hề có quá nhiều tự tin. Bởi vì bản thân ông ta là người mang tội, binh biến Huyền Vũ Môn diệt huynh ép phụ, thật sự quá giống chuyện huynh đệ tương tàn, âm mưu tàn sát của các vương triều đoản mệnh. Lời của Thừa Càn như một đòn đánh mạnh vào ông ta, làm cho ông ta đột nhiên hiểu được, quyết không thể cho phép các hoàng tử dùng âm mưu thủ đoạn đoạt đích trèo lên đế vị, nếu không sau này Đại Đường sẽ vĩnh viễn không có ngày yên bình.
“Chuyện này trẫm đã có tính toán, ngươi cứ yên tâm mà đi thôi!”, Lý Thế Dân than thở.
“Đúng vậy, có liên quan gì tới nhi thần nữa chứ?” Thừa Càn cười buồn bã: “Phụ hoàng hôm nay đến là để đưa tiễn nhi thần, từ nay chuyện nhân gian không còn liên quan tới nhi thần. Thật hối hận đã đến nhân thế này một chuyến”.
“Ngươi vẫn không hiểu trẫm!”, Lý Thế Dân nhìn hắn, vẻ mặt phức tạp: “Trẫm làm sao nỡ giết ngươi? Một Lý Hữu đã làm trẫm đau đến đứt ruột, chẳng lẽ ngươi còn phải bắt trẫm mang tội danh giết con hay sao? Buổi triều sớm hôm nay, trẫm đã quyết định phế ngươi làm thứ dân, lưu đày Kiềm Châu. Chỉ mong ngươi có thể sống một đời bình thản ở Kiềm Châu, chỉ mong ngươi và trẫm kiếp sau không còn là phụ tử”.
Lý Thế Dân xoay người rời khỏi cung điện, bước chân lảo đảo. Cửa điện sau lưng ầm ầm đóng lại, đây là lần cuối cùng trong đời này ông ta nhìn thấy vị trưởng tử mà mình vừa thương vừa hận này.
Hôm sau Lý Thế Dân hạ chiếu, giáng Thừa Càn làm thứ dân, lưu đày Kiềm Châu, đồng thời giam cầm Lý Thái trong tướng tác giám. Việc này khiến bè phái của Lý Thái trắng trợn chỉ trích, Lý Thế Dân đích thân ra chiếu thư: “Ngụy vương Lý Thái là ái tử của trẫm, trẫm thật sự yêu thích. Trẫm cho hắn ân huệ ngang các vương, cho hắn tước vị vượt qua lệ thường, lại khiến hắn kiêu căng lạm quyền, cho rằng Thừa Càn mặc dù là trưởng tử, lại vẫn có thể thay thế được. Hai người tranh nhau câu kết với triều thần, lôi kéo hung đồ, khiến cho văn võ bá quan đều ỷ lại, họ hàng thân thích chia bè kết đảng. Trẫm coi trọng công bằng, không thiên lệch ai, tất thảy đều bãi miễn. Không chỉ để làm gương cho thiên hạ, mà cũng là lời răn dạy đời sau. Từ nay trở đi, thái tử vô đạo, có phiên vương nhòm ngó ngôi vị, cả hai đều phế. Truyền xuống đời sau, đây là pháp chế vĩnh viễn!”.
Sau đó giáng Lý Thái làm Đông Lai quận vương, điều ra kinh thành làm phiên vương.
°°°
Xử lí xong Thừa Càn và Lý Thái, Lý Thế Dân dứt khoát chém đầu phò mã Đỗ Hà, khai hóa công thần Triệu Tiết, Lý An Nghiễm, còn Hán vương Lý Nguyên Xương, Lý Thế Dân vốn không muốn giết hắn, nhưng quần thần phản đối, đành phải ban chết ở tư gia. Cuối cùng còn lại Hầu Quân Tập, Lý Thế Dân cũng do dự, ông ta thật sự không nỡ giết vị hãn tướng mình hằng yêu mến này. Lúc này lại truyền đến tin tức, Hầu Quân Tập ở trong ngục kiên quyết không thừa nhận mưu phản.
Lý Thế Dân nghĩ tới Hầu Quân Tập lại cảm thấy sầu não, bèn sai người di giá đến thiên lao của bộ Hình, tự mình đi gặp Hầu Quân Tập. Ông ta còn hạ lệnh triệu Vương Huyền Sách đi cùng.
Mấy ngày nay Vương Huyền Sách trở thành nhân vật làm mưa làm gió trong Trường An, đầu tiên là dựa vào sức một mình bắt được Lý Hữu, sau đó là mưu trí xúi giục phản quân tạo phản sớm, giúp Lý Thế Dân tránh được họa sát thân. Hai công lớn đều là công huân hiển hách, chỉ còn xem bệ hạ phong thưởng thế nào.
Vương Huyền Sách vội vàng chạy tới, Lý Thế Dân đã lên liễn xa, đặc biệt triệu Vương Huyền Sách ngồi cùng.
Vương Huyền Sách hoảng sợ vì được ưu ái quá, lên liễn xa mới phát hiện hoàng đế đã trở nên hốc hác hơn, sau mấy ngày dường như đã già hơn mười tuổi, ngay cả tóc mai cũng đã trắng một mảng.
“Bệ hạ!”, Vương Huyền Sách hết sức thận trọng ngồi xuống.
Lý Thế Dân không nói gì, liễn xa chạy qua Thừa Thiên Môn, bánh xe lăn trên mặt đường đá xanh đi tới bộ Hình. Trên đường đi Lý Thế Dân vẫn không nói gì, yên lặng nhìn ra ngoài xe. Vương Huyền Sách càng không dám nói lời nào, trong lòng hồi hộp. Đến thiên lao, Lý Thế Dân dẫn Vương Huyền Sách vào ngục thất. Hầu Quân Tập bị xích sắt khóa vào tường, đầu tóc rối bù. Lý Thế Dân sai người tháo ra cho hắn. Hầu Quân Tập không ngờ hoàng đế lại đích thân tới thăm mình, không ngừng rơi lệ, quỳ xuống khấu đầu.
Lý Thế Dân nhìn hắn cảm khái: “Nghe nói ngươi không chịu nhận tội, trẫm không muốn để đám quan lại dùng đao bút làm nhục công thần của trẫm, vì vậy đích thân đến đây. Có lời gì ngươi có thể nói với trẫm”.
Hầu Quân Tập nói: “Tội thần không còn gì để nói, vốn nghĩ có thể thúc ngựa ra trận vì bệ hạ, chinh chiến tứ phương, chỉ tiếc giữa đường lại phụ tín nhiệm của bệ hạ, thần chết chưa hết tội”.
“Ngươi có bốn công lao lớn. Từ khi khởi binh đã đi theo trẫm nam chinh bắc chiến, liên tiếp lập chiến công”, Lý Thế Dân cũng vô cùng thương cảm: “Năm Vũ Đức thứ chín, chính ngươi và Kính Đức khuyên trẫm phát động binh biến Huyền Vũ Môn, công huân này trọn đời không quên. Năm Trinh Quán thứ tư, ngươi tiến quân thần tốc hai ngàn dặm, tiêu diệt Thổ Dục Hồn, lại thêm công diệt địch quốc. Năm Trinh Quán thứ mười bốn, ngươi tiêu diệt Cao Xương, lại là một công diệt địch quốc. Bốn công huân này trẫm nhớ trọn đời, vì vậy đã đưa chân dung ngươi vào Lăng Yên các, hi vọng con cháu của trẫm cũng nhớ tới những gì ngươi làm cho Đại Đường, bảo vệ con cháu ngươi được phú quý dài lâu. Trẫm và cả Đại Đường này, bất kể ai làm hoàng đế đều không thể cho ngươi nhiều vinh quang hơn thế, vì sao ngươi lại phải mưu phản?”.
Hầu Quân Tập khóc nói: “Là vì chính thần không ra gì. Khi đó công diệt Cao Xương, cướp đoạt bảo vật vương cung Cao Xương, lại bắt một số nữ nhân Cao Xương, đến khi hồi quốc lại bị đám ngự sử đó công kích, bị xiềng xích hạ nhục. Bệ hạ nhân từ, mấy ngày sau đã phóng thích thần, nhưng trong lòng luôn buồn bực không yên. Sau đó bị thuật sĩ Vi Linh Phù mê hoặc, nói thần kiếp này có tướng phong vương, thần lại tin lời nói bậy của hắn”.
Lý Thế Dân than thở: “Năm đó Tần Thúc Bảo đi theo trẫm xung phong đánh trận, trải qua hai trăm trận lớn nhỏ, máu chảy vô số, khiến sau này quanh năm phải nằm trên giường. Trẫm vẫn thường thương tiếc. Nhưng mà Quân Tập, lúc này trẫm lại mong ngươi cũng như Thúc Bảo, có thể an hưởng tuổi già, để vua tôi được tương kính cả đời!”.
Hầu Quân Tập chỉ khóc tu tu, không nói nên lời.
Lý Thế Dân cũng đỏ mắt: “Hôm nay trẫm nói trên triều đình, trước kia thiên hạ Đại Đường chưa yên, Quân Tập đổ máu vì đại nghiệp, trẫm thật sự không nỡ trừng trị hắn. Trẫm muốn cầu xin các vị giữ cho hắn một mạng, các vị công khanh có đáp ứng trẫm không? Quần thần nói, tội của Quân Tập, trời đất không dung, xin trừng phạt theo pháp luật”.
Hầu Quân Tập khóc nói: “Tội thần không dám cầu bệ hạ khai ân, chỉ cầu được chết”.
“Quân Tập, trẫm cùng ngươi không gặp được nhau nữa rồi”, Lý Thế Dân khóc thất thanh: “Từ nay trở đi, nếu tưởng niệm ngươi cũng chỉ có thể đến Lăng Yên các nhìn di ảnh của ngươi”.
Hầu Quân Tập không ngừng khóc: “Thần chết không có gì tiếc, nếu bệ hạ có thể nhớ một chút công lao của thần, khẩn cầu bệ hạ có thể cho lưu lại một nhi tử, đừng để hậu duệ của thần đoạn tuyệt”.
“Chuẩn tấu!” Lý Thế Dân không nói gì nữa, chậm rãi xoay người đi ra.
Vương Huyền Sách từ đầu đến cuối không hề nói gì, im lặng đi theo ra ngoài.
Quay lên liễn xa, mắt Lý Thế Dân vẫn đỏ ửng, nhưng không còn yên lặng nữa, nằm nghiêng trên giường mềm nhìn Vương Huyền Sách: “Huyền Sách, trận biến loạn này nhờ có khanh nhanh trí, trẫm mới không bước vào điện Trường Sinh, may mắn thoát được một mạng. Nghịch đảng trẫm sẽ trừng phạt, công thần trẫm sẽ phong thưởng. Nhưng trẫm rất tò mò, hôm đó khanh kích động vệ suất phủ tấn công Thừa Thiên Môn, trong mắt tất cả mọi người, khanh cũng là nghịch đảng, ngộ như không có người làm chứng cho khanh, khanh sẽ làm thế nào?”.
“Lúc đó đã có Mã Chu mà”, Vương Huyền Sách cười nói: “Thần không sợ bị oan uổng”.
“Nếu Mã Chu chết trong loạn quân thì sao?”, Lý Thế Dân vẫn vặn hỏi.
“Sao lại thế được”, Vương Huyền Sách lắc đầu: “Đám ‘Người Bất Lương’ của thần luôn bảo vệ ông ấy”.
“Khi đó khanh đã có ý để Mã Chu làm chứng giúp khanh hay sao?”, Lý Thế Dân hỏi.
Vương Huyền Sách kinh hãi trong lòng: “Kìa… Khi đó thần lại không có suy nghĩ như vậy, Mã xá nhân là văn nhân, thần sợ ông ấy xảy ra chuyện thôi. Lúc đó thời cuộc hỗn loạn, thần cũng không biết được có thể giúp bệ hạ dẹp yên trận phản loạn này hay không. Một khi nghịch đảng của thái tử thuận lợi chiến thắng, thần nhất định chết không có chỗ chôn, đâu nghĩ được nhiều như vậy”.
“Người đời đều nói khanh gan to hơn trời, nhưng trẫm biết mỗi một lần khanh mạo hiểm đều đã tính trước làm sau.” Ánh mắt Lý Thế Dân thăm thẳm nhìn Vương Huyền Sách: “Chúng ta giả thiết lần này thái tử thành công, trẫm bị đám nghịch tử này giết, khanh thật sự sẽ bị thái tử giết chết sao?”.
Vương Huyền Sách hoảng hốt quỳ rạp xuống đất: “Thần không hiểu ý bệ hạ là gì”.
“Mã Chu ở trong tầm khống chế của khanh, sau khi thái tử thắng, khanh chỉ cần giết Mã Chu, ngay lập tức khanh chính là đệ nhất công thần của hắn!”, Lý Thế Dân nhìn hắn chằm chằm: “Trong ngoài triều đình có mấy ngàn người làm chứng, Vương Huyền Sách khanh đã hối hả ngược xuôi, thúc giục vệ suất phủ tấn công Thừa Thiên Môn. Công lao này thái tử chẳng lẽ không công nhận?”.
Vương Huyền Sách mồ hôi đầm đìa: “Nhưng trước đó thần và thái tử không hề có liên can, thái tử đương nhiên biêt là thần giả mạo”.
“Thái tử soán vị, nóng lòng lôi kéo lòng người, lẽ nào hắn lại phủ nhận?” Lý Thế Dân lạnh lùng nói: “Trên thực tế, trận chính biến này bất kể ai thua ai thắng, Vương Huyền Sách khanh đều là người thắng!”.
“Bệ hạ trách oan vi thần rồi, thần tuyệt không có lòng này”, Vương Huyền Sách liên tục khấu đầu.
“Khanh đứng lên đi”, Lý Thế Dân đỡ hắn lên, nhìn hắn từ đầu đến chân: “Hôm nay trẫm dẫn khanh đến thiên lao cũng là để khanh nhìn thái độ đối đãi công thần lão tướng của trẫm. Bề tôi phản nghịch trẫm cũng có thể đặc xá, huống hồ là chỉ có chút tính toán”.
“Nhưng thần thật sự không có nước đôi, đầu cơ chính trị”, Vương Huyền Sách ấm ức.
“Nếu có, trẫm cũng tha thứ cho khanh. Nếu không có, xem như trẫm nhắc nhở khanh”, Lý Thế Dân thoáng mỉm cười: “Trẫm luôn luôn tán thưởng khanh gan to hơn trời, nhưng khanh nhất định phải nhớ, trời đó là bầu trời mênh mông bên ngoài Đại Đường, chứ không phải bầu trời trên thành Trường An!”.
“Thần nhớ rồi”, Vương Huyền Sách nói.
“Khanh có công bắt Lý Hữu, công dẹp loạn phản đảng của thái tử, hai công lao này trẫm đều nhớ”, Lý Thế Dân nói: “Khanh hiện nay là tòng ngũ phẩm hạ, có thể nhảy thêm mấy bậc. Có điều Ngụy Trưng đã định ra quy tắc, tặc soái của ‘Người Bất Lương’ phẩm cấp không được vượt qua ngũ phẩm. Khanh có chịu bỏ công việc tặc soái ‘Người Bất Lương’ hay không?”.
Vương Huyền Sách suy nghĩ một lát, sau khi bị cảnh cáo, trong lòng hắn vẫn kiêng dè, liền nói: “Thần vẫn muốn làm tặc soái ‘Người Bất Lương’ cho thoải mái”.
“Cũng tốt”, Lý Thế Dân nói: “Khanh hãy bỏ chức trưởng sử, đến Hồng Lư Tự làm một thiếu khanh, chuyên phụ trách chuyện qua lại với các quốc gia khác, nhân tiện bố trí tai mắt ‘Người Bất Lương’ tại đó”.
Thiếu khanh Hồng Lư Tự là chính ngũ phẩm thượng, lần này Vương Huyền Sách thăng quan ba cấp. Vương Huyền Sách khấu đầu tạ ơn, nhưng trong lòng lại biết hoàng đế đã thận trọng cảnh giác mình.
“Bắt tên Vi Linh Phù đó cho trẫm!” Cuối cùng Lý Thế Dân nghiến răng nghiến lợi nói: “Hừ, ngoài cửa tam vương tranh đoạt, nhà Đường nay gặp luân hồi! Chính là người này đã hại trẫm mất đi ba nhi tử, trẫm phải đích thân thẩm vấn hắn, xem hắn rốt cuộc có lai lịch ra sao”.
°°°
Vương Huyền Sách không dám chậm trê, lập tức lệnh cho “Người Bất Lương” truy tìm Vi Linh Phù. Vi Linh Phù có thể lấy thân phận thuật sĩ yết kiến Ngụy vương, thái tử, tại Trường An cũng là danh nhân. Muốn điều tra đáng lẽ không hề khó khăn, nhưng chuyện lại rất kỳ lạ, bất kể “Người Bất Lương” điều tra thế nào cũng chỉ tra được những chuyện từ một năm trước khi Vi Linh Phù vào Trường An đến nay, dường như trước đó trên đời chưa từng có người này tồn tại! Vương Huyền Sách lo lắng không thôi, chuyện này ngày càng nghiêm trọng. Thời kỳ đầu Đại Đường, hộ khẩu quản lí tương đối nghiêm ngặt, cư dân bình thường chỉ cần rời khỏi chỗ ở đều phải có giấy quá sở, tức giấy thông hành do quan phủ phát cho, đến thành nào cũng sẽ bị kiểm tra. Càng không cần phải nói đến đạo sĩ, đạo tịch cũng quản lí nghiêm khắc giống như tăng tịch. Nhưng một người nổi tiếng như thế, “Người Bất Lương” hao hết tâm tư lại tra không ra lai lịch của hắn, điều này khiến Vương Huyền Sách không thể không sợ hãi.
Là ai đã giúp hắn che giấu thân phận?
Vương Huyền Sách đưa mắt nhìn sang các huân thích công hầu, hỏi han hơn mười vị huân quý có giao tình thân quen với Ngụy vương Lý Thái, cuối cùng được biết người này là do thượng thư bộ Công - Đỗ Sở Khách tiến cử cho Ngụy vương. Đỗ Sở Khách là đệ đệ của Đỗ Như Hối, thúc phụ của phò mã Đỗ Hà, xưa nay có giao hảo không tệ với Ngụy vương. Đại đa số triều thần trong bè cánh Ngụy vương đều là Đỗ Sở Khách lôi kéo. Mấy ngày trước Ngụy vương bị giáng chức, Đỗ Sở Khách cũng bị bắt. Sau đó tra rõ ông ta không tham dự mưu phản, nể mặt Đỗ Như Hối, Lý Thế Dân miễn tội chết cho ông ta, bãi miễn cho về nhà.
Phủ của Đỗ Sở Khách cũng ở nơi quan lớn tụ tập là Sùng Nhân Phường giống như Vu Chí Ninh. Vương Huyền Sách dẫn “Người Bất Lương” đến ẩn nấp trong Sùng Nhân Phường trước giờ giới nghiêm, xác nhận Đỗ Sở Khách ở trong phủ. Đến giờ Tuất, vẫn dùng cách cũ, bắc thang người leo tường mà vào, đi thẳng đến phòng ngủ của Đỗ Sở Khách.
Mọi người ẩn giấu hành tung, tránh gia đinh và chó dữ, hết sức thận trọng tiếp cận hậu trạch, kinh ngạc phát hiện trong phòng Đỗ Sở Khách đèn đuốc vẫn sáng choang, ngay cả cửa phòng cũng mở rộng. Vương Huyền Sách đứng dưới hiên, không biết làm sao. Lúc này âm thanh của Đỗ Sở Khách từ trong phòng vọng ra: “Người đến có phải là Vương thiếu khanh? Mời vào đi!”.
Vương Huyền Sách ra hiệu cho thủ hạ, “Người Bất Lương” lập tức hiểu ý, phân tán ra canh gác các ngả trọng yếu, ngay cả nóc nhà cũng có người canh gác. Vương Huyền Sách tay nắm chuôi kiếm, bỏ ủng trước cửa, đi vào trong phòng.
Đỗ Sở Khách năm nay đã năm mươi sáu tuổi, râu tóc đã hoa râm, sau khi bị cách chức càng thêm hốc hác, mặt mang đầy tử khí. Trong nhà cũng rất đơn sơ, chỉ có mấy chiếc sạp đặt trước bình phong.
Đỗ Sở Khách ngồi xếp bằng trên sạp như người mất hồn, Vương Huyền Sách ngồi ngay ngắn, tay nắm chuôi kiếm.
“Đỗ công, vì sao lúc này còn chưa đi ngủ?” Vương Huyền Sách hỏi.
“Đi ngủ rồi chẳng phải cũng sẽ bị ngươi đánh thức hay sao?”, Đỗ Sở Khách thản nhiên nói. Dù sao cũng đã từng làm quan lớn, mặc dù bị biếm chức nhưng khí độ vẫn không hề suy giảm.
“Xin thứ lỗi”, Vương Huyền Sách cúi đầu: “Chỉ là có một chuyện không thể không tới nhà hỏi. Ban ngày lắm người nhiều miệng, vì thế đêm khuya mới đến đây”.
“Là tới hỏi tung tích của Vi Linh Phù đúng không?”, Đỗ Sở Khách nói.
Vương Huyền Sách trong lòng cảm thấy bất an tột độ: “Ngài biết tại sao ta đến đây?”.
Đỗ Sở Khách gật đầu: “Đêm nay, Vi Linh Phù vừa tới”.
Vương Huyền Sách đứng bật dậy: “Hắn ở đâu?”.
Đỗ Sở Khách chỉ chiếc sạp dưới chân ông ta. Vương Huyền Sách cúi đầu nhìn, không hề có gì dị thường, không khỏi thắc mắc. Đỗ Sở Khách giải thích: “Vừa rồi hắn ngồi trên chiếc sạp này, trước lúc ngươi đến đã hóa thành khói tan mất”.
“Nói nhảm!”, Vương Huyền Sách giận dữ: “Đỗ công, ta kính trọng nhà họ Đỗ ngài là huân quý Đại Đường, ngài lại xem ta như trẻ con ba tuổi sao?”.
Đỗ Sở Khách lắc đầu: “Lão phu đã đến tình cảnh này, còn có gì phải ra vẻ huyền bí nữa. Ngươi xem”.
Ông ta đưa tay chỉ bình phong: “Vi Linh Phù vừa viết một bài thơ trên tấm bình phong này”.
Vương Huyền Sách quay lại nhìn, trên tấm bình phong sơn thủy quả nhiên viết một bài thơ như rồng bay phượng múa:
Tùy Hầu dĩ đạn tước, thỉ Tân dĩ chúc xa.
Đán vị xưng cô khách, tích vị hồ điểu dư.
Tam vương môn ngoại sát, Đường thất hiện luân hồi.
Nhược đắc Linh Phù hiện, minh nhật Huyền Vũ Môn.
(Tạm giải nghĩa: Lấy ngọc Tùy hầu làm đạn bắn sẻ, liếm nhọt vua Tần đổi ngựa xe sang.[155] Sáng còn tự nhận là khách độc hành, tối đã phải ăn thừa của chim cáo. Ngoài cửa tam vương tranh đoạt, nhà Đường nay gặp luân hồi. Nếu muốn gặp Linh Phù, ngày mai hãy đến Huyền Vũ Môn.)
Vương Huyền Sách tài văn không hề cao, nhưng cũng có thể nhìn ra bài thơ này hết sức vụng về, âm vận, niêm luật, bằng trắc gần như tất cả đều lộn xộn. Nhưng câu thứ ba trong bài thơ này vẫn khiến hắn cực kỳ chấn động.
“Ngoài cửa tam vương tranh đoạt, nhà Đường nay gặp luân hồi!” Câu này rõ ràng là Lý Thế Dân nghe thấy trong mơ, tại sao lại bị một thuật sĩ viết trên bình phong?
“Đây… đây là ý gì?” Vương Huyền Sách toát mồ hôi lạnh, hắn chạy tới sờ sờ, nét mực chưa khô.
“Bốn câu trước trích dẫn ‘Bão Phác Từ’[156] Đỗ Sở Khách nói: “Ý là nói dùng ngọc Tùy hầu đi bắn chim sẻ, liếm ung nhọt của Tần vương đế đổi lấy xe ngựa. Buổi sáng còn tự xưng vương, hoàng hôn lại ăn đồ ăn thừa của chim thú. Câu tiếp theo suy đi nghĩ lại cũng quả thật là như thế, ba vương giết nhau, há không phải là binh biến Huyền Vũ Môn tái diễn hay sao?”.
“Vậy còn hai câu cuối cùng?”, Vương Huyền Sách hỏi.
Đỗ Sở Khách hít sâu một hơi, dường như có chút sợ hãi: “Nếu muốn gặp được Vi Linh Phù, ngày mai hãy đợi hắn ở Huyền Vũ Môn”.
“Nói nhảm!”, Vương Huyền Sách cười lạnh: “Huyền Vũ Môn ở sâu trong cấm cung, là nơi trọng yếu, ngày mai hắn làm sao có thể xuất hiện tại Huyền Vũ Môn?”.
“Đây chính là nguyên nhân đêm nay Vi Linh Phù đến tìm ta”, Đỗ Sở Khách cười gượng: “Hắn nói với ta, nửa canh giờ sau ngươi sẽ đến tìm ta. Và nhờ ta chuyển lời, ngày mai hắn muốn đến Huyền Vũ Môn tự thú, sau đó liền hóa thành khói biến mất”.
°°°
Giờ Mão, điện Cam Lộ.
Ngoài cửa sổ vẫn là đêm đen, tiếng trống mở cửa thành đang vang vọng trên phố Chu Tước xa xa, cả thành Trường An chấn động. Nội tâm Lý Thế Dân cũng đang chấn động kịch liệt. Vương Huyền Sách mang cả tấm bình phong đến điện Cam Lộ, Lý Thế Dân nhìn chằm chằm bài thơ trên đó, sắc mặt tái mét.
Ông ta càng hiểu rõ hơn Vương Huyền Sách: “Ngoài cửa tam vương tranh đoạt, nhà Đường nay gặp luân hồi”. Rõ ràng là câu thơ nghe trong mơ, vì sao lại bị một thuật sĩ biết được?
“Trẫm chỉ nói với một mình khanh!”, Lý Thế Dân lạnh lùng nói.
Vương Huyền Sách ngẩng đầu lên, nói: “Nếu trong lòng thần có gì giấu giếm, tuyệt đối không dám chuyển bức bình phong này vào trong cung!”.
Lý Thế Dân yên lặng rất lâu, chậm rãi gật đầu xem như chấp nhận lời giải thích của hắn: “Việc này nên giải thích thế nào?”.
“Đợi tên Vi Linh Phù đó xuất hiện, tất cả tự khắc sẽ rõ ràng”, Vương Huyền Sách nói.
“Truyền ý chỉ của trẫm, lệnh cấm vệ nha môn phía bắc mai phục Huyền Vũ Môn, An Lễ Môn, Trọng Nguyên Môn, ngõ Giáp Thành.” Đây ý nói phải vây chặt Huyền Vũ Môn, Lý Thế Dân suy nghĩ một lát: “Nếu Vi Linh Phù từ ngoài cung đi vào, không được ngăn cản! Trẫm phải xem hắn có dám đến tự thú hay không!”.
Nội thị giám vội vàng đi truyền đạt ý chỉ, Lý Thế Dân gọi lại, nói: “Đúng rồi, đến phủ Ngạc Quốc Công, triệu Uất Trì Kính Đức vào cung”.
Vương Huyền Sách cảm thấy có chút kỳ lạ, Uất Trì Kính Đức đã năm mươi bảy tuổi, hai tháng trước từng thỉnh cầu về dưỡng lão, Lý Thế Dân không nỡ, bác bỏ yêu cầu, nhưng cho phép ông ta năm ngày mới vào triều một lần. Không biết vì sao Lý Thế Dân lại nhớ tới ông bạn già này.
Không bao lâu sau Uất Trì Kính Đức mặc giáp chỉnh tề, tay cầm roi thép, hai tên cấm vệ khiêng trường giáo đến điện Cam Lộ yết kiến.
Lý Thế Dân nắm tay uất Trì Kính Đức, xúc động nói: “Kính Đức, còn có thể chiến một trận không?”.
Uất Trì Kinh Đức xúc động cười nói: “Thần còn chưa già, chỉ hận thế gian không còn Đậu Kiến Đức và Lưu Hắc Thát!”.
Lý Thế Dân cười lớn: “Tốt, theo trẫm lên thành Huyền Vũ Môn. Ngày xưa khanh và trẫm dựng hoàng quyền bá nghiệp ở đây, hôm nay trẫm lại muốn xem xem, rốt cuộc là tên hề nào dám nhảy nhót dưới này”.
Trong vòng bảo vệ của bách kỵ, Lý Thế Dân, Uất Trì Kính Đức và Vương Huyền Sách lên thành Huyền Vũ Môn. Lúc này cấm vệ nha môn phía bắc đã mai phục xong xuôi, xung quanh lờ mờ có thể thấy ánh đao lấp loáng. Lý Thế Dân đứng trên tường thành Huyền Vũ Môn, không khỏi cảm khái muôn vàn. Mười sáu năm trước, chính mình phát động binh biến ở đây, được ăn cả ngã về không, bước lên bá nghiệp hoàng đồ, đồng thời cũng bị đẩy vào ác mộng cả đời.
“Trẫm chưa từng hối hận!”, Lý Thế Dân lẩm bẩm nói: “Nếu thời gian quay lại, trẫm vẫn sẽ lựa chọn như vậy!”.
Lúc này mặt trời từ từ lên cao, trong hoàng cung lấp lánh huy hoàng. Lý Thế Dân sai người đặt đồng hồ mặt trời bên cạnh, yên lặng chờ đợi. Ông ta không biết Vi Linh Phù khi nào sẽ xuất hiện, nhưng ông ta rất có lòng tin, đối phương sẽ không để mình phải đợi lâu. Nếu người này đến để nhằm vào binh biến Huyền Vũ Môn mười sáu năm trước, bất kể đối với hắn hay là đối với mình đều là một sự giày vò.
Quả nhiên đến giờ Tị ba khắc, ngoài Nguyên Đức Môn ở cửa bắc đông cung đột nhiên xuất hiện một thuật sĩ trường bào áo vải. Người này tướng mạo gầy gò, để ba chòm râu dài, đỉnh đầu bó tóc, cài một cây trâm gỗ, áo bào tay rộng, dáng vẻ ung dung. Cấm vệ nha môn phía bắc vây kín xung quanh mưa gió không lọt, tuy nhiên ai cũng không biết người này rốt cuộc đã xuất hiện bằng cách nào. Hàng ngàn giáp sĩ khẩn cấp điều động, từ lối hẹp ngoài cung thành vào bao vây người này, trường mâu như rừng, lá chắn như tường. Trên tường thành hai bên còn có cung thủ giương cung đặt tên, chỉ cần ra lệnh một tiếng, vạn tên cùng bắn.
Lý Thế Dân đứng xa xa trên lầu thành nhìn xuống, hạ lệnh: “Để hắn tới”.
Quân trận tách ra hai bên, Vi Linh Phù mỉm cười ung dung đi giữa vạn quân như đi dạo trên sân vắng. Theo lối đi hẹp đi về phía tây, đi qua An Lê Môn, chậm rãi đi đến Huyền Vũ Môn. Hai bên cách nhau không đến hai dặm, lúc Vi Linh Phù đi tới dưới thành Huyền Vũ Môn, cấm vệ nha môn phía bắc đã vây tới dày đặc.
Vi Linh Phù ngẩng đầu, đối mặt với Lý Thế Dân trên lầu thành: “Hôm đó, trên lầu thành này là Hữu vệ trung lang tướng Thường Hà đúng không?”.
Lý Thế Dân không đáp, yên lặng nhìn hắn.
Vi Linh Phù cười cười, đi vào cổng Huyền Vũ Môn, âm thanh từ trong cổng vọng ra: “Con đường ta đi này là đường năm đó Kiến Thành và Nguyên Cát đã đi. Bọn họ từ đông cung đi tới trước Huyền Vũ Môn, nhìn thấy Thường Hà gác cổng, nhất định sẽ cảm thấy rất yên tâm. Bệ hạ, bọn họ có chào hỏi Thường Hà hay không? Ngài nhất định biết, bởi vì hôm đó ngài mai phục giữa hồ Nam Hải và điện Lâm Hồ, có thể nghe thấy hai người bọn họ đối thoại!”.
Vi Linh Phù đi ra Huyền Vũ Môn, sau khi qua Trọng Nguyên Môn liền đi về phía tây, không ngờ lại không hề để ý tới Lý Thế Dân trên lầu thành. Lý Thế Dân và Uất Trì Kính Đức liếc nhau, hai người đồng thời nghĩ đến một chuyện đáng sợ, Uất Trì Kính Đức nói nhỏ: “Hôm nay quyết không thế để người này còn sống’”.
Vương Huyền Sách kinh ngạc, trong lòng nghĩ: Binh biến Huyền Vũ Môn đã là chuyện người đời đều biết, còn phải diệt khẩu hay sao?
Lý Thế Dân và Uất Trì Kính Đức vội vã xuống Huyền Vũ Môn, Vương Huyền Sách cùng cấm vệ nha môn phía bắc xung quanh cũng đi theo, thấy xa xa Vi Linh Phù đã đi đến điện Lâm Hồ trong vòng vây của quân đội. Từ điện Lâm Hồ nhìn về phía tây, hồ Nam Hải sóng gợn lăn tăn, ở giữa là rừng cây và lâu các liền nhau.
“Bệ hạ!”, Vi Linh Phù quay lại nhìn Lý Thế Dân, cười to: “Hôm đó ngài và Kính Đức mai phục trong rừng cây lầu các đó đúng không? Kiến Thành và Nguyên Cát đến hồ Nam Hải gặp thái thượng hoàng, đi tới nơi này phát hiện phục binh, Kiến Thành quay ngựa chạy về, ngài biết đã bị phát hiện, lập tức đi ra hô to với Kiến Thành. Bệ hạ, khi đó ngài đã nói gì?”.
Lúc này Lý Thế Dân đã biết hắn muốn làm gì, sắc mặt xanh mét, yên lặng không nói.
Vi Linh Phù lắc đầu: “Ngài không nói cũng không sao. Chúng ta biết là ngài lập tức bắn một mũi tên về phía Kiến Thành. Tiễn pháp của ngài trước nay rất tốt, một tên này lại là đỉnh cao của ngài, một mũi tên xuyên yết hầu, Kiến Thành ngã xuống chết dưới ngựa. Sau đó cận vệ hai bên bắt đầu hỗn chiến, Nguyên Cát cũng trúng tên ngã xuống ngựa. Ngài lập tức thúc ngựa lao tới chỗ Nguyên Cát, không ngờ ngựa lại bị vướng cành cây, ngài cũng ngã xuống ngựa. Sau đó Nguyên Cát vùng vẫy bò lên, đoạt cung của ngài, định dùng dây cung siết chết ngài. Lúc này Kính Đức chạy tới, Nguyên Cát buông ngài ra, cướp đường chạy trốn, Kính Đức liền đuổi giết. Kính Đức, đây là công cứu giá của ngươi, ta kể không có gì sai chứ?”.
Uất Trì Kính Đức hừ một tiếng, kiên cường không đáp.
“Nguyên Cát chạy về hướng đông, đến rừng cây ngoài điện Vũ Đức, bị Kính Đức một tên bắn chết. Sau đó Kính Đức rút đao chém rơi đầu Nguyên Cát.” Vi Linh Phù quay mặt về phía điện Vũ Đức, nhắm mắt suy ngẫm, dường như có thể nhìn thấy cảnh tượng đẫm máu hôm đó: “Khi đó Tiết Vạn Triệt đang dẫn binh mã của đông cung và phủ Tề Vương hung hãn tấn công Huyền Vũ Môn, thấy quân mình không chống đỡ được nữa, Kính Đức cầm thủ cấp Kiến Thành và Nguyên Cát đưa ra cho đám Tiết Vạn Triệt xem. Binh mã đông cung biết đánh tiếp cũng vô nghĩa, lập tức bỏ chạy tán loạn”.
Uất Trì Kính Đức hét lớn: “Tên yêu nhân nhà ngươi, việc này mọi người đều biết, ngươi giả thần giả quỷ, rốt cuộc có ý đồ gì?”.
“Tên yêu nhân này chỉ muốn hỏi bệ hạ mấy câu”, Vi Linh Phù cười to: “Theo quốc sử của ngài kể lại, khi đó Thái thượng hoàng du thuyền trên hồ Nam Hải. Điện Lâm Hồ và hồ Nam Hải gần trong gang tấc, thị vệ của ngài và Kiến Thành chém giết quyết liệt như thế, vậy mà thái thượng hoàng lại không hề phái người đến xem xét. Thái thượng hoàng xuất hành, ba vệ năm trượng tổng cộng một trăm tám mươi người, thiên ngưu phòng thân bốn mươi tám người, ngài dẫn bảy mươi mấy người phục kích Kiến Thành, Nguyên Cát, Thái thượng hoàng lại hoàn toàn thờ ơ? Sau khi ngài giết chết Kiến Thành, Nguyên Cát, Kính Đức mặc giáp cầm mâu, cầm hai cái đầu người đầm đìa máu tươi xông đến trước mặt thái thượng hoàng ép thoái vị, vậy mà hơn hai trăm cấm vệ đó lại để mặc hắn đi vào? Bệ hạ, tên yêu nhân này muốn hỏi ngài một câu, hôm đó Thái thượng hoàng thật sự đang du ngoạn thuyền trên hồ Nam Hải sao? Rõ ràng Thái thượng hoàng đã bị ngài khống chế từ trước, giam giữ trên thuyền”.
Câu này nói trúng chuyện Lý Thế Dân sợ hãi nhất trong lòng. Nếu chỉ là tranh đoạt ngôi vị thái tử với Kiến Thành, giết chết Kiến Thành, Nguyên Cát, ông ta còn có thể che đậy. Nhưng bây giờ một khi chứng minh được, trước chính biến Huyền Vũ Môn, ông ta đã khống chế và giam cầm Lý Uyên thì chuyện sẽ lớn hơn nhiều. Ông ta vẫn rêu rao rằng binh biến Huyền Vũ Môn xảy ra là do bị Kiến Thành và Nguyên Cát ám hại, bị ép phải tự vệ, bây giờ lí do này đã sụp đổ. Huống hồ còn phải mang tội danh giam cầm phụ thân, hình tượng nhân hiếu mà ông ta khổ tâm xây dựng cũng bị phá hủy hết.
“Nói nhảm!”, Lý Thế Dân giận dữ: “Hôm đó rõ ràng Thái thượng hoàng đang du ngoạn trên thuyền, có điều tiếng nhạc ồn ào, không thể nghe thấy. Ngươi là kẻ ngoài cung thì biết cái gì?”.
Vi Linh Phù cười lạnh: “Ta người ngoài cung, vậy lấy quốc sử mà ngài bố cáo thiên hạ ra cho ngài tâm phục khẩu phục”. Hắn lấy trong tay áo ra hai quyển sách, chính là hai quyển trong Vũ Đức thực lục và Trinh Quán thực lục, cầm trong tay giơ lên cao: “Mấy năm nay bóp méo Vũ Đức thực lục, Trinh Quán thực lục cũng khiến ngài hao tổn không ít công sức, trước hết nói ngài sớm đã được Thái thượng hoàng có ý lựa chọn làm thái tử. Chẳng hạn như trước khi khởi binh ở Thái Nguyên, nói Thái thượng hoàng từng hứa hẹn với ngài, nếu chuyện thành thì thiên hạ đều là của con, con sẽ trở thành thái tử, ngài còn một mực từ chối. Hừ, năm đó còn chưa khởi binh, thiên hạ đâu biết ai sẽ đánh hạ được? Đây là cố gắng xác định tính hợp pháp của ngài từ đầu đúng không? Ngoài ra, ngài bôi nhọ Kiến Thành, Nguyên Cát. Trong quốc sử này nói, Kiến Thành, tính phóng khoáng, thích tửu sắc săn bắn. Tề vương Nguyên Cát nhiều khuyết điểm, đều không được sủng ái. Thế Dân công danh ngày càng thịnh, bề trên thường có ý thay Kiến Thành, Kiến Thành không an tâm, cùng Nguyên Cát bày mưu cùng lật đổ Thế Dân, hê hê, một người bị hại đáng thương!”.
Sắc mặt Lý Thế Dân xanh mét, Vi Linh Phù tiếp tục nói: “Chẳng những thế, ngài còn đi ngược luân lí, xóa bỏ công lao của Thái thượng hoàng, miêu tả thái thượng hoàng do dự thiếu quyết đoán, hèn nhát vô năng. Trên này nói năm Đại Nghiệp thứ mười ba, ngài thuyết phục Thái thượng hoàng khởi binh, Thái thượng hoàng lại sợ đến hồn bay phách tán, nói ngươi còn dám nói vậy, ta sẽ đi báo với huyện quan. Ha ha, đúng là cười chết ta mất, Thái thượng hoàng mà lại định trói ngài dẫn đi báo quan! Cuối cùng ngài bịa chuyện Kiến Thành và Nguyên Cát dùng âm mưu thủ đoạn đầu độc ngài, khiến binh biến Huyền Vũ Môn trở thành hành động tự vệ. Ngài xem trên này viết, Kiến Thành nửa đêm triệu Thế Dân, cho uống rượu độc. Thế Dân đau bụng, hộc máu hàng đấu. Hê hê, đúng là chân long thiên tử, dùng rượu độc cũng không đầu độc chết được ngài. Lại xem chỗ này, Nguyên Cát bí mật tấu xin thái thượng hoàng giết ngài, nói sau khi ngài bình định Lạc Dương không chịu về kinh, rải tiền bạc tạo ơn, có ý tạo phản, xin hãy lập tức giết đi! Bệ hạ này, Nguyên Cát thỉnh cầu Thái thượng hoàng giết ngài, lí do này chính ngài không cảm thấy nực cười sao?”.
“Ngươi rốt cuộc là người nào?”, Lý Thế Dân quát. Trong đầu ông ta mê muội, nhìn ánh nắng xung quanh, không ngờ lại có cảm giác đang đứng trần trụi giữa đất trời.
“Ta chính là sứ giả phán xử thiện ác trên thế gian này!”, Vi Linh Phù khinh miệt nói, ném quyển sách xuống dưới đất.
“Sứ giả phán xử?”, Lý Thế Dân cười lạnh: “Đã là phán xử thiện ác, vì sao lại xúi bẩy ba nhi tử của trẫm tàn sát lẫn nhau?”.
“Đó chỉ là để ngài hiểu rõ một điều”, Vi Linh Phù uy nghiêm nói: “Trời đất này có báo ứng, bản thân ngài bất chính, giết anh giam cha, nhi tử của ngài cũng sẽ làm những chuyện giống như vậy!”.
“Rốt cuộc là ai sai khiến ngươi?” Lý Thế Dân chậm rãi giơ tay lên, xung quanh vang lên tiếng kẽo kẹt, hàng ngàn cây cung chậm rãi kéo căng.
“Còn không chịu tin hay sao?” Vi Linh Phù cười cười, trên người đột nhiên phun ra một làn khói trắng.
Từng sợi khói trắng dường như phun ra từ trong người hắn, thoáng cái đã phủ kín toàn thân.
Mọi người kinh ngạc, da đầu tê dại. Lý Thế Dân cũng hoảng sợ nhìn, Vương Huyền Sách càng chấn động.
“Ngoài cửa tam vương tranh đoạt, nhà Đường nay gặp luân hồi”, Vi Linh Phù chậm rãi ngâm. Lúc này thất khiếu[157] của hắn cũng phun ra khói, ngay cả lỗ chân lông cũng có từng sợi khói toát ra, dường như cả người đang tan biến thành khói trắng.
“Mau!”, Vương Huyền Sách quát lên: “Dùng lưới đánh cá!”.
Lúc này Lý Thế Dân cũng bừng tỉnh lại, ra lệnh cho cấm vệ đi tìm lưới đánh cá. Nơi này cách hồ Nam Hải không xa, lập tức có người xách một tấm lưới đánh cá chạy tới, tuy nhiên còn chưa tới gần Vi Linh Phù đã có một làn gió thổi đến, khói trắng tan hết. Trong vạn quân vây khốn, Vi Linh Phù đã hóa thành khói trắng biến mất.
Lý Thế Dân mặt tái mét, chạy tới xem xét kỹ càng, lại không có một dấu vết nào. Ông ta không khỏi hoảng sợ, ngẩng đầu nhìn mây trắng trên trời, dường như Vi Linh Phù đã hóa thành mây trắng bay đi.
“Chuyện này… Rốt cuộc là thế nào?”, Lý Thế Dân lẩm bẩm nói: “Hắn quả thật là tiên nhân đến trừng phạt trẫm hay sao?”.
Vương Huyền Sách đi lên, nói nhỏ: “Bệ hạ, việc này có người có thể giải được”.
“Người nào?”, Lý Thế Dân hỏi.
“Sư phụ của thần, đại sư Huyền Trang”, Vương Huyền Sách nói: “Lần trước trong vương cung Càn Đà La, ả Liên Hoa Dạ đó cũng toàn thân phun ra khói trắng như vậy, sau đó biến mất không rõ tung tích trước mắt bao người. Cảnh tượng này giống lúc đó như đúc!”.
[*] [156] “Bão Phác Từ” là một kiệt tác về luyện đan của Đạo giáo đồng thời cũng là một kiệt tác về khoa học kỹ thuật mà tác giả là Cát Hồng, một danh y đời Tấn. Sách “Bão phát tử” được chia làm hai bộ “Nội thiên” và “Ngoại thiên”. Sách “Bão phác tử” Nội thiên gồm 20 quyển. Ngoại thiên gồm 50 quyển. “Bão phát tử nội thiên” lấy tư tướng Nho gia làm trung tâm, luận bàn về đạo lý của xã hội, sự thịnh suy của thời cuộc, và sự được mất của con người.
[*] [157] Thất khiếu tức bảy lỗ trên mặt bao gồm hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi và miệng.
[*] [158] Hiện còn rất ít thông tin về địa danh này, các ghi chép từ sách cổ chi còn ghi Tỳ Bố La tức là quảng đại - mang ý sâu rộng chẳng thể đo lường, đồng thời cũng là tên một ngọn núi gần khu vực Kusagarapura, thành Magagha.