Chương 14 Đại dược trường sinh, -bí xã trong núi Linh Sơn
Huyền Trang để Na Thuận và Liên Hoa Dạ ở lại chùa Phạt Đàn Na nghỉ ngơi mấy ngày, sức khỏe Liên Hoa Dạ dần dần bình phục.
Na Thuận chào từ biệt Huyền Trang: “Sư huynh, nhờ có huynh, bây giờ duyên túc mệnh của ta và Liên Hoa Dạ đã rõ ràng. Liên Hoa Dạ cũng không còn gặp nguy hiểm đến tính mạng nữa. Ta và Liên Hoa Dạ phải sống cuộc sống của chính mình rồi, xin cáo từ huynh!”.
Liên Hoa Dạ cũng quỳ lạy Huyền Trang, cảm tạ ân huệ của ngài.
Huyền Trang đỡ hai người lên: “Na Thuận, kiếp trước ra sao không cần nhắc tới nữa, hãy sống kiếp này cho tốt”.
Na Thuận vô cùng vui sướng: “Sư huynh, có Liên Hoa Dạ, ta cảm kích kiếp này gặp được nàng”.
Hai người lưu luyến từ biệt, Huyền Trang đứng ở cổng thành Khúc Nữ nhìn hai người một ngựa chậm rãi đi xa, khẽ thở dài, sau đó lấy ra một chiếc áo choàng rộng rãi trong bọc trên lưng ngựa, trùm kín từ đầu tới chân, xoay người lên ngựa, cứ cách một khoảng không xa không gần mà đi theo.
Huyền Trang biết rất rõ, vận mệnh kỳ lạ mà đau thương của Na Thuận và Liên Hoa Dạ vẫn chưa đến hồi kết thúc. Việc nàng biến mất trong khói trắng tại vương cung Càn Đà La, rồi lại xuất hiện trong làn khói trắng ở phủ tể tướng tại thành Khúc Nữ, đây rõ ràng là có người đứng sau khống chế, dùng họ làm quân cờ để bày ra một đại cục.
Đã là quân cờ, bàn tay kia làm sao có thể để họ ẩn cư ngoài nhân thế, sống cuộc sống bình yên hạnh phúc?
Nhưng Huyền Trang lại không đành lòng làm phiền họ nữa, ngài để cho họ bình an không hay biết gì mà đi, dù chỉ có một ngày hạnh phúc cũng tốt. Còn bàn tay thao túng phía sau kia ngài sẽ tự mình giải quyết.
Huyền Trang ngồi trên lưng ngựa, đi trên vùng đất hoang vu xưa cũ. Ngài ngẩng đầu nhìn về nơi xa, phía sau đường chân trời dường như lại nhìn thấy Càn Đà La, nhìn thấy tòa thành đó và cặp nam nữ si tình diễn màn kiếp trước kiếp này trong thành. Không biết vì sao, ngài lại nhớ tới tổ kiến dưới gốc cây bồ đề lúc gặp Giới Nhật Vương lần đầu tiên. Khi mình đang nhìn tổ kiến đó, có phải kiến cũng đang suy nghĩ, rốt cuộc là bàn tay ai đang điều khiển số mệnh trên thế gian này?
Na Thuận không biết Huyền Trang đang âm thầm bảo vệ họ. Hắn dắt ngựa, tình yêu của hắn ngồi trên lưng ngựa, được ánh tà dương đưa tiễn đi ra khỏi thành Khúc Nữ, đi đến mặt đất mênh mông, đi đến bến bờ hạnh phúc vô biên. Ráng chiều như lửa, đỏ rực khung trời. Cây rừng ven đường như say rượu, đỏ hồng hai má, ngả nghiêng trong gió nam, tiếng lá cây xào xạc.
Huyền Trang đi theo hết sức gian nan. Không biết Na Thuận lo lắng điều gì mà không đi đường lớn, cứ tìm đường nhỏ đi về phía tây, có lẽ định vượt qua sông Ấn trở lại Tát Mã Nhĩ Hãn. Trên đường này không có nhà cửa, Na Thuận thường xuyên đến nơi có người mua đồ ăn thức uống mấy ngày liền, thậm chí còn mua cả lều, sau đó lại tránh các thành thị. Huyền Trang mấy lần phải nhịn đói mới tìm ra được quy luật này của Na Thuận.
Một buổi chiều nọ, sắc trời đã muộn, Na Thuận dừng lại bên một hồ nước lấp lánh. Bên hồ có cây bồ đề, tán cây rất lớn, Na Thuận dựng lều dưới bóng cây, trải thảm mới tinh, lấy trái cây, các loại đồ ăn và rượu nho tốt nhất ra, sau đó câu cá dưới hồ lên nướng. Huyền Trang dừng lại nơi cách bọn họ hơn một dặm, tìm một phiến đá dưới bóng cây. Ngài không thể nhóm lửa nấu cơm, đành gặm mấy chiếc bánh mì khô cứng, uống một chút nước, khoanh chân ngồi xuống.
Na Thuận và Liên Hoa Dạ đều đã hơi say, như cây rừng đu đưa trong gió.
“Liên Hoa Dạ, nơi này tuyệt đấy chứ?”, Na Thuận cầm chén rượu, vô cùng thoải mái.
“Rất tuyệt”, Liên Hoa Dạ nói: “Rất yên tĩnh, rất an bình, là hơi thở của sự sống”.
“Chúng ta ở đây một thời gian được không?”, Na Thuận mặt tươi như hoa: “Nếu như nàng chán nơi này, ta có thể đưa nàng đi khắp thế gian. Trên Con đường Tơ lụa, khắp nơi đều có dấu chân của người Túc Đặc ta. Chúng ta đến Đại Đường xem ca múa cung đình, đến đại mạc xem cát vàng và mặt trời mọc, đến Tây Đột Quyết xem biển nóng dưới núi băng, xem đàn ngựa hoang trên đại thảo nguyên, đến Ba Tư, đến Bái Chiêm Đình, đến bất cứ nơi nào nàng muốn”.
“Đây là cuộc sống mà thiếp vẫn tha thiết ước mơ.” Anh mắt Liên Hoa Dạ đầy si mê và mong chờ: “Nếu có thể thoát khỏi luân hồi và trời đất này, tự do tự tại, xem hết bãi bể nương dâu”.
“Nhất định sẽ làm được”, Na Thuận khẳng định: “Chẳng phải đã nói chúng ta sẽ mãi mãi bên nhau, như năm tháng ở bên, hơi thở liền kề, đến chết cũng chẳng rời?”.
Liên Hoa Dạ yên lặng rất lâu, ngẩng đầu nhìn hắn: “Na Thuận, thiếp sẵn sàng ngắm nhìn hết thế gian này, nhưng trên con đường thiếp đi sẽ không có chàng”.
Na Thuận kinh hãi, chén rượu rơi xuống đất: “Vì sao?”.
“Bởi vì”, Liên Hoa Dạ bi ai nói: “Có chàng ở bên, thiếp vẫn sẽ còn trong luân hồi. Na Thuận, chàng không biết, từ một ngàn hai trăm năm trước, thiếp chuyển thế luân hồi ba mươi ba kiếp, trong mỗi một kiếp của thiếp đều sẽ có một thiếu niên cầm năm trăm vàng đến tìm thiếp. Kì thực thiếp biết rất rõ, đó chính là người si tình chân thành mà thiếp phải chờ đợi. Bao nhiêu số kiếp, thiếp đã từ chối hắn, tránh mặt hắn, chấp nhận hắn, cùng hắn bỏ đi, lại làm hắn đau lòng tận cùng, khiến hắn tuyệt vọng tự sát, làm bộ cùng hắn như người xa lạ, thiếp đã thử vô vàn cách, nhưng không một lần nào có thể thay đổi vận mệnh. Na Thuận, bất kể chàng và thiếp cố gắng thế nào đều không thế thay đổi quỹ tích của vận mệnh đã định. Cuối cùng thiếp vẫn sẽ trở thành vương hậu, cuối cùng thiếp vẫn sẽ bị một người có đức hạnh, được trọng vọng đánh vỡ đầu, chết dưới tường vương cung”.
“Không, không không!” Na Thuận nắm tay nàng, cuống quýt nói: “Nàng hãy tin ta, chúng ta có thể thay đổi”.
Liên Hoa Dạ rút tay về, cười thê lương: “Na Thuận, chàng biết thiếp căm hận vận mệnh của mình đến mức nào không? Đây là một vòng tròn vận mệnh, ngục tù luân hồi. Vận mệnh lặp lại trong bao nhiêu số kiếp đã chồng chéo lên nhau trong ký ức của thiếp, thiếp sợ hãi nó đến cực hạn, để hủy diệt vòng luân hồi này, thiếp sẵn sàng trả bất cứ giá nào”.
“Nàng muốn làm gì?”, Na Thuận hoảng sợ nói.
“Thiếp muốn đi đến đại thảo nguyên”, Liên Hoa Dạ cười xinh đẹp: “Không biết trên thảo nguyên có nước hồ, có hoa sen xanh nở rộ hay không. Thiếp sẽ ngồi trên hoa sen xanh, dùng dao sắc cắt cổ họng, cắt cổ tay, để cho máu của thiếp chảy xuống hòa cùng nước hồ, hi vọng khi đóa hoa sen xanh này nở ra lần nữa, nó sẽ mang một màu sắc khác”.
“Nàng muốn tự vẫn?”, Na Thuận khiếp sợ.
“Ngoài cách này, không còn cách nào khác phá vỡ được ngục tù luân hồi đó!” Liên Hoa Dạ nhìn vị thần vô hình trong bóng đêm sâu thẳm, cười lạnh lùng: “Số kiếp đã an bài thiếp phải chết dưới chân tường, thiếp lại muốn chết trên cỏ xanh, dưới trời xanh. Đã định trước thiếp bị đánh vỡ đầu, thiếp lại muốn tự mình cắt đứt cổ họng. Thiếp không thể nắm giữ được người khác, nhưng thiếp có thể nắm giữ số mệnh của chính mình!”.
“Không!”, Na Thuận vừa lăn vừa bò lao tới ôm chặt lấy nàng: “Ta không cho nàng chết! Chúng ta phải sống cùng nhau, chúng ta sẽ cùng đón lấy vòng luân hồi này… Chúng ta… chúng ta sẽ tìm biện pháp khác phá vỡ nó”.
“Không thể phá nổi”, Liên Hoa Dạ rơi lệ: “Vòng luân hồi này thiếp đã phá giải mấy chục kiếp. Nếu nói thiếp là tù nhân trong ngục tù này, vậy thì thiếp đã vượt ngục mấy chục lần, lại chưa từng thành công, dù chỉ một lần. Có lúc mơ thấy một giấc mộng rất đẹp, rất dài, vừa tỉnh giấc lại phát hiện mình vẫn còn ở trong ngục. Na Thuận, chỉ cần thiếp chết đi, ngục tù này sẽ tan thành mây khói. Nếu có kiếp sau, thiếp hi vọng có thể xóa sạch hết trí nhớ, được gặp lại chàng, thiếp sẽ ở bên chàng suốt đời suốt kiếp”.
“Không! Ta không cần kiếp sau, ta chỉ cần kiếp này!” Na Thuận ôm nàng khóc nức nở: “Kiếp sau ta sợ không tìm được nàng…”.
Liên Hoa Dạ lấy dao găm ra cắt đứt một lọn tóc của mình, buộc vào bím tóc của Na Thuận. Nàng vuốt ve khuôn mặt Na Thuận, nói dịu dàng: “Cắt tóc như cắt tình, cắt duyên, cắt sinh tử. Kiếp này chúng ta không thể kết tóc, kiếp sau hãy cầm nó đến tìm thiếp!”.
Liên Hoa Dạ đứng lên, xoay người đi. Na Thuận đau khổ gần như phát điên, điên cuồng hét lên: “Không, ta không cho nàng đi!”.
Na Thuận lao tới ôm lấy Liên Hoa Dạ, hai người cùng ngã xuống đất. Na Thuận hai mắt đỏ rực, vẻ mặt dữ tợn, không ngừng hét lên: “Nàng là của ta!”.
Hắn ngồi trên người Liên Hoa Dạ, điên cuồng xé rách quần áo của nàng. Liên Hoa Dạ sợ tới ngẩn người, một hồi lâu mới bừng tỉnh, ra sức vùng vẫy. Na Thuận lại không cho nàng cơ hội vùng vẫy, dùng áo trói hai tay nàng lại. Chỉ chốc lát sau, áo ngoài và áo lót của Liên Hoa Dạ đã bị xé rách, gần như toàn thân trần trụi.
“Na Thuận!”, Liên Hoa Dạ cầu khẩn: “Đừng làm thế, chàng sẽ làm hại thiếp”.
Na Thuận không đáp, gần như đã phát điên. Dưới ánh trăng, thân thể của Liên Hoa Dạ lộng lẫy lấp lánh như ngà voi, hoàn mĩ không tì vết. Sự giãy giụa vùng vẫy trong vô lực của nàng càng kích thích Na Thuận phát cuồng, hắn gầm lên một tiếng, hoàn toàn đánh mất lí trí, nằm đè lên trên người Liên Hoa Dạ.
“Na Thuận!”, Liên Hoa Dạ cuống cuồng hét lên: “Chúng ta sẽ vĩnh viễn rơi vào luân hồi!”.
Na Thuận ngẩng đầu lên, trong điên cuồng lại có một chút thẫn thờ, dường như nghe không hiểu. Liên Hoa Dạ đột nhiên nhìn thấy nước mắt trên mặt hắn. Nàng thở dài một tiếng, không còn vùng vẫy nữa, ngẩng đầu nhìn không trung, nước mắt rơi không dứt.
Nửa đêm, Huyền Trang bừng tỉnh giấc. Ngài không dám cưỡi ngựa, vội chạy đến đó, nhìn đôi nam nữ si tình trong tuyệt vọng này, không hề ngăn cản, chỉ im lặng chắp tay thở dài. Theo ngài, giữa hai người xảy ra chuyện lớn thế nào cũng không phải vấn đề, chỉ cần họ không bị bàn tay kia thao túng, ngài sẽ không cần xuất hiện, quấy nhiễu cuộc sống của hai người họ.
Bên hồ nổi gió, sau đó mưa bắt đầu rơi. Mặt đất cổ xưa bao phủ trong tiếng mưa gió. Huyền Trang run rẩy ngồi trong mưa, đèn trong lều bên hồ đã tắt, trong màn đêm, đột nhiên vang lên tiếng gào khóc như xé rách tim gan của Na Thuận. Hắn trần truồng chạy ra khỏi lều, điên cuồng đấm vào đầu mình như một con dã thú tuyệt vọng.
Trong lều, Liên Hoa Dạ vùng vẫy ngồi dậy, nhặt quần áo bừa bộn dưới đất lên khoác vào người, ngồi ngơ ngác một hồi rồi đi tới ôm lấy Na Thuận. Na Thuận ôm nàng, vừa khóc vừa nói: “Xin lỗi, xin lỗi! Ta không muốn có được nàng như vậy! Nhưng ta thật sự không muốn mất nàng…”.
“Thiếp biết!” Liên Hoa Dạ lắc đầu, nghẹn ngào: “Thiếp không oán hận chàng. Cảnh này vốn đã khắc trong luân hồi, muốn tránh cũng không tránh được. Nếu chàng muốn thì đành vậy thôi!”.
Na Thuận vùi đầu vào ngực nàng: “Liên Hoa Dạ, chúng ta hãy cùng nhau đối mặt! Đập vỡ nó, thoát khỏi nó! Chúng ta nhất định có thể làm được!”.
Liên Hoa Dạ cứ thế im lặng ôm hắn, chàng thiếu niên kém nàng bảy tuổi này đột nhiên khiến nàng có cảm giác ấm áp và được dựa dẫm. Một ngàn hai trăm năm qua, nàng đau khổ vùng vẫy trong sự an bài của số mệnh, lẻ loi cô độc, một thân một mình, như một con kiến bị bàn tay trên trời thao túng, dù đang ở sâu trong tổ kiến, ở giữa hàng vạn con kiến cũng không có cảm giác an toàn và được dựa dẫm. Nhưng lúc này nàng có một bờ vai để dựa vào, cùng kề vai chiến đấu.
“Vô ích thôi. Sau khi bị chàng cưỡng bức, tên Đề Bà Đạt Đa sau này đến giết chết thiếp sẽ nhanh chóng xuất hiện.” Cuối cùng Liên Hoa Dạ thở dài, dịu dàng nhìn hắn: “Trong màn kịch tiếp theo, không biết thiếp sẽ trở thành vương hậu của ai”.
“Màn kịch tiếp theo cứ để lão hòa thượng bố trí cho các ngươi!”
Đột nhiên trên mặt hồ có âm thanh xa xăm vọng đến.
Hai người sửng sốt, thấy trên mặt hồ yên tĩnh không biết từ khi nào có một chiếc thuyền nhỏ đến gần. Hai tịnh nhân cầm mái chèo, Sa Bà Mị mỉm cười đứng ở mũi thuyền. Lúc này mưa gió đã dừng, mặt trăng lộ ra chiếu sáng mặt đất, ánh trăng phản chiếu từ mặt hồ hắt vào người ông ta, tựa như Bồ Tát trong trăng.
Chiếc thuyền lặng lẽ lướt trên mặt nước, dừng lại bên bờ. Sa Bà Mị rời khỏi thuyền, nhẹ nhàng vỗ tay: “Hai vị, đã lâu không gặp”.
“Tại sao ngươi biết bọn ta ở đây?”, Na Thuận sầm mặt hỏi.
“Lão hòa thượng có thiên nhãn thông, không gì không biết, không gì không hiểu”, Sa Bà Mị nói.
“Ngươi tới làm gì?”, Na Thuận hỏi.
“Dẫn các ngươi vào sâu trong vận mệnh”, Sa Bà Mị nói.
“Không đi!” Na Thuận quả quyết nói.
Sa Bà Mị lắc đầu thở dài: “Đây là sứ mệnh kiếp này của các ngươi, các ngươi không đi cũng không được”.
Na Thuận cười lạnh một tiếng, rút trường đao trên lưng ngựa dưới gốc cây ra: “Tôn giả, ta muốn đi đâu, e rằng ngươi cũng không giữ nổi”.
“Bắt lấy chúng”, Sa Bà Mị thản nhiên nói.
Hai tịnh nhân không nói một lời, rút đao cong trên người ra lao tới. Na Thuận bảo vệ Liên Hoa Dạ sau lưng, vung đao tiến lên đánh lại tịnh nhân. Na Thuận mặc dù còn trẻ, nhưng đời này đã đi qua hàng trăm quốc gia, không ngừng chém giết, hung hãn vô cùng. Ánh đao sắc bén tùy ý tung hoành, mỗi một chiêu đều lấy đao đổi đao, lấy mạng đối mạng. Hai tịnh nhân không dám hại hắn mất mạng, không ngờ lại bị hắn đánh cho liên tục phải lui về sau, hết sức thảm hại.
Sa Bà Mị lắc đầu: “Lui ra đi”.
Hai tịnh nhân nhanh chóng lui lại, Na Thuận giơ trường đao chỉ Sa Bà Mị, cười lạnh nói: “Nếu không phải nể mặt ngươi là cao tăng, hôm nay ta sẽ chém chết ngươi”.
“Thật sao?” Sa Bà Mị nhìn hắn, lẩm bẩm niệm một câu chú ngữ cổ xưa, Na Thuận nghe bên tai dường như có sấm đổ đinh tai, núi non sụp đổ, trong đầu chấn động, ánh mắt cũng trở nên đờ đẫn.
“Buông đao xuống”, Sa Bà Mị nói.
Na Thuận ngơ ngác buông đao xuống.
“Lại đây”, Sa Bà Mị nói.
Na Thuận đi tới trước mặt hắn, mặt không biểu cảm.
“Quỳ xuống!”, Sa Bà Mị nói lạnh nhạt.
Na Thuận quỳ hai gối xuống đất. Thấy Na Thuận như con rối để mặc Sa Bà Mị khống chế, toàn thân Liên Hoa Dạ run lên, xông tới ôm lấy hắn: “Na Thuận, Na Thuận, chàng làm sao thế này? Sa Bà Mị, ngươi đã làm gì Na Thuận?”.
Sa Bà Mị không nói, giơ ngón trỏ nhẹ nhàng chạm vào trán Na Thuận: “Ngủ đi, đến lúc ta gọi mới được tỉnh lại”.
Na Thuận mắt nhắm lại, người mềm rũ ra, không ngờ lại ngủ khò khò trong lòng Liên Hoa Dạ.
Liên Hoa Dạ hét lên: “Ngươi rốt cuộc đã làm gi chàng?”.
Sa Bà Mị nhìn nàng, cũng nhẹ nhàng chạm vào trán nàng: “Ngươi cũng ngủ đi. Lúc tỉnh lại, các ngươi đã đến chỗ sâu của vận mệnh, thấy được luân hồi”.
“Không…” Cơn buồn ngủ tràn đến, Liên Hoa Dạ liều mạng kháng cự, ôm Na Thuận không muốn buông tay: “Ta không thể ngủ… Ta không thể đế mất chàng… Không tìm được ta… Chàng sẽ đau lòng…”.
Nhưng cuối cùng không thể chống được cơn buồn ngủ vô tận, Liên Hoa Dạ từ từ nhắm mắt lại, ngã xuống đất, tay vẫn còn nắm chặt tay Na Thuận. Đến lúc ánh sáng trong đầu biến mất, chìm vào tối tăm vô biên vô hạn, nàng dường như nghe thấy một câu: “Lò nhân gian đại dược này ta đã dưỡng luyện hàng chục năm, đến lúc thu hoạch há lại để các ngươi đi mất?”.
Huyền Trang đứng sau gốc cây im lặng nhìn, mấy lần muốn đi ra nhưng lại không hành động khinh suất. Ngài vẫn hoài nghi Sa Bà Mị chính là bàn tay sau màn khống chế vận mệnh, nhưng lại không thể suy đoán được mục đích của ông ta, thủ đoạn của Sa Bà Mị cũng còn xa mới phá giải được.
Huyền Trang quay về dắt ngựa của mình đến, lúc này Sa Bà Mị đã đưa Liên Hoa Dạ với Na Thuận lên thuyền, hai tịnh nhân chèo thuyền đi vào giữa hồ nước. Huyền Trang tháo dây buộc ngựa của Na Thuận phóng sinh cho nó, sau đó men bờ hồ bám theo.
Đến tận khi trời sáng, Huyền Trang mới sang đến bờ bên kia hồ nước, phát hiện chiếc thuyền Sa Bà Mị bỏ lại.
Bên cạnh có vết bánh xe, xem ra ông ta đã cho hai người lên xe ngựa. Đêm qua có mưa, vết bánh xe rất sâu, đi thẳng về phía đông. Huyền Trang cưỡi ngựa bám theo nửa ngày, đến giữa trưa mới nhìn thấy chiếc xe ở xa xa. Sa Bà Mị có lẽ đang ngồi trong xe, xung quanh có bốn gã tịnh nhân thúc ngựa bảo vệ, tiếp tục đi về phía đông, sau khi đi qua mấy thành thị không ngờ lại quay về thành Khúc Nữ.
Huyền Trang theo bọn họ vào thành, nhưng Sa Bà Mị chỉ ở trong thành một ngày rồi tiếp tục đi về phía đông, lần này đi một mạch bảy tám ngày, không ngờ lại đi tới thành Vương Xá!
Thành Vương Xá là vương thành của Ma Yết Đà, từng là thánh địa Phật giáo, Phật Đà đã giảng kinh thuyết pháp ở thành này một thời gian dài. Tịnh xá trong rừng trúc Phật Đà từng nằm cách thành một dặm về phía bắc, còn cách thành năm dặm về phía tây bắc chính là thánh địa Thất Diệp Quật, nơi lần đầu tiên tập hợp thành kinh Phật. Cách thành mười lăm dặm về phía đông bắc chính là núi Linh Thứu nổi tiếng khắp nơi, đời sau gọi là Linh Sơn.
Còn từ thành Vương Xá đi lên bắc ba mươi dặm là chùa Na Lan Đà mà Huyền Trang đã ở mười năm. Thực ra có hai tòa thành Vương Xá, một thành cũ và một thành mới. Thời đại Phật Đà một ngàn hai trăm năm trước, thành Vương Xá cũ từng bị hỏa hoạn, quốc vương A Xà Thế của Ma Yết Đà lại xây một tòa mới cách thành cũ tám dặm về phía bắc. Cho tới bây giờ hai tòa thành này đều đã bị bỏ hoang, cư dân trong thành rất ít, tường thành đổ nát.
Còn điểm đến của Sa Bà Mị lần này chính là núi Tỳ Bố La[158] (Vipula) ở phía tây bắc thành Vương Xá cũ. Ngọn núi này chính là thánh địa tu hành trong thời Phật Đà, trong núi có năm trăm suối nước nóng, nghe đồn những dòng suối nước nóng này bắt nguồn từ núi tuyết ở phía bắc, tách thành năm trăm nhánh, chảy qua năm trăm địa ngục sắt nóng, lửa địa ngục bốc hơi khiến nước suối nóng lên. Năm đó Phật Đà thường xuyên tắm ở đây, có điều bây giờ chỉ còn lại vài chục dòng suối, nhưng người Thiên Trúc các nơi vẫn tin suối nước nóng này có thể trị được bách bệnh, nên vẫn vượt hàng ngàn dặm tới đây tắm gội.
Sa Bà Mị đến cửa núi Tỳ Bố La thì đánh xe đi thẳng vào. Huyền Trang định bí mật bám theo, nhưng lại thấy khu vực suối nước nóng này đã bị quân đội phong tỏa. Cánh quân này có hàng ngàn người, bao vây toàn bộ khu vực suối nước nóng vô cùng chặt chẽ. Tất cả binh lính đều trang bị trọng giáp trường cung, tay cầm trường mâu, hông đeo đao cong gập xuống, không ngờ lại là cấm vệ sát đế lợi tinh nhuệ nhất của Thiên Trúc!
Sau khi nghe ngóng, Huyền Trang mới biết Giới Nhật Vương đã từ thành Khúc Nữ đến thành Vương Xá. Huyền Trang hết sức lo lắng, Sa Bà Mị nửa đường bắt đi Na Thuận và Liên Hoa Dạ, đưa tới gặp Giới Nhật Vương, rốt cuộc có mục đích gì?
Ngài đã ngày càng đến gần chân tướng, nhưng chân tướng này lại khiến ngài ngày càng sợ hãi. Tuy Huyền Trang đã thiền tu hàng chục năm, tâm như đá tảng, giếng cạn, lúc này tinh thần cũng không khỏi dao động.
Ngài sợ kinh động Sa Bà Mị, cũng không dám lộ rõ thân phận tới gặp Giới Nhật Vương, vội vàng rời khỏi núi Tỳ Bố La, quay về chùa Na Lan Đà hỏi thăm tin tức.
°°°
“Ta không sợ gì cả!”
Trong hành cung tại suối nước nóng núi Tỳ Bố La, bóng đêm bao trùm tẩm cung, mọi âm thanh đều biến mất. Giới Nhật Vương lại hét lên một tiếng, đột nhiên từ trên bật dậy. Ông ta rút đao cong treo trên đầu giường ra, điên cuồng chém trong tẩm cung trang hoàng đầy minh châu và mĩ ngọc. Đám nội thị vội vã chạy vào, lập tức sợ đến mất hồn mất vía, bởi vì Giới Nhật Vương vừa chạy vừa chém trong tẩm cung, lại nhắm chặt hai mắt.
Đám nội thị gọi cấm vệ đến, những cấm vệ này cũng sợ hãi, quốc vương cầm đao đến chém lại không dám phản kháng. Thống lĩnh cấm vệ nghĩ ra một biện pháp, mọi người dùng khiên xếp thành một vòng bao vây Giới Nhật Vương lại, không để ông ta xông bừa làm chính mình bị thương, quan trọng hơn là không để quốc vương chém chết bọn họ, như vậy thì quá oan uổng.
Thế là cả trăm tên cấm vệ xếp thành một vòng, giơ lá chắn để mặc Giới Nhật Vương chém lung tung. Trong lúc hỗn loạn, Bà Ni đi đến, hạ lệnh tước đao cong của Giới Nhật Vương, cũng không dám dùng dây trói, cuối cùng dùng mấy tấm da lông cuốn quanh người, Giới Nhật Vương mới thôi không còn vùng vẫy, chìm vào giấc ngủ say.
Bà Ni trông coi bên giường, đến tận lúc trời đã sáng rõ, Giới Nhật Vương mới mệt mỏi tỉnh lại. Nhìn thấy Bà Ni, Giới Nhật Vương lập tức ngẩn ra. Bà Ni kể lại chuyện đêm qua ông ta mộng du, vung đao chém loạn, sắc mặt Giới Nhật Vương rất khó coi.
Một hồi lâu sau Giới Nhật Vương mới thở dài: “Ta lại mơ thấy Vương Tăng”.
Bà Ni buồn bã gật đầu: “Thần biết. Có điều thưa bệ hạ, khi đó liên thủ với quốc vương Thiết Thưởng Già giết chết Vương Tăng là lão thần đích thân động thủ, ngài có thể đẩy việc này sang người thần, không cần quá mức áy náy”.
Giới Nhật Vương cười khổ, không nói gì, ngơ ngác nhìn ánh nắng ngoài cửa sổ.
“Đều tại tên Huyền Trang đó!”, Bà Ni căm hận nói: “Không bằng lão thần hạ lệnh giết chết hắn, việc này sẽ không có người biết nữa!”.
“Ngươi muốn để Đại Thừa Thiên của Phật môn chết trong tay ta?”, Giới Nhật Vương hỏi.
“Đương nhiên là không, thần có thể tìm thời gian với địa điểm thích hợp, bảo đảm hắn chết rất tự nhiên, không có người nào phát hiện được”, Bà Ni hung tợn nói.
“Đại sư Huyền Trang đã nói một câu, nhổ đi cái gai trong lòng, sẽ không còn đau nữa sao?”, Giới Nhật Vương lẩm bẩm nói: “Vết thương sẽ chưa từng tồn tại sao? Sau khi ta trăm tuổi nhìn thấy Vương Tăng có thể thản nhiên đối mặt sao?”.
“Bệ hạ, ngài cần gì để ý đến chuyện sau khi chết”, Bà Ni an ủi: “Ngài còn cường thịnh, cần gì hành hạ chính minh?”.
“Ta đã năm mươi mốt tuổi, sớm đã không còn cường thịnh nữa”, Giới Nhật Vương đau lòng đánh giá bản thân: “Mấy năm nay sức khỏe ta ngày càng sa sút, thậm chí có lúc có thể ngửi thấy mùi hôi thối từ trong túi da phát ra. Chắc hẳn ngày nhìn thấy Vương Tăng không còn xa nữa!”.
“Bệ hạ đừng bi quan như thế!”, Bà Ni nước mắt rưng rưng.
“Sa Bà Mị về chưa?”, Giới Nhật Vương hít sâu một hơi, hỏi.
“Đêm khuya hôm qua về rồi”, Bà Ni nói: “Ông ta tới quá muộn, thần không quấy nhiễu bệ hạ nghỉ ngơi”.
“Đi mời ông ta đến đây!”, Giới Nhật Vương phấn chấn tinh thần: “Ông ta đồng ý đi lấy thuốc cho ta, bây giờ về, chắc hẳn nhân gian đại dược đã tìm được rồi”.
Bà Ni thầm than trong lòng, đi mời Sa Bà Mị tới.
Giới Nhật Vương sai người dọn dẹp tẩm cung, tiếp kiến Sa Bà Mị trong chòi bên cạnh một dòng suối nước nóng. Chòi nghỉ này được làm bằng lá cọ, gió sớm thổi tới rất mát mẻ. Giới Nhật Vương sai người mang thảm ngồi tới, mấy ngày nay Sa Bà Mị bôn tẩu mấy trăm dặm, vẻ mặt có chút uể oải, nhưng tinh thần lại rất sung mãn, sau khi mỉm cười hành lễ, ba người ngồi dưới đất.
“Tôn giả lần trước từng đáp ứng sẽ câu được nhân gian đại dược cho ta”, Giới Nhật Vương đi thẳng vào vấn đề: “Bây giờ thuốc này ở nơi nào?”.
“Đã ở trong cung của bệ hạ” Sa Bà Mị nói.
“Sao?”, Giới Nhật Vương cực kỳ vui mừng: “Thuốc này có thể chữa được căn bệnh nan y trong lòng ta?”.
“Không biết trong lòng bệ hạ có căn bệnh nan y gì?”, Sa Bà Mị hỏi.
Giới Nhật Vương trầm ngâm rất lâu, than thở: “Từ khi ta lên ngôi tới nay, giết chóc rất nhiều, còn làm những chuyện đi ngược lại thiên đạo lương tri. Bây giờ ta tuổi tác đã cao, mỗi ngày mỗi đêm đều nhớ về chuyện cũ, khó mà yên tâm được. Đây xem như ác nghiệp ta đã làm. Như vậy nhân gian đại dược ta cầu này có thể xóa được những ác nghiệp đó không?”.
Sa Bà Mị suy nghĩ một lát, nói: “Bản thân mỗi người đều có nghiệp chướng, cho dù là Bồ Tát cũng phải xóa bỏ nghiệp chướng của bản thân mới tu thành chính quả. Nghiệp chướng đến từ chính mình, không thể dựa vào người khác xóa đi giúp ngài. Bệ hạ muốn tìm thuốc chữa, sợ rằng trên đời không có loại thuốc này”.
Giới Nhật Vương rất thất vọng, im lặng không nói.
“Không xóa được, vậy nên hóa giải thế nào?”, Bà Ni hỏi.
“Không xóa được thì không cần xóa”, Sa Bà Mị nói.
Giới Nhật Vương rất không vui, nói: “Lần trước ngài đáp ứng ta, cầu được nhân gian đại dược có thể giúp ta giải thoát, bây giờ lại trả lời ta như vậy à?”.
“Bệ hạ, không xóa được không có nghĩa là không thế hóa giải”, Sa Bà Mị cười tủm tỉm: “Điều bệ hạ lo sợ chỉ là đến ngày nào đó về trời, làm sao đối mặt với oan hồn chết trong tay mình, làm sao đối phó với những phán xét dưới ngục Nê Lê. Việc này lại cũng đơn giản”.
“Sao?” Giới Nhật Vương thật sự kích động, ông ta sợ nhất chính là việc này, vội vàng nói: “Xin tôn giả chỉ giáo!”.
“Nhân gian đại dược mà lão hòa thượng cầu được không thể xóa bỏ nghiệp chướng, nhưng có thể khiến ngài trường sinh bất tử!” Sa Bà Mị mỉm cười nhìn ông ta, ánh mắt đầy dụ dỗ: “Đây là một cây thuốc trường sinh!”.
Giới Nhật Vương và Bà Ni đều trợn mắt há mồm, cực kỳ kinh hãi. Hòa thượng này chẳng lẽ bị điên rồi?
“Làm… làm gì có chuyện đó?”, Giới Nhật Vương hoài nghi.
“Bệ hạ xem lão hòa thượng, bây giờ lão hòa thượng đã hai trăm tuổi, có thể sống bao lâu nữa, chính mình cũng không biết được” Sa Bà Mị nói: “Lão hòa thượng có thể trường sinh, bệ hạ vì sao không thể?”.
“Nhân gian đại dược đó ở đâu?”, Giới Nhật Vương đập bàn đứng lên: “Nếu ta có thể không chết thì có gì phải sợ hãi?”.
Sa Bà Mị cười, vỗ vỗ tay, ngoài cửa có tịnh nhân chờ sẵn, lập tức đưa Na Thuận và Liên Hoa Dạ vào. Hai người hôn mê suốt dọc đường, đến tận thành Vương Xá mới tỉnh lại, mới nghỉ ngơi được một đêm liền bị dẫn tới trước mặt Giới Nhật Vương.
Nhìn thấy hai người bọn họ, Giới Nhật Vương không nhịn được hỏi: “Đây… Đây chẳng phải Na Thuận và Liên Hoa Dạ sao? Thuốc ở đâu?”.
“Hai người họ chính là nhân gian đại dược có thể trường sinh.”
°°°
Lúc trời đã sáng rõ, Huyền Trang vội vàng quay về chùa Na Lan Đà cách đó ba mươi dặm.
Chùa Na Lan Đà là thánh địa của Phật giáo Thiên Trúc, đó không chỉ là một ngôi chùa mà là một quần thể kiến trúc chùa chiền huy hoàng rộng lớn. Ban đầu ở thời đại Phật Đà, từng có năm trăm thương nhân mua một khu rừng ở đây bố thí cho Phật Đà. Phật Đà liền giảng Phật pháp ở đây ba tháng. Sau khi Phật Đà niết bàn, quốc vương Đế Nhật cho xây chùa Na Lan Đà ở trong rừng, các nhi tử của ông ta là quốc vương Giác Hộ lại xây chùa ở phía nam, quốc vương Như Lai xây chùa ở phía đông, quốc vương Ấu Nhật xây chùa ở phía đông bắc, quốc vương Kim Cương xây chùa ở phía tây, quốc vương Trung Ấn Độ lại xây chùa ở phía bắc. Các ngôi chùa được xây nối tiếp nhau thành một vùng, sau đó xây tường thành xung quanh, bao sáu ngôi chùa lại tạo thành một tòa thành vuông vắn, tường thành cao tới ba bốn trượng, sáu ngôi chùa có chung một cửa, được gọi chung là chùa Na Lan Đà.
Huyền Trang đến ở tại chùa Na Lan Đà, dù đã sống ở đây mười năm, đã quen mỗi người mỗi vật, từng gốc cây từng ngọn cỏ nhưng vẫn cảm thấy chấn động. Chùa Na Lan Đà có ba tầng, cao bốn trượng, trên đài có lầu, trên lầu có tháp, tầng tầng lớp lớp, hùng vĩ vô cùng.
Nhà cửa và tháp cao đều xây bằng gạch, vật liệu xây dựng nóc nhà, mái hiên, lát nền lại khá đặc biệt, dùng gạch vỡ trộn với đất sét, vôi, sợi gai, trước khi khô hẳn còn phải dùng hoạt thạch (talc) đánh bóng, mặt ngoài quét son, cả chùa bóng loáng như gương, lấp lánh huy hoàng dưới ánh mặt trời.
Tăng lữ các phái thường ở chùa Na Lan Đà có hơn một vạn người, Huyền Trang trở về chùa chính là một đại sự, lập tức có tăng nhân báo cho đại sư Giới Hiền. Đại sư Giới Hiền gọi Huyền Trang đến thiền viện của mình, nhìn dáng vẻ phong trần mệt mỏi của Huyền Trang, ông ta hết sức vui mừng: “Đề Bà Nô, ta nghe nói con định ở lại thành Khúc Nữ thêm một thời gian, vì sao lúc này lại về?”.
Sự sùng kính đối với sư tôn của Huyền Trang phát ra từ đáy lòng, ngài kể lại toàn bộ chuyện mình muốn cứu Na Thuận và Liên Hoa Dạ, bám theo Sa Bà Mị đi tới thành Vương Xá.
“Sư phụ, Sa Bà Mị xuất thân từ chùa Na Lan Đà, rốt cuộc ông ta có lai lịch thế nào? Vì sao lại muốn làm như vậy?”, Huyền Trang hỏi.
Đại sư Giới Hiền yên lặng không đáp, thở dài một tiếng: “Đề Bà Nô, con đừng nên đi tìm hiểu bí mật của Sa Bà Mị. Cứ để cho chuyện này trôi qua đi”.
“Sư phụ”, Huyền Trang lại lắc đầu: “Nếu chỉ là vì tò mò, đệ tử đương nhiên nghe lời dạy của sư phụ. Nhưng tất cả những việc làm của Sa Bà Mị là giăng bẫy nhằm vào đệ tử, đệ tử không thể không tra rõ đến cùng”.
“Sao?”, đại sư Giới Hiền ngạc nhiên: “Vì sao lại nói như vậy?”.
Huyền Trang hít sâu một hơi: “Bởi vì đệ tử đã trúng bẫy của ông ta. Hôm đó Liên Hoa Dạ ở trong vương cung Càn Đà La hóa thành khói trắng biến mất, mặc dù đệ tử vẫn chưa tra rõ thủ đoạn thế nào, nhưng đó chắc chắn là do Sa Bà Mị làm. Ông ta giăng cái bẫy này không phải để mưu tính người khác mà nhằm vào đệ tử”.
“Ông ta nhằm vào con?”, đại sư Giới Hiền không hiểu: “Vì sao lại nói là ông ta nhằm vào con?”.
“Bởi vì ông ta biết đệ tử chắc chắn sẽ truy tìm tung tích của Liên Hoa Dạ, tất không thể tránh khỏi việc điều tra bí ẩn kiếp trước kiếp này của Liên Hoa Dạ. Khi đã truy tới nguồn gốc mọi việc, dù đệ tử làm thế nào, cuối cùng vẫn phải vạch trần tội giết hại huynh trưởng của Giới Nhật Vương!” Huyền Trang kể lại chuyện mình suy luận ra Giới Nhật Vương mưu hại huynh trưởng, đại sư Giới Hiền nghe xong thì hoảng sợ tột cùng.
“Vì thế, sư phụ, đây chính là mục đích của Sa Bà Mị. Ông ta muốn mượn tay đệ tử vạch trần chuyện này”, Huyền Trang nói: “May mà đệ tử không làm Giới Nhật Vương động sát cơ, may mắn sống đến bây giờ”.
Đại sư Giới Hiền đương nhiên biết việc nắm giữ bí mật của Giới Nhật Vương có ý nghĩa gì, một hồi lâu mới nói: “Vì sao ông ta muốn vạch trần chuyện này?”.
“Đệ tử còn chưa điều tra được”, Huyền Trang lắc đầu: “Nhưng ông ta mất nhiều công sức giăng cái bẫy này chắc chắn phải có mục đích sâu xa hơn, cho nên đệ tử mới bám theo Na Thuận và Liên Hoa Dạ, muốn tìm ra ý đồ thật sự của ông ta. Bây giờ Liên Hoa Dạ, Giới Nhật Vương đều xuất hiện tại thành Vương Xá, e rằng Sa Bà Mị cũng đã đến lúc lộ rõ ý đồ, cho nên khẩn xin sư phụ nói rõ, Sa Bà Mị rốt cuộc có bí ẩn gì?”.
Đại sư Giới Hiền yên lặng một hồi lâu, Huyền Trang lẳng lặng chờ. Ngài có thể nhìn ra sự lo lắng và đấu tranh trong lòng sư phụ, lại không hề thúc giục. Yên lặng thời gian một nén hương, đại sư Giới Hiền lảo đảo đứng dậy, đi vào phòng trong.
“Sư phụ…”, Huyền Trang gọi với theo.
“Nửa đêm con đến rừng Am Ma La chờ, tự khắc sẽ thấy được chân tướng.”
°°°
Rừng Am Ma La ở ngoài cửa chùa Na Lan Đà, trong rừng có một hồ nước, nghe nói trong hồ có rồng, rồng tên là Na Lan Đà. Đây là một trong những nguồn gốc của tên chùa Na Lan Đà.
Vừa đến đêm, Huyền Trang đã đi vào trong rừng Am Ma La, ở trong rùng sâu chờ đợi. Trăng lên giữa trời, mọi âm thanh trong rừng biến mất, chỉ có tiếng chuông từ Phật tháp trong chùa Na Lan Đà vang vọng trong gió đêm. Huyền Trang khoanh chân ngồi dưới một gốc cây, yên lặng chờ đợi. Mấy năm nay ngài một mình hành tẩu, thứ không thiếu nhất chính là kiên nhẫn.
Màn đêm dần sâu, quả nhiên đến giữa đêm có một bóng người đi tới bên cạnh hồ Long Trì cách đó không xa. Bóng người này toàn thân ẩn trong hắc bào rộng rãi, đội mũ trùm đầu che kín cả đầu và mặt, đi trong rừng giữa đêm khuya như một âm hồn.
Huyền Trang không lên tiếng, yên lặng nhìn. Bóng người nọ đi tới bên hồ Long Trì, lặng im không động.
Không lâu sau lại có hai người từ ngoài rừng đi vào, đều mặc áo bào, đội mũ trùm đầu, im lặng đi tới bên cạnh người đó. Ba người đều không nói gì, cứ thế đứng yên lặng như đang chờ đợi người nào đó.
Huyền Trang cau mày, thời gian từ từ trôi qua, không ngờ lại có đến ba bốn mươi người tới bên cạnh hồ Long Trì, toàn bộ mặc áo bào màu đen, che kín mặt mũi, không nói một lời. Dường như người đã đến đủ, tất cả lẳng lặng xếp thành một hàng dài đi về phía đông nam.
Huyền Trang kinh hãi, những người này rốt cuộc là ai? Không ai muốn để lộ diện mạo, nửa đêm tụ tập trong rừng, rốt cuộc muốn làm gì? Ngài đứng dậy bí mật bám theo.
Những người này cứ thế đi thẳng về phía đông nam, đi lên núi. Đường lên núi gập ghềnh, đám người tựa hồ tất thảy đều quen đường, lầm lũi đi trên vùng núi mênh mông. Sau khi đi mười mấy dặm, Huyền Trang ngày càng kinh ngạc, không ngờ những người này lại lên núi Linh Thứu!
Núi Linh Thứu còn gọi là núi Kỳ Xà Quật, cũng có người gọi là Linh Sơn, nằm cách chùa Na Lan Đà hơn mười dặm về phía đông nam, đỉnh núi cao chót vót giống như một con kền kền, vì vậy có tên là núi Linh Thứu. Kỳ Xà trong tiếng Phạn có nghĩa là kền kền. Bầu trời và sắc núi tôn nhau lên, đậm nhạt rõ ràng. Phật Đà giảng Phật pháp trên núi này một thời gian dài, quốc vương Tân Bà Sa La từng phái rất nhiều thợ thuyền mở đường từ chân núi đến đỉnh núi, xếp đá làm bậc, bậc đá rộng hơn mười bước, dài năm sáu dặm, hơn nữa còn xây một tòa tịnh xá ở vách núi phía tây đỉnh núi cho Phật Đà ở. Huyền Trang đã đến đây rất nhiều lần để bái lạy Phật tích, biết rất rõ ngọn núi này. Nhưng bây giờ núi Linh Thứu đã bị bỏ hoang từ lâu, những người này đến đây lúc nửa đêm làm gì?
Những người thần bí này im lặng đi lên bậc đá, trèo lên đỉnh núi. Đêm nay có trăng, bậc đá được xây dựng từ một ngàn hai trăm năm trước mặc dù đã mòn nhưng vẫn còn dễ đi. Huyền Trang lặng lẽ bám theo phía sau, lên đến khu vực bằng phẳng trên đỉnh núi.
Mặt bằng ở đỉnh núi kéo dài theo hướng đông tây, nam bắc khá hẹp, gần vách núi phía tây có một tòa nhà được xây bằng gạch đá, cửa mở về hướng đông, tòa nhà to lớn, hình thù kỳ lạ. Đây chính là tịnh xá mà quốc vương Tân Bà Sa La xây dựng cho Phật Đà một ngàn hai trăm năm trước, Phật Đà đã sống ở đây một thời gian dài. Xung quanh tịnh xá có mấy gian thạch thất, bên cạnh còn có một giếng nước. Khi đó các đệ tử A Nan, Xá Lợi Tử[159] của Phật Đà đều đi theo Phật Đà ở trong những thạch thất này một thời gian dài. Có điều sau một ngàn hai trăm năm, chẳng những Phật giáo suy vi, ngay cả tịnh xá của Phật Đà này cũng đã hoang phế, giếng nước khô cạn dưới ánh trăng cổ xưa trên núi Linh Thứu.
Phía đông tịnh xá có một tảng đá lớn, cao gần một trượng rưỡi, rộng hơn ba mươi bước, có người nói năm đó Đề Bà Đạt Đa đã đứng trên này ném đá ám sát Phật Đà. Đương nhiên cách nói phổ biến hơn là dùng máy bắn đá bắn từ đỉnh núi đối diện qua. Huyền Trang nấp sau tảng đá lớn ở phía đông tịnh xá, chăm chú quan sát.
Những người áo đen nối nhau đi vào tịnh xá. Trong tịnh xá thờ tượng Như Lai giảng Phật pháp, những người thần bí đứng trước tượng Phật, cùng chắp tay khom người, miệng tụng kinh bằng tiếng Phạn vang vọng núi Linh Thứu.
Huyền Trang kinh hãi, chẳng lẽ những người này đều là tăng lữ chùa Na Lan Đà? Chắc là như thế, nếu không đại sư Giới Hiền cũng không thể nắm rõ hành tung của họ như vậy. Nhưng những người này đến đây thờ cúng tượng Phật, vì sao lại phải làm ra vẻ thần bí như thế?
Lúc này một người áo đen bước lên khỏi đám người, đứng trước tượng Phật, chậm rãi bỏ áo choàng có mũ trùm đầu ra, để lộ một khuôn mặt già nua mà thần thái. Huyền Trang suýt nữa kêu thành tiếng. Người này rất quen thuộc với ngài, không ngờ đó lại là đệ tử của đại sư Giới Hiền, Ba Pha!
[*] [159] Xá Lợi Phất cũng được gọi là Xá Lợi Tử, là một nhà lãnh đạo tâm linh ở Ấn Độ cổ đại. Ông cùng Mục Kiều Liên là hai đệ tử Tỳ Kheo gương mẫu nhất của Phật Thích Ca Mâu Ni và được xem là người có “đệ nhất trí tuệ” trong Tăng Già thời Phật sinh tiền.
[*] [160] Bà La Ni Tư hay còn gọi là Bối Nã Lặc Tư, tức Vãrãnasĩ, cũng gọi là Benares, Banaras, Benaras, Kashi hay Kasi, là một thành phố thánh và là trung tâm trong suốt hàng ngàn năm của Hindu giáo năm bên bờ sông Hằng ở bang Uttar Pradesh, Ấn Độ.