← Quay lại trang sách

Chương 15 Thiên Trúc là sân khấu, -chúng sinh là khán giả

Nhân duyên giữa Huyền Trang và Ba Pha có thể nói là không gì phá nổi. Ngài có được thành tựu như vậy trong cuộc đời hoàn toàn là nhờ có Ba Pha. Năm Vũ Đức thứ tám, Ba Pha từ Thiên Trúc tới Đại Đường, được Cao Tổ trọng đãi, thuyết giảng kinh điển của chùa Na Lan Đà. Khi đó Huyền Trang hai mươi sáu tuổi từ Triệu Châu đi tới Trường An nghe Ba Pha giảng kinh, từ đó nảy sinh mong ước tột độ đối với chùa Na Lan Đà và đại sư Giới Hiền, vì thế mới lén lút xuất quan, tây du Thiên Trúc.

Có thể nói, gặp được Ba Pha là bước chuyển rực rỡ nhất trong cuộc đời Huyền Trang.

Nhưng sau khi Huyền Trang tới chùa Na Lan Đà lại không hề nhìn thấy Ba Pha, nghe nói ông ta ở lại Đại Đường dịch kinh, không ngờ lại về đây rồi.

“Tôn giả Sa Bà Mị vì sao không đến?”, Ba Pha hỏi.

“Đại sư”, trong đám người có một người chắp tay nói: “Tôn giả đã lấy được nhân gian đại dược mà mình dưỡng luyện, bây giờ đang ở núi Tỳ Bố La cùng với Giới Nhật Vương”.

“Cuối cùng cũng sắp bắt đầu rồi sao?” Ba Pha thở dài, tâm tình dường như có chút kích động: “Ta ở lại Đại Đường mười bảy năm, chính vì việc này mà quay về. Nếu có thể tận mắt chứng kiến, cho dù không được niết bàn cũng không tiếc nuối”.

Mọi người cũng bắt đầu kích động, cảnh tượng trở nên ồn ào. Ba Pha giơ tay lên nhẹ nhàng ra hiệu, lớn giọng hỏi: “Vì sao hai trăm năm qua, Phật giáo ta ngày càng suy yếu? Trong Ngũ Thiên Trúc, Phật giáo tại chùa Na Lan Đà là thịnh vượng nhất, nhưng kể cả chùa Na Lan Đà này, một vạn hai nghìn tín đồ cũng chỉ có bốn ngàn tăng đồ, còn lại tất cả đều là ngoại đạo! Thành Khúc Nữ có một trăm ngôi chùa, xem như phồn hoa, nhưng miếu thờ của ngoại đạo lại có hai trăm tòa! Bà La Ni Tư[160] (Benaras) có ba ngàn tăng đồ, nhưng ngoại đạo lại có hơn một vạn người. Phệ Xá Lị[161] (Vaishali) có ba trăm ngôi chùa, nhưng chỉ có dăm ba ngôi là còn nguyên vẹn, hơn hai trăm ngôi khác đều đã sụp đổ tàn tạ, không có ai ở. Xá Vệ[162] (Shravasti) mấy trăm ngôi chùa đều trống không, hoang phế đổ nát, chỉ có mấy tăng đồ ít ỏi. Càn Đà La mấy trăm ngôi chùa mà không có một tăng chúng! Vì sao hai trăm năm qua, ảnh hưởng của Phật giáo tại Thiên Trúc càng ngày càng yếu, ngoài mấy thành lớn, đa số các khu vực khác đều không nhìn thấy bóng dáng tăng đồ? Vì sao hai trăm năm qua, tín đồ chúng sinh bỏ chúng ta mà đi, sùng bái ngoại đạo? Vì sao? Vì sao? Vì sao?”.

Ba Pha liên tiếp hét to, vẻ mặt kích động. Hơn ba mươi người áo đen bên cạnh cũng giơ cánh tay hô to: “Vì sao? Vì sao? Vì sao?”.

“Sư tôn của ta, đại sư Giới Hiền, khó có thể chối tội!”

Ba Pha quát lên một tiếng long trời lở đất. Tất cả mọi người đều yên lặng. Huyền Trang cách đó xa xa cũng run lên, sắc mặt trở nên nặng nề. Ngài đột nhiên nhớ buổi sáng hôm nay sư phụ mình bỗng lộ vẻ lo lắng và đắng chát, thì ra đại sư Giới Hiền sớm đã biết, trong chùa Na Lan Đà, trong các đệ tử của mình đã tồn tại một lực lượng phản đối ngài.

“Tội lớn nhất của đại sư Giới Hiền chính là kinh viện hóa Phật gia ta, ông ta hạn chế toàn bộ giáo pháp của Phật gia trong kinh viện. Các vị xem chùa Na Lan Đà, trong bảy mươi năm đại sư Giới Hiền làm thủ tọa, ngoài phương diện nhân minh có chút phát triển, mỗi ngày tăng chúng chỉ làm một chút chú thích vụn vặt đối với kinh điển, mỗi ngày chỉ tranh biện vô nghĩa với ngoại đạo. Chúng ta có thể thắng tranh biện, nhưng chúng ta mất cái gì? Là đại lục Thiên Trúc rộng lớn, là hàng ức vạn chúng sinh sa bà! Chúng ta nhìn thấy cái gì? Là Phật giáo tan tác trên diện rộng tại vô số thành thị, thôn làng, chắp tay dâng bách tính và tín đồ cho ngoại đạo, còn chúng ta chỉ rụt đầu trong mấy thành lớn, cả ngày chìm đắm trong chú thích kinh quyển!”

Ba Pha dõng dạc nói, những lời này chẳng những khiến đám người thần bí đồng cảm, ngay cả Huyền Trang cách xa đó cũng phải thở dài. Bởi vì những lời Ba Pha nói quả thực là sự thật. Huyền Trang du ngoạn Thiên Trúc mấy vạn dặm, đi qua hàng chục quốc gia, tận mắt chứng kiến sự tan tác và suy sụp của Phật giáo, bình thường cũng hết sức cảm khái. Nhưng ngài lại không cho rằng là do đại sư Giới Hiền.

“Sư huynh, chúng ta nên làm thế nào?”, một người áo đen trong đó hỏi.

“Rời khỏi kinh viện, trở lại nhân gian, một lần nữa trở lại giữa các chúng sinh sa bà”, Ba Pha nói: “Giải quyết nỗi khổ của chúng sinh, cứu họ trong đời này kiếp này. Dùng phù chú, bí pháp, xem sao, xem quẻ, phép hộ ma, đàn tràng, ấn khế, thư phù đế giải quyết phiền muộn hằng ngày giúp họ, giành được tín ngưỡng của họ. Chỉ làm cho họ kính sợ chúng ta, tôn thờ chúng ta, họ mới có thể quy y Phật pháp. Từ nay chúng ta sẽ tách ra ngoài kinh viện, xưng là bí xã. Sư đệ Sư Tử Âm, mấy năm nay sư đệ nghiên cứu thuật bí pháp, có thể thi triển ra để mọi người xem xem”.

Một người trong đám người thần bí đi ra, bỏ áo choàng xuống, chính là sư huynh Sư Tử Âm của Huyền Trang.

Sư Tử Âm đứng phía trước đám người, không nói gì, đột nhiên niệm một đoạn chú ngữ cổ xưa tối nghĩa. Không khí trong phạm vi ba thước trước mặt ông ta bỗng ngưng kết thành vô số giọt mưa, rơi ào ào xuống đất. Những giọt mưa này tựa hồ như tự nhiên từ trên trời rơi xuống, chỉ chốc lát sau nền nhà đá xanh đã ướt một mảng. Trong đám người vang lên tiếng thán phục.

“Đây là thiên vũ lấy từ Đao Lợi Thiên, dùng đế tắm rửa, bách bệnh đều tiêu”, Sư Tử Âm nói xong lui về trong đám người.

“Còn có vị sư đệ nào muốn thi triển nữa không?”, Ba Pha hỏi.

Lúc này trong đám người lại có một người đi ra, người này không bỏ áo choàng xuống, im lặng đứng ngoài đám người, đưa ngang tay ra, đột nhiên trên bàn tay phát ra ánh sáng rực rỡ, một hư ảnh tượng Phật bỗng dưng xuất hiện.

Đám người lập tức xôn xao. Người đó niệm chú ngữ, hư ảnh tượng Phật bay lên cao, càng ngày càng lớn, cao đến mấy trượng, đứng yên trong hư không. Một lát sau tượng Phật hóa thành vô số điểm sáng tiêu tan giữa đất trời.

“Còn có vị nào muốn thi triển?”

Lúc này trong đám người có một người đi ra, bình tĩnh nói: “Ta không hề tu luyện được bí pháp chú thuật gì, có điều trải qua mấy năm nghiên cứu, ta đã phá giải được bí pháp của đám thầy cúng”.

Mọi người lập tức thấy hứng thú. Theo tập tục nhiều nơi tại Thiên Trúc, khi xây nhà cần diệt trừ các uế vật dưới đất. Sau khi khoanh vùng nền nhà, chủ nhà phải mời thầy cúng tới. Thầy cúng đi một vòng xem xét, chọn một địa điểm đào hố sâu bảy thước, chôn một chiếc vò không xuống dưới hố sâu, bịt kín lại, sau đó lấp đất lên. Sau đó thầy cúng sẽ hướng dẫn đắp pháp đàn cao bảy thước trên chỗ chôn vò. Thầy cúng niệm chú làm phép, diệt trừ những thứ dơ bẩn dưới nền nhà.

Bảy ngày sau cho người đào vò lên, mở nắp ra, bên trong sẽ có một vò nước đen, thường có các loại côn trùng, rắn rết nổi lên trong đó. Đây chính là những thứ dơ bẩn dưới đất bị hút vào trong vò, từ đó nền nhà sẽ được sạch sẽ. Bí pháp này đã lưu truyền hàng ngàn năm, vô số ngoại đạo dựa vào bí pháp này mà được cả thôn trang cung phụng.

“Phá giải thế nào?”, Ba Pha cũng rất hứng thú.

Người đó lấy một chiếc vò nhỏ từ trong áo bào ra, mở nắp cho mọi người xem, bên trong trống rỗng. Hắn lập tức đậy nắp vò, nói: “Ở đây toàn là đá núi, không thể chôn xuống đất, nhưng nguyên lí vẫn giống nhau. Làm phiền một vị sư huynh đặt nó vào trong thạch thất râm mát bên cạnh”.

Sư Tử Âm đi tới, cầm lấy vò đặt vào trong thạch thất bên cạnh. Nửa canh giờ sau, người đó nhờ Sư Tử Âm lấy ra, mở nắp, quả nhiên bên trong là nửa vò nước đen, trong nước đen còn có một số sâu bọ đã chết.

Ba Pha rất hào hứng: “Quả thực là đàn thuật của đám thầy cúng, bọn chúng làm thế nào?”.

“Mời sư huynh xem!” Người kia nói: “Vò vốn không có gì, nhưng trước đó ta đã bôi một loại thuốc vào trong thành vò. Loại thuốc này khô đi, lúc gặp lạnh sẽ làm hơi nước ngưng tụ lại thành giọt nước. Đồng thời lại dán xác các loài rết, bọ cạp, rắn nhỏ được ép mỏng vào thành vò, sau khi trong vò có nước, được ngâm trong chất lỏng, những xác rắn rết này sẽ trương lên, giống như vừa mới chết xong. Đây chính là bí mật của đàn thuật”.

“Thì ra là thế!” Mọi người bừng tỉnh ngộ.

“Sư huynh Ba Pha, ngài du ngoạn Đại Đường hơn mười năm, không biết có bí thuật mới gì?”, có người hỏi.

Ba Pha cười cười: “Ta sẽ thi triển bí thuật mới học được ba năm trước. Bí thuật này là ta dùng bí pháp của thần tiên trao đối với một vị đạo sĩ Đại Đường, vô cùng kỳ lạ”.

Nói xong, ông ta đứng yên một hồi lâu không động. Mọi người không hiểu gì cả, đang định hỏi, đột nhiên trên người Ba Pha phun ra khói trắng. Khói trắng không phải phun ra từ quần áo mà từ lỗ chân lông trên da, chớp mắt sau đã lan khắp toàn thân Ba Pha, bao bọc cả người trong đó.

Mọi người cực kỳ kinh ngạc, Huyền Trang cũng rất kinh hãi, lúc này mới biết bí mật khiến Liên Hoa Dạ biến mất là do Ba Pha học được từ một vị đạo sĩ Đại Đường, sau đó lại truyền cho Sa Bà Mị!

Lúc này trên nền nhà toàn là khói trắng dày đặc, Ba Pha bị khói trắng che kín.

Một hồi lâu sau vẫn không có động tĩnh gi. Mọi người đều cảm thấy kỳ lạ. Sư Tử Âm đi tới: “Sư huynh, đi ra được rồi đấy!”.

Ông ta đưa tay sờ, khói trắng dần tan đi, nhưng Ba Pha đã biến mất.

Đám người lập tức ồn ào, bí pháp này quả thực vô cùng kỳ diệu.

Huyền Trang không nhịn được từ sau tảng đá lớn đi ra, chăm chú quan sát. Đây là thời cơ tốt nhất để phá giải bí thuật này. Nhưng vào lúc này phía sau Huyền Trang đột nhiên lại có một tiếng thở dài khe khẽ: “Sư đệ xem đủ rồi chứ?”.

Huyền Trang hoảng sợ quay lại, thấy Ba Pha đứng sau lưng ngài với vẻ mặt bình thản. Lúc này đám người thần bí kia cũng nghe thấy tiếng nói, lũ lượt đi tới, Huyền Trang lập tức bị vây quanh.

“Sư đệ!”

“Đại Thừa Thiên!”

Trong đám người thần bí có không ít người quen của Huyền Trang, tất thảy đều ngạc nhiên.

Huyền Trang nhìn vị tăng nhân đã thay đổi cuộc đời mình này, hai người lặng lẽ nhìn nhau, tràn ngập thương cảm.

“Bí xã của chúng ta quyết không thể lộ ra!” Có người kêu lên: “Nếu Huyền Trang đồng ý gia nhập chúng ta, mọi việc đều tốt đẹp. Còn nếu không, đêm nay không thể để cho ông ta về chùa Na Lan Đà!”.

“Huyền Trang, có phải sư phụ sai sư đệ đến đây dò la bí mật của bọn ta không?”, Sư Tử Âm hỏi.

Huyền Trang không trả lời ông ta, chỉ nhìn Ba Pha, than thở: “Sư huynh, thoáng cái đã mười bảy năm không gặp rồi”.

“Đúng vậy!” Ba Pha cũng cảm khái: “Thiên lý mã của Phật môn Đại Đường năm đó, bây giờ quả nhiên đã thành danh. Sư đệ định giải quyết việc này thế nào?”.

“Đúng và sai, ta không nói nhiều. Đạo bất đồng không đi cùng đường thôi”, Huyền Trang nói: “Ta sẽ đi ngay, sống hay chết tùy sư huynh lựa chọn”.

Ngài lặng lẽ chắp tay chào, sau đó xoay người đi. Ba Pha nhìn theo bóng lưng ngài, vẻ mặt rất mâu thuẫn.

“Cứ thế để hắn đi à?”, có người hỏi.

Có người trèo lên tảng đá lớn, nhặt một tảng đá lên: “Năm xưa Đề Bà Đạt Đa ở đây ném đá ám sát Phật Đà, vì tương lai của bí xã, ta chẳng lẽ lại không thể làm Đề Bà Đạt Đa!”.

“Dừng tay!”, Ba Pha quát: “Huyền Trang là tương lai của Phật môn ta, ngươi muốn cắt đứt hi vọng của Phật môn sao?”.

“Hắn làm sao xứng?” Có người không phục, cho rằng Ba Pha đánh giá Huyền Trang thật sự quá cao.

“Các ngươi… không hiểu!”, Ba Pha thở dài một tiếng.

Huyền Trang từ khu vực bằng phẳng trên núi Linh Thứu đi xuống, vẻ mặt ung dung, không hề quay lại, nhưng mồ hôi đã ướt đẫm lưng áo. Đến tận lúc đi tới chân núi, ngài mới thở phào nhẹ nhõm, biết mình đã thoát khỏi tình cảnh nguy hiểm. Cảnh tượng hung hiểm và quỷ dị đêm nay khiến ngài đột nhiên hiểu ra rất nhiều chuyện.

°°°

“Số mệnh thật là kỳ diệu, ta hoàn toàn tin tưởng luân hồi!”

Trên núi Tỳ Bố La, hành cung bên suối nước nóng. Giới Nhật Vương chăm chú nhìn Na Thuận và Liên Hoa Dạ bên cạnh, không ngừng than thở. Sau khi Sa Bà Mị dẫn hai người đến, lệnh cho họ kể lại tỉ mỉ kiếp trước kiếp này của mình, trừ vương phi Diễn La Na là cái gai trong mắt Giới Nhật Vương, hai người chỉ nói sơ lược, tất cả những kiếp còn lại đều được kể rất cặn kẽ.

Giới Nhật Vương nghe mà chấn động, lại cảm thấy có chút khó hiểu: “Tôn giả, ngài nói đã mang đến nhân gian đại dược cho ta, nhưng mà lại là hai người này. Ngài nói hai người này chính là nhân gian đại dược, cuối cùng ta lại nghe kể chuyện suốt một ngày. Vậy thì họ làm sao có thể khiến ta được trường sinh?”.

“Bệ hạ”, Sa Bà Mị mỉm cười: “Lão hòa thượng xin hỏi một câu, ngài cho rằng Liên Hoa Dạ có phải là trường sinh không?”.

“Nàng?” Giới Nhật Vương kinh ngạc: “Nàng làm sao có thể coi là trường sinh? Ta cũng đã nghe, mỗi một kiếp nàng đều sống không quá hai ba mươi tuổi”.

“Nhưng nàng vẫn nhớ ba mươi ba kiếp luân hồi trong một ngàn hai trăm năm”, Sa Bà Mị nói với vẻ mặt nghiêm túc: “Trường sinh là thế nào? Thể xác không chết xem như trường sinh, trí nhớ bất diệt chẳng lẽ không phải là trường sinh?”.

Giới Nhật Vương ngẩn ra, đang suy nghĩ đột nhiên nghe thấy có người lớn giọng nói: “Toàn là những lời vô căn cứ!”.

Mọi người quay đầu ra nhìn, thấy Huyền Trang cùng với Bà Ni bước nhanh vào. Na Thuận vui vẻ chạy ra: “Sư huynh!”.

Huyền Trang vui mừng vỗ vỗ vai hắn.

Giới Nhật Vương đứng dậy chào: “Ta nghe nói đại sư đã về chùa Na Lan Đà, đã phái người đến đó mời, vì sao đại sư bây giờ mới đến?”.

“Phải chuẩn bị một chút mới dám đến gặp bệ hạ”, Huyền Trang lập tức nhìn Sa Bà Mị: “Những trò ngài làm đó chỉ là thuật che mắt thôi, chớ dẫn bệ hạ đi lạc lối!”.

“Phép thuật của lão hòa thượng sao lại là thuật che mắt vậy?”, Sa Bà Mị lạnh lùng nói: “Tại thành Càn Đà La, Đại Thừa Thiên cũng từng tận mắt nhìn thấy!”.

“Quả thực đã thấy”, Huyền Trang thản nhiên nói: “Không bằng trước mặt bệ hạ, bần tăng lần lượt phá giải”.

“Được!” Sa Bà Mị không cười nữa, sắc mặt đanh lại, đột nhiên đứng dậy đi ra ngoài chòi nghỉ, miệng niệm chú, tay bắt ấn, đột nhiên giữa hai tay xuất hiện một ngọn lửa, màu sắc từ đỏ đậm biến thành trắng lóa. Ông ta phất tay một cái, ngọn lửa bắn vào một thây cây to, thân cây lập tức bốc cháy.

Giới Nhật Vương và Bà Ni đã biết phép thuật thần thông của lão hòa thượng này cực kỳ lợi hại, hôm nay được thấy quả nhiên không sai. Sa Bà Mị xoay tròn hai tay, một ngọn lửa lại bao quanh chính mình, cháy rừng rực trên người ông ta. Mọi người xung quanh kinh hãi trợn mắt há mồm, Sa Bà Mị lại không hề hấn gì, ngọn lửa bao phủ quanh người giống như thần Phật hạ phàm.

“Đại Thừa Thiên, lửa này từng thiêu chết Tô Hãn Đát ở Càn Đà La”, Sa Bà Mị thách thức: “Hay là Đại Thừa Thiên đi vào thử xem?”.

Huyền Trang đứng lên, đi thẳng tới chỗ Sa Bà Mị trong ngọn lửa rừng rực. Còn chưa tới gần đã cảm nhận được nhiệt độ của ngọn lửa. Mọi người ở trong chòi cũng cảm thấy nhiệt độ xung quanh tăng lên, hơi nóng tạt vào người.

Giới Nhật Vương sốt ruột: “Đại sư, không được!”.

Huyền Trang lại đi tới bên cạnh một vò nước, cầm lên hắt tới, ào một tiếng hắt thẳng vào người Sa Bà Mị. Sa Bà Mị lập tức ướt như chim sẻ đi mưa, ngọn lửa cũng tắt. Ông ta ngơ ngác đứng đó, không biết nên làm gì cho phải.

Huyền Trang đi tới bên cạnh Sa Bà Mị, cầm lấy cánh tay ông ta, thấy trên cánh tay không hề có một chút nước nào, dường như trên da bôi một lớp dầu, nước không bám vào được.

“Bần tăng còn phải nói tiếp nữa không?”, Huyền Trang hỏi.

Giới Nhật Vương và Bà Ni liếc nhau, mặc dù không hiểu nội tình nhưng cũng biết Huyền Trang đã thắng.

Sa Bà Mị giận dữ giật tay lại: “Dùng chút tài mọn này thử thách đại sư đúng là sai lầm của ta. Vậy xin hỏi đại sư, ngọn lửa linh hồn của đại ma cát Ba Tư hôm đó giải thích thế nào? Lão hòa thượng dùng pháp khí đánh trống phá vỡ phép thuật cương thi của hắn lại giải thích thế nào?”.

“Đúng đúng đúng!” Giới Nhật Vương vội vàng nói: “Lúc hai vị đại sư đấu phép với đại ma cát Ba Tư, ta phái gián điệp đến theo dõi từ đầu chí cuối. Thủ đoạn đó quả thật thân bí đáng sợ, lẽ nào cũng là giả?”.

“Trận đấu phép này, hôm đó bần tăng cũng thấy vô cùng khó hiểu”, Huyền Trang quay lại ngồi xuống thảm, giải thích: “Bởi vì trong đó có ba vấn đề mấu chốt. Thứ nhất, xác chết sống lại thế nào? Thứ hai, cương thi tại sao không sợ trường mâu đâm thủng? Thứ ba, vì sao sau khi đánh trống, cương thi lại bốc lửa cháy rụi?”.

“Đúng rồi!” Giới Nhật Vương cảm thấy hứng thú: “Sau đó đại sư đã tìm hiểu được chưa?”.

Sa Bà Mị ướt sũng đứng ngoài chòi, khoanh tay cười lạnh.

“Sau đó bần tăng cố ý đi đến bãi tha ma đó xem xét, phát hiện tổng cộng có ba mươi huyệt mộ, không biết sau đó vì sao lại bị lấp. Nhưng bần tăng mướn người đào lên xem, phát hiện một nghi vấn.”

Huyền Trang nhìn Sa Bà Mị: “Ba mươi huyệt mộ này đều nông hơn huyệt mộ bình thường!”.

Sa Bà Mị không cười được nữa.

“Vì sao lại thế?”, Giới Nhật Vương vặn hỏi.

“Bởi vì nếu đào sâu, những thứ gọi là cương thi đó sẽ bị đất đè chết, không thể chui lên được nữa”, Huyền Trang nói.

Giới Nhật Vương giật mình: “Ngài nói những cương thi đó là giả? Thế vì sao quân đoàn bất tử Ba Tư lại đâm không chết bọn chúng?”.

“Bởi vì đây vốn chính là đại ma cát đang diễn kịch”, Huyền Trang lấy một thứ từ trong lòng ra, đặt lên trên bàn. Thứ này có hình móng vuốt sói, làm bằng thép ròng tốt nhất, có vòng sắt để cho ngón tay vào.

“Khi đó những cương thi đều bị chết cháy, sau đó người Ba Tư chất đống bọn chúng lại đốt thành tro. Có điều bần tăng lại tìm được thứ này ở hiện trường, có lẽ là tình cảnh hỗn loạn, không kịp dọn dẹp.” Huyền Trang cầm lên, đeo vào ngón tay mình, quả nhiên biến thành móng vuốt dài sắc bén: “Còn vì sao đâm không chết, đó là do những trường mâu đó hoàn toàn không đâm trúng người. Ba Tư có một trò khôi hài, đó là một tên hề gầy gò đeo túi bụng to, lắp thêm cánh tay thứ ba, biến thành một người vạm vỡ để chọc cười người xem”.

Sắc mặt Huyền Trang trở nên bi thương: “Bần tăng từng thu nạp đại đồ đệ tên gọi A Thuật. Hắn là một người lùn, chí hướng cả đời của hắn chính là làm một tên hề để người xem tràn đầy niềm vui. Vì vậy bần tăng cũng hiểu sơ qua trò này. Trong túi bụng và tay giả có túi máu, trường mâu đâm thủng túi máu sẽ có máu chảy ra như trút. Lúc này trường mâu còn cách thân người xa lắm!”.

Giới Nhật Vương và Bà Ni nghe mà trợn mắt há mồm. Giới Nhật Vương cầm bộ vuốt sói bằng thép ròng đeo vào tay, cắt một cái vào bàn ăn, mặt bàn liền bị cắt đứt. Giới Nhật Vương nhìn Sa Bà Mị một cái.

“Vậy sau khi Sa Bà Mị đánh trống, những cương thi đó bốc cháy, chết oan chết uổng thì giải thích thế nào?”, Giới Nhật Vương hỏi.

“Trên người bốc cháy thực tế rất đơn giản, vừa rồi Sa Bà Mị đã biểu diễn rồi”, Huyền Trang nói: “Nhưng nói họ chết oan chết uổng thì không phải, vì bọn họ không bị thiêu chết mà bị quân đoàn bất tử nhận được hiệu lệnh, dùng trường mâu đâm tới chết. Những người đáng thương này còn tưởng là chỉ đến biểu diễn một màn, không ngờ kết cục là nhất định phải chết”.

Nghe Huyền Trang suy luận từng bước, Sa Bà Mị không nói được lời nào.

Giới Nhật Vương hít sâu một hơi: “Như vậy vấn đề cuối cùng của ta, đã là đánh cuộc, vì sao người Ba Tư phải giúp Sa Bà Mị thắng trận này?”.

“Đây chính là điểm khi đó khiến bần tăng khó hiêu nhất, nhưng bây giờ đã giải quyết được rồi”, Huyền Trang nhìn Sa Bà Mị một cái: “Bởi vì người Ba Tư và Sa Bà Mị vốn chính là một phe”.

Giới Nhật Vương và Bà Ni lập tức kinh ngạc, cùng nhìn Sa Bà Mị. Sa Bà Mị cũng sốt ruột, đây là một lời lên án nghiêm khắc, hành vi không khác gì phản quốc.

“Ngài nói càn!”, Sa Bà Mị rống to: “Lão hòa thượng sao có thể cấu kết với người Ba Tư? Làm như vậy lão hòa thượng có được lợi gì chứ? Mục đích là gì?”.

“Xin lỗi!”, Huyền Trang nói thành thật: “Đây là điều bần tăng suy luận ra, bằng chứng chắc chắn có thể tìm được, nhưng bây giờ bần tăng không đưa ra được”.

Sa Bà Mị đang kích động lập tức ngẩn ra, dường như dùng toàn lực đấm ra một quyền nhưng mục tiêu lại biến mất. Ngay cả Giới Nhật Vương và Bà Ni cũng không ngờ Huyền Trang lại trả lời như vậy, hai người liếc nhau, cùng lắc đầu.

“Đại sư, lời buộc tội này của ngài nếu không có bằng chứng sẽ hết sức bất lợi đối với ngài”, Bà Ni nhắc nhở.

“Bần tăng biết”, Huyền Trang cũng bất đắc dĩ: “Đáng tiếc lúc này lại không thể không nói ra, sau này tìm bằng chứng chỉ sợ sẽ càng khó hơn.” Ngài thành khẩn nhìn Sa Bà Mị: “Xin cho bần tăng thêm thời gian”.

Sa Bà Mị vừa thở phào nhẹ nhõm lại bị ngài làm tức giận.

“Đại sư thật giỏi ăn nói”, Sa Bà Mị đi tới, cười lạnh: “Chuyện nói xấu lão hòa thượng tạm không tính toán. Nhưng những điều này chỉ là suy luận và phỏng đoán của ngài, chỉ dựa vào một bộ móng sắt đã phủ nhận cả sự tình, có phải là quá mức khinh suất không? Huống hồ lai lịch của bộ móng sắt này cũng đáng nghi ngờ, ai biết nó từ đâu đến?”

“Mặc dù chân tướng sự việc vẫn khó bề phân biệt, nhưng ta tin tưởng đại sư sẽ không cố ý làm một bộ móng sắt để lừa ta.” Giới Nhật Vương trầm ngâm: “Đương nhiên ta cũng tin rằng tôn giả tuyệt đối sẽ không cấu kết với người Ba Tư”.

“Đa tạ bệ hạ!” Sa Bà Mị cúi người cảm tạ, nước trên người vẫn rỏ xuống: “Bệ hạ, cùng một sự kiện, có thể giải thích từ các góc độ khác nhau, đều có thể làm mọi người tin phục. Đặc biệt là sự kiện dính dáng đến thần tích này, người thật sự thi triển ra lại không thể nào giải thích. Bởi vì đây vốn chính là thần tích”.

“Nói vậy cũng đúng”, kỳ thực Giới Nhật Vương cũng không hiểu ra sao.

“Xem ra đại sư Huyền Trang hoài nghi tất cả các thần tích”, Sa Bà Mị nhìn Huyền Trang khiêu khích: “Chẳng lẽ ba mươi ba kiếp luân hồi của Na Thuận và Liên Hoa Dạ cũng là giả sao? Mời đại sư phá đi!”.

“Tổ kiến dưới gốc cây, thật thật ảo ảo, đương nhiên cũng là giả”, Huyền Trang ung dung nói: “Tôn giả, không phải bần tăng đối nghịch với ngài, mục đích duy nhất chỉ là muốn để Na Thuận và Liên Hoa Dạ sống cuộc sống của chính mình. Nếu ngài sẵn sàng giao hai người đó cho bần tăng, không còn can thiệp nữa, bần tăng sẽ rời đi ngay. Nếu không, bần tăng sẽ tìm ra chân tướng chuyện này”.

Hai mắt Sa Bà Mị lóe sáng, sắc mặt trở nên nghiêm nghị, lại lạnh lùng nói: “Hai người bọn chúng là nhân gian đại dược ta đã dưỡng luyện hơn hai mươi năm, làm sao có thể giao cho ngài. Nếu có năng lực, ngài cứ việc phá vòng luân hồi này!”.

Huyền Trang và Sa Bà Mị nhìn nhau, cách nhau vài thước, không khí dường như đông lại, thời gian dường như dừng trôi, ở giữa có tiếng đao kiếm chát chúa, biến máu dâng trào. Đây là một trận đấu sinh tử, một cuộc so đấu của trí tuệ và mưu lược. Hai người đều biết, chỉ cần nói ra một lời, giữa hai người sẽ chỉ có thể còn một người sống sót, người còn lại sẽ thân bại danh liệt, đế tiếng xấu muôn đời! Na Thuận và Liên Hoa Dạ ngỡ ngàng nhìn nhau, Na Thuận lẩm bẩm nói: “Cuộc đời của hai chúng ta làm sao có thể là giả?”.

Huyền Trang nhìn họ thương xót, thầm hạ quyết tâm, đang định lên tiếng, đột nhiên có nội thị chạy vội tới: “Bệ hạ, chùa Na Lan Đà truyền đến tin tức, đại sư Giới Hiền lâm bệnh nặng!”.

Tất cả mọi người đều kinh sợ, đại sư Giới Hiền là một tấm bia lớn của Phật giáo Thiên Trúc, mấy chục năm qua gần như một mình ngài chống đỡ đà suy tàn của Phật giáo tại Thiên Trúc, ngay cả lão quái vật Sa Bà Mị với vai vế sư thúc cũng phải kính trọng ngài.

“Mau! Chuẩn bị ngựa, chuẩn bị xe!”, Giới Nhật Vương lập tức hô lên: “Lập tức tới chùa Na Lan Đà”.

Trong sự bảo vệ của cấm vệ sát đế lợi, Giới Nhật Vương ngồi trên vương liễn, dẫn đám người Bà Ni, Huyền Trang, Sa Bà Mị, Na Thuận và Liên Hoa Dạ đi tới chùa Na Lan Đà.

Khoảng cách chỉ có ba mươi dặm, chẳng bao lâu đã đến chùa Na Lan Đà. Tri khách tăng đi ra đón mọi người vào cửa chùa, mọi người lập tức cảm thấy không khí trong chùa rất nặng nề, hơn mười ngàn người gần như không một ai lớn tiếng, các hoạt động tụng kinh, biện luận hằng ngày cũng đều dừng lại. Trên mặt mọi người đều lộ vẻ lo lắng.

Lúc này điệt nhi của đại sư Giới Hiền là đại sư Giác Hiền đích thân đi ra nghênh đón Giới Nhật Vương. Giới Nhật Vương hỏi thăm tình hình, đại sư Giác Hiền nói với ông ta sư phụ đã cao tuổi, mắc chứng thống phong, đêm qua đột nhiên bị ngã, bây giờ còn đang hôn mê. Giới Nhật Vương muốn đi thăm lại bị đại sư Giác Hiền ngăn lại, bảo ông ta chờ một lát, thầy thuốc đang cứu chữa, đợi đại sư tỉnh lại sẽ mời ông ta vào sau. Giới Nhật Vương gật đầu, đây là việc nên làm, một khi mình đi vào nhất định sẽ ảnh hưởng đến việc trị liệu của thầy thuốc.

Đại sư Giác Hiền liền chờ đợi cùng mọi người.

Huyền Trang lòng nóng như lửa đốt, đang định tìm người hỏi thăm bệnh tình của sư phụ, đột nhiên một tăng nhân đi tới, nói nhỏ: “Sư huynh, mời vào hậu đường”.

Hưyền Trang ngẩn ra, lúc này tăng nhân đó cũng nhẹ giọng nói gi đó với Sa Bà Mị. Sa Bà Mị quay sang nhìn Huyền Trang một cái, sau đó lặng lẽ gật đầu. Hai người đều đi theo tăng nhân đó tới hậu đường, vòng qua rất nhiều nhà cửa, đến một tòa tinh xá.

Tăng nhân làm động tác mời, Huyền Trang và Sa Bà Mị liếc nhau, cả hai đều kinh ngạc, cùng nhau đi vào. Huyền Trang lập tức sửng sốt, thấy đại sư Giới Hiền vẫn ngồi yên lành trên sạp, bên cạnh lại là Ba Pha.

“Sư phụ!”, Huyền Trang nghẹn lời: “Thì ra… thì ra người không hề bị bệnh!”.

“Không thể không bệnh”, đại sư Giới Hiền nhìn đệ tử yêu mến của mình, thở dài nói: “Nếu ta không bệnh, con và Sa Bà Mị sẽ phải quyết định sinh tử trước mặt Giới Nhật Vương”.

“Giới Hiền!” Sa Bà Mị lại không cảm kích, vai vế và tuổi tác của ông ta đều cao hơn đại sư Giới Hiền nên nói thẳng: “Ta vốn không thể nào thua, ngài muốn bảo vệ đệ tử của ngài đúng không?”.

“Thật sao?” đại sư Giới Hiền thản nhiên nói: “Tôn giả không ngại để đệ tử này của ta phá vỡ sự bố trí của ngài chứ?”.

Sa Bà Mị nhìn Ba Pha một cái, Ba Pha mặt không chút biểu cảm, Sa Bà Mị yên tâm, nói: “Luân hồi chính là thiên đạo, người nào có thể phá được? Ta cũng muốn nghe một chút”.

Đại sư Giới Hiền ra hiệu cho Huyền Trang, Huyền Trang gật đầu nhìn Sa Bà Mị: “Ngọn nguồn của chuyện này phải nói từ mười bảy năm trước. Năm Vũ Đức thứ tám, sư huynh Ba Pha theo đường biển đi tới Đại Đường, bần tăng biết tin liền từ Triệu Châu đến Trường An để nghe sư huynh giảng Phật pháp. Trên đường bần tăng gặp một tăng nhân tên gọi Viên Quán. Nửa năm trước tại Càn Đà La, ngài kể cho mọi người chuyện giữa bần tăng và Viên Quán, khi đó bần tăng rất kinh ngạc, ngài làm sao biết được chuyện này? Mấy ngày trước bần tăng trở lại chùa Na Lan Đà, đến kinh viện tìm đọc hồ sơ mới biết, mười bảy năm trước lúc sư huynh Ba Pha đến Trường An còn có một người đi theo, đó chính là ngài, tôn giả Sa Bà Mị”.

Sa Bà Mị cười lạnh lùng, lại không hề phủ nhận.

“Không sai!” Ba Pha nói: “Năm đó ta quả thực cùng tôn giả đi tới Trường An. Ta ở lại Trường An dịch kinh, tôn giả thì chu du Đại Đường, chỉ sau ba năm đã trở lại Thiên Trúc”.

“Cho nên chuyện giữa bần tăng và Viên Quán, ngài đã biết từ mười bảy năm trước. Khi đó bần tăng từng kể chuyện này với các tăng lữ ở Trường An. Chuyện này dính dáng đến tăng nhân, bói toán, luân hồi, những bí mật kỳ lạ, chắc hẳn ngài còn nhớ rất rõ.” Huyền Trang ung dung kể: “Khi ngài trở lại Thiên Trúc, bắt đầu bố trí chuyện của Liên Hoa Dạ thì bần tăng cũng đã đi tới Thiên Trúc, có một chút danh tiếng tầm thường, cho nên ngài nảy ra một ý, coi kiếp trước của Na Thuận chính là Viên Quán”.

“Nói vậy thì những bố trí này của ta là nhằm vào ngài?”, Sa Bà Mị mỉm cười.

“Đã nói nảy ra một ý, nghĩa là ngài tạm thời nghĩ đến việc này. Bần tăng làm sao có thể là mục tiêu của kế hoạch khổng lồ kín kẽ, kéo dài hàng chục năm của ngài?” Huyền Trang nói lạnh nhạt: “Bần tăng chỉ là may mắn được chọn. Ngài muốn mượn mắt của bần tăng, mượn miệng của bần tăng, mượn thanh danh của bần tăng, tận mắt chứng kiến ba mươi ba kiếp luân hồi này thôi. Nếu bần tăng đoán không sai, người mà kế hoạch của ngài nhằm vào chính là Giới Nhật Vương bệ hạ!”.

“Ngài định dùng những lời lẽ hoang đường để gán tội cho ta sao?”, Sa Bà Mị giận tím mặt: “Hôm nay ngài vu khống ta cấu kết với người Ba Tư ngay trước mặt Giới Nhật Vương, bây giờ ngài lại vu khống ta bày kế mưu hại Giới Nhật Vương. Ta rốt cuộc có thù oán gì với ngài?”.

Thấy Sa Bà Mị bị chọc giận, đại sư Giới Hiền và Ba Pha bên cạnh lại không có biểu hiện gì, chỉ yên lặng đứng nhìn.

“Ngài và bần tăng không thù không oán” Huyền Trang ung dung đáp: “Chuyện cấu kết với người Ba Tư, bần tăng quả thật không có bằng chứng, nhưng câu chuyện luân hồi là nhằm vào Giới Nhật Vương thì không còn phải nghi ngờ gì”.

“Hả?”, Sa Bà Mị chế giễu: “Ngài nói xem, bằng chứng ở đâu?”.

“Lần trước ngài dùng khói trắng làm Liên Hoa Dạ biến mất trong vương cung Càn Đà La… Huyền Trang nói.

“Dùng lại!”, Sa Bà Mị tức giận: “Ngài dựa vào cái gì mà nói đám khói trắng đó là bí thuật ta thi triển?.

Huyền Trang nhìn Ba Pha một cái, nói nhỏ: “Rất hổ thẹn, đêm qua bần tăng đã nhìn trộm Ba Pha sư huynh thi triển bí thuật này trên núi Linh Thứu. Bí thuật này là sư huynh Ba Pha đổi lấy từ tay một đạo sĩ Đại Đường. Sau khi trở lại Thiên Trúc, sư huynh Ba Pha đã truyền cho ngài”.

“Hừ…” Sa Bà Mị nhìn Ba Pha một cái, thấy Ba Pha cười khổ, lập tức nghẹn lời, một hồi lâu mới nói: “Cho dù là bí thuật do ta thi triển thì đã sao chứ?”.

“Liên Hoa Dạ biến mất, việc này là nhằm vào bần tăng. Ngài biết rất rõ tình cảm của bần tăng đối với Na Thuận, cũng biết bần tăng chắc chắn sẽ giúp Na Thuận đi tìm tung tích của Liên Hoa Dạ, như vậy sẽ không thể tránh được việc tìm kiếm bí mật kiếp trước của Liên Hoa Dạ. Tất cả đúng như ngài dự tính, bần tăng đi đến Đông nữ quốc, hỏi thăm được kiếp trước của Liên Hoa Dạ là vương phi Diễn La Na. Như vậy cái chết của vương phi Diễn La Na sẽ trở thành một mâu thuẫn, dễ dàng khiến bần tăng hoài nghi bà ấy chết vì bị giết. Sau đó bần tăng bóc kén kéo tơ, tra tìm hung thủ, khiến Bà Ni động sát cơ, sau đó tra được hung thủ đứng đằng sau cái chết của vương phi Diễn La Na là Giới Nhật Vương! Từ đó cũng tự khắc đoán ra được chân tướng cái chết của Vương Tăng.” Huyền Trang thở dài một tiếng: “Từ đầu đến cuối, bần tăng biến thành một công cụ trong tay ngài, còn mục đích cuối cùng của ngài chính là làm cho bần tăng vạch trần bí mật Giới Nhật Vương ám hại huynh trưởng!”.

“Vì sao ông ta lại muốn con vạch trần bí mật này?”, đại sư Giới Hiền đột nhiên hỏi.

Huyền Trang cung kính thi lễ: “Sư phụ, ông ta muốn làm Giới Nhật Vương kinh sợ, đánh tan tôn nghiêm vương giả và phòng tuyến nội tâm của Giới Nhật Vương, làm cho ý chí của Giới Nhật Vương hoàn toàn sụp đổ, làm cho Giới Nhật Vương hoảng sợ vì tội nghiệt của mình, sợ sau này sẽ bị phán xét dưới địa ngục mà không thể nào siêu thoát được. Một vị Giới Nhật Vương hùng tài đại lược, diệt vô số địch quốc, giết chóc nửa đời như vậy, nếu để một nhân vật nhỏ vạch trần bí mật của ông ấy sẽ dễ dàng bị ông ấy diệt khẩu, cho nên phải có một nhân vật đủ mạnh chứng kiến tội nghiệt của ông ấy, mới có thể làm cho ông ấy suy nghĩ lại những chuyện đã qua và trở nên sợ hãi. Rất bất hạnh là đệ tử lại bị tôn giả nhìn trúng. Hơn nữa đệ tử nghi ngờ ban đầu Giới Nhật Vương mời bần tăng đi thu phục Càn Đà La cũng là ý tưởng của Sa Bà Mị hoặc sư huynh Ba Pha”.

Mọi người yên lặng rất lâu, đại sư Giới Hiền mới than thở: “Sư Tử Âm đề cử con với ta”.

Huyền Trang cười khổ: “Đệ tử lại quên mất sư huynh Sư Tử Âm”.

“Sau khi làm Giới Nhật Vương sợ hãi, kế hoạch này mới chính thức bắt đầu. Lần trước bần tăng đã đoán Na Thuận và Liên Hoa Dạ sẽ gặp nguy hiếm, liền bí mật hộ tống họ rời khỏi Thiên Trúc. Đáng tiếc trên đường vẫn bị Sa Bà Mị bắt đi, bởi vì hai người họ là nhân gian đại dược mà Sa Bà Mị đã dưỡng luyện hàng chục năm, mục đích chính là muốn biểu diễn một màn luân hồi trước mặt Giới Nhật Vương, làm cho chân tướng luân hồi thần bí hiện ra giống như thật trước mặt ông ta”. Huyền Trang nói: “Thưa sư phụ, đây chính là mục đích cuối cùng của kế hoạch này, làm cho Giới Nhật Vương và cả ức vạn chúng sinh trên đại lục Thiên Trúc này nhìn thấy thiên địa luân hồi. Tâm nguyện của Sa Bà Mị và sư huynh Ba Pha là dựa vào luân hồi để làm Giới Nhật Vương và chúng sinh Thiên Trúc kinh sợ, làm cho họ một lần nữa tín ngưởng, tôn thờ Phật giáo, hoàn toàn đập tan các ngoại đạo, vãn hồi đại thế suy tàn của Phật giáo.”

Sa Bà Mị và Ba Pha nhìn nhau một cái. Ba Pha không nói gì, dường như không còn gì để nói, chỉ lắc đầu với Sa Bà Mị.

Sa Bà Mị lại không nhịn được châm chọc: “Vẫn nghe nói tài hùng biện của Đại Thừa Thiên là số một, ba tấc lưỡi như hoa sen, lão hòa thượng đã lĩnh giáo nhiều lần, đạo lí rõ ràng, câu từ kín kẽ. Đáng tiếc ba mươi ba kiếp luân hồi của Liên Hoa Dạ lại không làm giả được!”.

“Không làm giả được sao?” Huyền Trang lộ vẻ bi thương: “Ngài dưỡng luyện đại dược trong nhân gian, rốt cuộc dưỡng luyện thế nào, trong lòng ngài biết rõ nhất. Liên Hoa Dạ và Na Thuận chẳng qua chỉ là hai diễn viên, dùng cả đời của họ để diễn một vở kịch! Họ thật sự trải qua ba mươi ba kiếp luân hồi, thật sự trải qua từng hồi vui buồn tan hợp, ân ái tình thù sao? Đều là giả hết! Tất cả đều là giả!”. Huyền Trang trở nên kích động: “Họ chẳng qua chỉ là diễn viên được ngài bồi dưỡng từ nhỏ. Trước kia Giới Nhật Vương viết “Long Hỉ ký”, diễn viên đóng vai thái tử Vân Thừa và công chúa Ma La Gia Bà Địa cả đời chỉ có thể đóng vai một nhân vật này, sau mười năm họ đã hoàn toàn nhập vai vào nhân vật thái tử và công chúa, còn giống thái tử hơn cả thái tử thật, còn giống công chúa hơn cả công chúa thật. Họ sớm đã quên mình chỉ là một diễn viên. Na Thuận, Liên Hoa Dạ, hai người họ cũng đã quên mất mình chi là diễn viên. Dưới sự chỉ đạo của ngài, họ đóng vai Na Thuận cả đời, đóng vai Liên Hoa Dạ cả đời. Khác nhau ở chỗ, họ không biểu diễn trên sân khấu nhỏ hẹp mà là lấy cả tính mạng làm sân khấu, lấy cả đại lục Thiên Trúc làm sân khấu. Người xem cũng không phải vài trăm người ít ỏi dưới sân khấu mà là vô số đế vương các đại quốc như Thiên Trúc, Càn Đà La, Ba Tư, là hàng ức vạn nhân sinh trên cả đại lục này!”.

Nghe Huyền Trang nói xong, đại sư Giới Hiền với Ba Pha đều yên lặng. Sa Bà Mị mấp máy định nói gì đó, cuối cùng lại không nói ra miệng.

Vẻ mặt Huyền Trang kích động: “Tôn giả, có phải ngài muốn hỏi bần tăng là làm thế nào khiến một diễn viên hoàn toàn hóa thân thành nhân vật của mình, thậm chí quên mất chính mình? Ngài tinh thông bí thuật, chú thuật, ảo thuật, thuật thôi miên Tu Phổ Nặc Tư[163] (Hypnus) của người Bái Chiêm Đình, lựa chọn đứa bé này từ nhỏ, dùng trầm hương, chu sa, đàn hương, phấn hoa mạn đà la điều phối thành bột phấn, làm cho nó ngủ say, truyền trí nhớ của ba mươi ba kiếp cho nó, nhắc lại hàng ngàn hàng vạn lần trong đời nó, hoàn toàn cải tạo nó, phá hủy trí nhớ của bản thân nó, làm cho nó tin rằng mình chính là Na Thuận, từ kiếp trước đến kiếp này vẫn yêu thầm một cô nương. Làm cho nàng tin rằng mình chính là Liên Hoa Dạ, trải qua ba mươi ba kiếp luân hồi, muốn chạy thoát khỏi cái lồng giam này. Sa Bà Mị, ngài đùa bỡn cuộc đời của họ như vậy, ngài biến đổi vận mệnh của họ như vậy, bần tăng không biết trong quá trình này họ bị hành hạ thế nào, đau khổ thế nào, họ có từng chống cự và phản kháng hay không, nhưng bần tăng biết cuối cùng họ đã khuất phục. Họ quên mất mình là ai, họ hoàn toàn thừa nhận thân phận mà ngài áp đặt cho mình, từ một vận mệnh bi thảm này tiến vào một vận mệnh khác bi thảm hơn. Sa Bà Mị, sao ngài nhẫn tâm như vậy? Sao ngài có thể nhẫn tâm đến thế?”.

Đây là một lần hiếm hoi Huyền Trang không khống chế được tâm tình của mình. Ngài giận dữ hét lên, nước măt tuôn trào làm vạt áo ướt đẫm.

Trong tịnh xá tĩnh lặng như không, chỉ có tiếng nghẹn ngào của Huyền Trang. Mọi người đeu yên lặng, ngay cả Sa Bà Mị cũng không còn lên tiếng bác bỏ nữa.

[*] [161] Phệ Xá Lị hay Vaishali là một thành phố cổ đại của Ấn Độ, ngày nay thuộc huyện Vaishali bang Bihar, Đông Ấn Độ. Đây là kinh đô của liên minh Vajji. Tất Đạt Đa Cồ Đàn đã thuyết pháp lần cuối ở đây. Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai cũng diễn ra ở đây.

[*] [162] Shravasti là một thành cổ ở Ấn Độ, kinh đô của vương quốc Kosala và là một trong sáu đô thị lớn nhất Ấn Độ thời Thích Ca Mâu Ni sống. Shravasti hiện nay là địa điểm cùng tên bên bờ sông Rapti Tây ở vùng Devipatan, tiểu bang Uttar Pradesh, gần Balrampur trong đồng bằng sông Hằng.

[*] [163] Tu Phổ Nặc Tư hay Hypnos là tên của thần Giấc ngủ trong thần thoại Hy Lạp. Trong y học thì đây là danh từ chỉ sự thôi miên, giấc ngủ nhân tạo.

[*] [164] Na Kiệt hay Nagarahara là tên một vương quốc cổ nay chi còn ghi chép trong Cựu Đường thư, vị trí của vương quốc này hiện nằm ở khu vực phía tây Jalalabad, Afganistan.