← Quay lại trang sách

Chương 16 Người lấy kinh dưới chân Linh Sơn

“Chuyện quả thật như thế sao?” Đại sư Giới Hiền yên lặng rất lâu mới hỏi: “Ba Pha!”.

Ba Pha trầm ngâm một lát, cười cười: “Thứ gì là thật? Thứ gì là giả? Vạn vật thật ảo sinh diệt, cần gì cố chấp là sự thật, cần gì cố chấp là giả dối? Sư phụ, việc đệ tử muốn làm mấy năm nay, chắc hẳn sư phụ không phải hoàn toàn không biết gì. Đã biết rồi thì cần gì phải ép đệ tử nói ra?”.

“Đúng vậy!” Đại sư Giới Hiền thở dài, hiển nhiên trong lòng cũng đang giày vò: “Đề Bà Nô, xử trí như thế nào, con quyết định đi!”.

Huyền Trang cúi người thi lễ: “Sư phụ, chuyện trên đời mặc dù thật ảo sinh diệt, tuy nhiên có một thứ vĩnh viễn không thay đổi, chính là thiện niệm trong lòng người. Đệ tử quyết không cho phép người vô tội bị chà đạp như thế, cũng quyết không cho phép có người mượn danh Phật môn ta để làm chuyện lừa gạt chúng sinh này. Mục đích của họ chẳng qua là muốn làm cho luân hồi hiện rõ trước mặt người đời, tuy nhiên luân hồi thần bí khó dò, nếu chúng sinh đều có thể nhìn thấy, đó sẽ không còn là luân hồi nữa. Trong lòng con người tự có kính sợ, không cần tới thứ khác làm kinh sợ. Cho nên đệ tử sẽ nói rõ việc này với Giới Nhật Vương từ đầu chí cuối”.

Sắc mặt Ba Pha và Sa Bà Mị đều biến đổi. Hai người muốn nói gì đó, nhưng lại không lên tiếng, chỉ lạnh nhạt nhìn đại sư Giới Hiền. Đại sư Giới Hiền thở dài một tiếng: “Đề Bà Nô, ta nói với con một việc, sau khi nghe xong con hãy quyết định sau”.

Huyền Trang chắp tay cúi người, tỏ ý lắng nghe.

“Đêm qua con đến núi Linh Thứu, chắc hẳn cũng biết sự tồn tại của bí xã, nhưng con có biết quy mô của bí xã lớn thế nào không? Không phải chỉ có hơn ba mươi người con thấy lúc đó, những người đó chỉ là tinh anh. Cả bí xã, chỉ riêng trong bốn ngàn tăng chúng ở chùa Na Lan Đà đã có hơn một ngàn người rồi”, đại sư Giới Hiền nói.

Huyền Trang lập tức trợn mắt: “Sao có thể như vậy được?”.

Đại sư Giới Hiền vô cùng đau khổ nói: “Ta biết bí xã này không phải vì phản đối ta mà có, từ khi ta vào chùa Na Lan Đà đã có sự tồn tại của bí xã. Trên thực tế từ thời đại Phật Đà, nội bộ Phật giáo đã có tư tưởng này. Bởi vì chính pháp của Phật Đà cầu giải thoát và niết bàn, tuy nhiên trong quá trình tăng chúng truyền bá giáo pháp lại không thể giải quyết nỗi cực khổ thực tại của dân chúng, ngược lại những trò tạp chú, vu thuật, chiêm tinh và bói toán lại hóa giải được sự giày vò thực tại của họ. Cho nên hàng ngàn năm qua bí xã vẫn bí mật tồn tại trong nội bộ chúng ta. Trong thời kỳ Phật pháp hưng thịnh, chúng ta vẫn còn có thể áp chế được bí xã tuân theo chính pháp Như Lai, nhưng một khi Phật pháp suy vi sẽ không áp chế nổi nữa. Như Ba Pha chủ trương phải rời khỏi kinh viện, đoạt lại tín đồ. Ba Pha là đệ tử yêu mến của ta, chính vì muốn bảo vệ hắn, mười bảy năm trước ta mới phái hắn đến Đại Đường, chỉ hi vọng hắn có thể truyền bá giáo pháp tại Đông Thổ, lập nên nghiệp lớn truyền kinh. Không ngờ chấp niệm của hắn quá sâu nên lại quay về rồi!”.

Ba Pha nghe vậy mới biết, thì ra năm đó không phải mình bị sư phụ đuổi đi mà là được bảo vệ. Ông ta có chút xúc động, lại không biết nên nói gì.

“Ta không sợ đệ tử phản đối ta, chỉ sợ đệ tử trầm luân trong chấp niệm”, đại sư Giới Hiền nói rất từ tốn, dường như đang cân nhắc từng câu từng chữ: “Ta cần làm kinh viện, bọn họ cần cải cách. Có lẽ trước mắt chúng ta không thể nào phán định ai đúng ai sai, vậy thì cứ đưa mắt nhìn, xem mười năm, hai mươi năm, một trăm năm, rồi sẽ có ngày đúng sai trở nên rõ ràng. Nhưng Ba Pha, tôn giả, ta phải nói với các vị, về đạo đức, các vị sai rồi. Bất cứ lúc nào, kẻ hi sinh người vô tội để đạt được mục đích của mình đều không phải là kẻ chiến thắng cuối cùng. Bởi vì các vị đã thua chính nghĩa”.

“Đệ tử nguyện chết trong lửa bỏng, vạn kiếp không còn đường quay lại, cũng không thay đổi ý chí”, Ba Pha nói.

Đại sư Giới Hiền lắc đầu bi thương: “Đề Bà Nô, đây chính là bí xã. Nếu con muốn nói với Giới Nhật Vương về mưu tính của bí xã, ta không phản đối. Nhưng bí xã và Phật giáo vốn là cùng một gốc sinh ra, muốn tách cũng không tách được. Giới Nhật Vương hùng tài đại lược, sẽ không chịu bị lừa gạt, một khi biết chuyện tất sẽ sinh ra ý thù địch với Phật giáo. Tới nay đại lục Thiên Trúc đã đầy rẫy chùa tháp sụp đổ, chùa Na Lan Đà có trở thành một trong số đó hay không, ta cũng khó mà đoán được”.

Huyền Trang yên lặng rất lâu, ánh mắt thẫn thờ, lẩm bấm nói: “Đệ tử nên làm thế nào?”.

“Nghe trái tim con mách bảo”, đại sư Giới Hiền nói: “Phật giáo trên đại lục Thiên Trúc suy vi đã là sự thật khó mà tránh được, bất kể Ba Pha hay là ta đều đang cố gắng chống lại. Tương lai của Phật giáo nằm trên vai con”.

Huyền Trang kinh ngạc: “Sư phụ, đệ tử đảm đương không nổi!”.

Ba Pha điềm đạm nhìn ngài: “Sư đệ, đệ là người được chọn sẽ đi lấy kinh mà chúng ta đã lựa chọn từ mười bảy năm trước, nếu đệ không đảm đương nổi, còn ai có thể đảm đương được?”.

“Người được chọn sẽ đi lấy kinh?”, Huyền Trang ngỡ ngàng.

“Đúng vậy!” Ba Pha giải thích: “Hơn mười năm nay đệ chu du Thiên Trúc cũng đã nhìn thấy, Phật pháp suy vi, chùa chiền tàn tạ, thế cục này đã rất khó vãn hồi. Ngược lại, Phật giáo ở Đông Thổ lại phát triển không ngừng, ngày càng thịnh vượng. Cho nên từ năm mươi năm trước sư phụ đã lên kế hoạch truyền Tam tạng là Kinh Phật, Luật giới, Luận pháp vào Đông Thổ, mười bảy năm trước phái ta đến Đại Đường, bề ngoài là truyền bá giáo pháp, trên thực tế là để chọn người đi lấy kinh”.

“Sư huynh mang theo Tam tạng đến Đại Đường dịch kinh, vốn chính là việc truyền kinh, vì sao phải chọn một người đi lấy kinh làm gì?”, Huyền Trang không hiểu.

“Ta dù sao cũng là người từ bên ngoài đến, hoàng đế Đại Đường có sùng bái ta thế nào, ta cũng không thể thâm nhập vào văn hóa Đại Đường vốn đã thâm căn cố đế, cho nên phải có một người dịch kinh của bản quốc.” Ba Pha có chút cay đắng nói: “Hơn nữa như Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dịch kinh với sự ủng hộ của đế vương, đến hết đời mới phiên dịch chưa đủ một trăm quyển. Với quy mô tam tạng khổng lồ của chùa Na Lan Đà ta giờ đây, muốn truyền tới Đông Thổ, hơn nữa còn cần phiên dịch ra thì phải mấy trăm năm mới có thể hoàn thành được? Cho nên sư phụ phái ta đến Đại Đường chính là để chọn một người đi lấy kinh, để người đó trải qua trăm cay nghìn đắng tới chùa Na Lan Đà ở Thiên Trúc ta, được cả Đại Đường dõi theo, mang tam tạng Kinh, Luật, Luận về Trường An. Năm đó ngoài đệ, ta còn lựa chọn ba người khác. Năm Trinh Quán thứ ba, cả bốn người đều dâng sớ lên hoàng đế xin được Tây du, sau khi bị hoàng đế từ chối, ba người khác lùi bước, cuối cùng chỉ có đệ lên đường Tây du”.

Huyền Trang bị tin tức này làm cho chấn động tột độ. Thì ra từ ngày đầu tiên mình Tây du đã là người được chọn đi lấy kinh. Kế hoạch này đã kéo dài mười bảy năm!

“Đại Thừa Thiên!”, Sa Bà Mị đột nhiên nói: “Khi đó ta đã gặp ngài tại Trường An và nhận định ngài là người lấy kinh thích hợp nhất. Bởi vì ngài chí hướng như sắt, tuyệt đối không lùi bước, càng bởi vì ngài có giao tình sâu đậm với hoàng đế Đại Đường, khi kế hoạch lấy kinh hoàn thành sẽ có hiệu quả cao gấp đôi. Khi thực hiện kế hoạch luân hồi, lão hòa thượng đã bị ngài cản trở nhiều lần nhưng vẫn chưa từng nổi giận với ngài. Đó là bởi vì ngài có trọng trách mang lại hi vọng cuối cùng cho Phật môn. Cho nên thủ đoạn của ngài và ta khác nhau nhưng mục đích cuối cùng lại giống như nhau”.

Huyền Trang không biết cảm giác trong lòng là gì, vẻ mặt phức tạp nhìn ba người trước mặt. Ngài cho rằng cuộc đời mình từ trước đến nay đều là do chính mình quyết định, từ lúc ban đầu âm thầm qua sông vượt biển, chu du thiên hạ, đến sau này lại lén xuất quan Tây du, ngài đều nghe theo tiếng gọi trong lòng và lí tưởng của cuộc đời này. Nhưng trên thực tế ngài cũng giống như Na Thuận và Liên Hoa Dạ, đều có cuộc đời bị người ta khống chế, đều phải hoàn thành một kế hoạch khổng lồ, đều là một quân cờ trong bàn cờ đã được mưu tính hàng chục năm. Điểm khác nhau duy nhất là ngài vẫn là ngài, còn Liên Hoa Dạ lại không còn là Liên Hoa Dạ.

Huyền Trang đột nhiên có chút ngỡ ngàng, thứ bây giờ mình có được có phải là lí tưởng của mình năm đó không? Thứ người khác sắp xếp cho ngài đi lấy có phải là chân kinh năm đó ngài muốn lấy không? Sứ mệnh ngài mang trên vai có phải là sứ mệnh ngài từng theo đuổi không?

Cảm giác mất mát tột độ tràn đến, giống như thủy triều nhấn chìm ngài, khiến ngài không thể thở được.

“Đệ tử… Đệ tử nhớ nhà rồi”, Huyền Trang lẩm bẩm nói.

Đại sư Giới Hiền đang định nói, Huyền Trang bỗng cúi rạp người thi lễ: “Sư phụ, có lẽ Thiên Trúc đối với đệ tử chỉ là một trạm dừng chân trong đời. Đích đến của đệ tử ở Đại Đường, sứ mệnh này bất kể là do sư phụ sắp xếp hay do đệ tử tự mình theo đuổi, đều đáng đê đệ tử bỏ ra cả đời mình, đệ tử đành làm người đi lấy kinh và dịch kinh vậy! Xin sư phụ ân chuẩn cho đệ tử trở về Đại Đường. Chuyện bí xã cùng đệ tử không còn liên can gì nữa”.

“Sư đệ”, Ba Pha có chút không đành lòng.

Huyền Trang cười cười: “Đạo bất đồng, cho nên con đường đi cũng khác nhau. Bần tăng về Đại Đường truyền Như Lai đại đạo, sư huynh ở Thiên Trúc làm bùa chú bói toán. Có điều, sư huynh, muốn bần tăng đứng ngoài chuyện này thì phải có một điều kiện”.

“Sư đệ nói đi”, Ba Pha nói.

“Bần tăng muốn đưa Na Thuận và Liên Hoa Dạ đi, trả lại cuộc đời của họ cho chính họ”, Huyền Trang nghiêm túc nói.

Ba Pha và Sa Bà Mị đưa mắt nhìn nhau, một hồi lâu sau Sa Bà Mị mới nói: “Đại Thừa Thiên, kỳ thực vừa rồi ngài suy đoán có một điều sai lầm. Na Thuận và Liên Hoa Dạ không phải là ta dùng chú thuật và ảo thuật khống chế, càng không sửa đổi ký ức của bọn chúng, truyền cho bọn chúng ký ức của ba mươi ba kiếp”.

“Sao?” Huyền Trang kinh ngạc: “Vậy chân tướng là gì?”.

“Chân tướng…”, Sa Bà Mị do dự rất lâu mới nói: “Bọn chúng là diễn viên ta thuê, từ nhỏ đã dùng cả đời mình để diễn vở kịch đó! Bọn chúng biết rõ tất cả mọi chuyện, tự nguyện đi vào vòng tròn vận mệnh, tù ngục luân hồi này!”.

Huyền Trang thật sự kinh ngạc. Chuyện này quá mức khó tin, bởi vì bất kể Na Thuận hay là Liên Hoa Dạ, trên người bọn họ đều hoàn toàn không nhìn ra một chút nào là đang diễn kịch. Bọn họ lưu luyến si mê, bọn họ đau khổ vật vã, bọn họ sống hết đời này đến kiếp khác, bọn họ điên cuồng và tuyệt vọng phá vỡ tù ngục luân hồi này, làm sao có thể là giả được?

“Na Thuận là một đứa bé Túc Đặc được ta lựa chọn bảy năm trước, khi đó nó mới mười tuổi. Gia tộc của nó bị hủy diệt trong một cuộc chiến tranh, nó cũng bị bán làm nô lệ. Ta mua nó về, hỏi nó có muốn dành cả đời mình để đóng vai một người hay không, sau đó ta có thể cho nó tự do, cho nó bất cứ thứ gì nó muốn, và nó đồng ý”, Sa Bà Mị nói: “Còn Liên Hoa Dạ, nàng quả thực là một kỹ nữ, cũng đích thực bị bán từ Tô Bì nữ quốc đến đây. Ta hỏi nàng cuộc đời của nàng bi thảm như vậy, có muốn hoàn toàn quên đi chính mình để đóng vai một người khác không, nàng liền đồng ý.”

Huyền Trang vẫn cảm thấy khó tin: “Vậy… Hai người bọn họ có được luyện tập không? Tình cảm của họ chân thành như thế, có phải ngài đã để cho hai người họ làm quen, phối hợp với nhau hay không?”.

“Trước đó bọn chúng chưa bao giờ gặp đối phương”, Sa Bà Mị nói: “Bọn chúng chỉ biết trong vai diễn của mình sẽ có một người đang chờ đợi mình, chúng sẽ yêu người kia, quấn quýt si mê đến tận xương tủy. Người kia sẽ cùng chúng sống hết cuộc đời này, đến tận kiếp sau. Bọn chúng biết cuộc đời mình là giả dối, nhưng lại không biết cuộc đời của đối phương cũng là giả dối. Đại Thừa Thiên, ngài nói có một điều không sai, bọn chúng đang dành cả đời mình để diễn một vở kịch. Bọn chúng sẵn sàng nhập vai nhân vật này, sẵn sàng hao phí cả đời mình vì nhân vật này, bỏ lại tất cả những tình cảm khác, bỏ cả tính mạng của mình. Từ khi nhập vai, bọn chúng đã sống vì nhân vật này. Cho nên, Đại Thừa Thiên, ngài dẫn bọn chúng đi, bọn chúng có đồng ý không?”.

Huyền Trang hồn xiêu phách lạc, thẫn thờ ngẩng đầu lên nhìn Sa Bà Mị, nhìn Ba Pha, lại nhìn đại sư Giới Hiền, bước chân lảo đảo, xoay người rời khỏi tịnh xá.

°°°

Giới Nhật Vương còn đang chờ đợi, thấy Huyền Trang đi ra, vội vàng hỏi: “Đại sư Giới Hiền thế nào rồi?”.

Huyền Trang hồn xiêu phách lạc, dường như không nghe thấy, yên lặng đi ra ngoài. Giới Nhật Vương và Bà Ni liếc nhau, nghĩ rằng ngài lo lắng cho bệnh tình của đại sư Giới Hiền, bèn thở dài không nói gì nữa.

Na Thuận và Liên Hoa Dạ đang chờ ở một khách xá, trong chùa hỗn loạn, không có ai chú ý tới họ.

Hai người cũng không cảm thấy cô đơn, dựa vào nhau nói những lời âu yếm. Huyền Trang mở cửa đi vào, ngơ ngác nhìn hai người, trong lòng ngọt bùi cay đắng lẫn lộn.

“Sư huynh!” Na Thuận lo lắng bước tới đón: “Ngài không cần quá lo lắng, đại sư Giới Hiền đã có Bồ Tát phù hộ”.

“Còn gọi ta là sư huynh sao?”, Huyền Trang thở dài đắng chát: “Ngươi dùng tính mạng của mình để diễn kịch, cho dù biết là bị lừa, ta vẫn giữ nguyên tình cảm dành cho ngươi như trước kia”.

“Sư huynh, ngài đang nói gì thế?”, Na Thuận ngơ ngác.

“Lúc đầu khi vừa nhìn thấy ngươi, ta không biết ngươi có đúng là Viên Quán chuyển thế hay không, nhưng ta vẫn sẵn sàng dẫn ngươi đi, vén ra từng lớp sương mù, cho ngươi thấy rõ chân tướng của cuộc đời này. Bởi vì các ngươi tin chắc vào tình yêu này, vì thế nó chính là tình cảm tốt đẹp nhất trên đời, không thể khinh nhờn, không thể tổn thương, ta cũng bằng lòng nhìn thấy một kết cục tốt đẹp trên thế gian sinh lão bệnh tử này”.

Huyền Trang nhìn hắn bi thương: “Nhưng kết cục là, thì ra những gì tốt đẹp trên đời này đều phải bị phá hủy, chân tướng luôn xấu xí vô cùng”.

“Sư huynh… Sư huynh…” Na Thuận hoảng lên, lắp bắp nói: “Ngài nói gì ta thật sự không hiểu”.

“Còn muốn lừa ta sao?”, Huyền Trang tức giận: “Ngươi thật sự là Na Thuận sao?”.

“Ta chính là Na Thuận mà!”, Na Thuận tủi thân đáp.

“Ngươi đúng là Viên Quán chuyển thế sao?”, Huyền Trang vặn hỏi.

“Ta…”, Na Thuận biện bạch: “Ta thực sự có nhớ giao tình kiếp trước giữa ta và ngài!”.

“Ngươi thật sự đã yêu Liên Hoa Dạ từ khi còn nhỏ sao?”, Huyền Trang hỏi.

“Đương nhiên rồi!”, Na Thuận sốt ruột: “Sư huynh, điều này ta chưa bao giờ lừa ngài!”.

“Tốt, vậy ta hỏi ngươi”, Huyền Trang hít một hơi: “Ngươi có còn nhớ năm mười tuổi, nhà cửa bị quân đội ngoại tộc phá hủy, ngươi bị trói lại dắt đi như dê lợn. Ngươi quay lại nhìn, nhà cửa và thành trì đang bốc cháy, khói lửa mịt mù, tường thành đổ nát, thi thể phụ mẫu huynh đệ ngươi nằm trong ngọn lửa hừng hực. Ngươi có liều mạng quay lại gào khóc không? Ngươi có vùng vẫy kháng cự không? Ngươi có tràn ngập sợ hãi về con đường phía trước không?”

Na Thuận sửng sốt, hắn nhìn Huyền Trang, nhưng tiêu điểm lại không nằm trên mặt ngài. Ánh mắt dường như xuyên qua nhân thế bể dâu, xuyên qua núi non đại địa, nhìn về thôn làng của người Túc Đặc bên bờ biển Khang Cư bảy năm trước, nơi đó đang có khói lửa bốc lên.

“Ta nhìn thấy rồi, sư huynh” Na Thuận lẩm bẩm nói: “Vó ngựa của người Đột Quyết giẫm lên đầu mẫu thân ta, đầu bà ấy vỡ vụn, máu me đầy mặt. Phụ thân ta cầm trường đao, bị vô số trường mâu đâm thủng. Huynh trưởng ta đang chạy trốn, một mũi tên bắn trúng sau lưng huynh ấy. Sau đó huynh trưởng ta quay đầu lại kêu: Đế Na Phục, chạy mau!”.

Na Thuận rơi lệ nhìn Huyền Trang: “Đế Na Phục, đó là tên ta!”.

“Thế vì sao ngươi lại gọi là Na Thuận?”, Huyền Trang hỏi.

“Đúng vậy! Vì sao ta lại là Na Thuận?”, vẻ mặt Na Thuận hết sức ngỡ ngàng.

Huyền Trang chăm chú nhìn hắn, trái tim dần dần trĩu xuống. Ngài đương nhiên có thể thấy không phải Na Thuận đang giả vờ mà đã thật sự quên mất thân phận của mình trước đây! Không biết rốt cuộc Sa Bà Mị đã làm gì, khiến hắn thật sự dùng tính mạng để đóng vai nhân vật này, đóng vai một người chuyển thế, từ nhỏ đã yêu một cô gái chưa từng gặp mặt. Có thể hắn chưa từng đi hàng trăm quốc gia để tìm nàng, nhưng trong màn diễn giống như thật của hắn, tâm hồn hắn đã đi qua vô số quốc gia, trải hết vô số bể dâu, chỉ vì tìm kiếm cô gái này.

Có lẽ lúc đầu chỉ là diễn kịch, nhưng bây giờ nhân vật này đã xâm nhập vào nội tâm và xương tủy của Na Thuận, hắn đã quên mất chính mình!

“Đại sư, ngài không cần hỏi nữa” Liên Hoa Dạ thướt tha đi tới: “Bọn ta quả thực là đang diễn kịch, hắn và ta đều đang đóng vai một nhân vật được người khác sắp xếp”.

“Ngươi vẫn chưa quên mất chính mình sao?”, Huyền Trang hỏi.

Liên Hoa Dạ lắc đầu: “Ta không giống hắn, nhân vật ta cần nhập vai phải nhớ rõ ba mươi ba kiếp luân hồi, mỗi một kiếp đều phải rõ ràng, sự đau khổ đó mới có thể khiến ta đau tận xương tủy, đau khổ làm ta diễn giống như thật. Còn chính bản thân ta cũng chỉ như một kiếp luân hồi khác mà thôi, muốn nhớ hoặc muốn quên đều không hề có gì quá khó”.

“Vì sao phải nhận lời Sa Bà Mị đi làm chuyện bi thảm như vậy?”, Huyền Trang hỏi.

“Không nhận lời thì có thể thế nào?” Liên Hoa Dạ cười buồn bã: “Chẳng lẽ cuộc sống trước đó thì hạnh phúc à? Chẳng qua chỉ là từ địa ngục này chuyển sang một địa ngục khác mà thôi. Mà trong địa ngục này, ta còn có thể nói với chính mình, đây chỉ là nhân vật ta phải diễn xuất, đều là giả. Đã là giả thì sẽ không còn đau nữa”.

Trong lòng Huyền Trang tràn ngập bi thương, ngài trải bao gian khổ, cửu tử nhất sinh để thành toàn cho họ, không để tình cảm chân thành này bị thế giới dơ bẩn khinh nhờn, nhưng chẳng lẽ tình cảm này cũng là giả hay sao?

“Giữa các ngươi còn có điều gì chân thành không?”, Huyền Trang hỏi.

“Vì sao lại không?” Liên Hoa Dạ đi tới bên người Na Thuận, nhẹ nhàng ôm cánh tay hắn, nói dịu dàng: “Đại sư, ngài không cảm thấy khi bọn ta dốc hết tình cảm cả đời vào cuộc đời Liên Hoa Dạ và Na Thuận, cuộc đời của bọn chúng chính là cuộc đời của bọn ta sao? Trốn tránh phiêu du trong ba mươi ba kiếp luân hồi, vùng vẫy tìm kiếm trong loạn thế mạt pháp, yêu đến cuồng si trong âm mưu và sự khống chế của người khác, cho dù ban đầu là diễn kịch, nhưng sau khi vở kịch này đã rút hết tình cảm cả một đời, ngài nghĩ ta làm sao có thể không yêu hắn?”.

“Liên Hoa Dạ, hai người đang nói gì vậy?” Na Thuận kinh ngạc hỏi: “Vì sao ta nghe không hiểu?”.

“Đại sư đang hỏi, chàng muốn dẫn ta đi đâu?”, Liên Hoa Dạ dịu dàng nói: “Na Thuận, bất kể chàng đi đâu, thiếp đều sẽ đi theo chàng!”.

“Tốt quá!” Na Thuận mặt mày hớn hở: “Liên Hoa Dạ, kiếp này tìm được nàng, chúng ta sẽ không rời xa nhau nữa. Sư huynh, ngài có chúc phúc cho bọn ta không?”.

Huyền Trang không hỏi tiếp nữa, ngài rơi lệ, mỉm cười nhìn Na Thuận: “Ta đương nhiên chúc phúc cho các ngươi. Na Thuận, có tâm nguyện gì, ngươi nói với ta, ta sẽ hoàn thành giúp ngươi”.

Na Thuận suy nghĩ một lát: “Sư huynh, quả thật ta có một tâm nguyện. Ta muốn làm quốc vương!”.

Huyền Trang sửng sốt, ngay cả Liên Hoa Dạ cũng nhìn hắn đầy khó tin.

Na Thuận giải thích: “Sư huynh, ngài còn nhớ vận mệnh của Liên Hoa Dạ không? Sau khi gặp Đề Bà Đạt Đa, nàng sẽ trở thành vương phi. Giờ đây Đề Bà Đạt Đa đã xuất hiện, ta xác nhận hắn chính là Sa Bà Mị. Như vậy bước tiếp theo Liên Hoa Dạ sẽ phải trở thành vương hậu. Ta phải trở thành quốc vương của nàng, nàng phải trở thành vương hậu của ta!”.

Huyền Trang há hốc mồm, vừa định nói gì đó, Liên Hoa Dạ đã cười buồn bã nói: “Đại sư, có thể phấn đấu cả đời để làm một người si tình, chẳng lẽ không phải hạnh phúc sao? Cho hắn biết chân tướng, tất cả đều là giả, hắn sẽ hạnh phúc sao?”.

“Được!” Huyền Trang lau khô nước mắt, mỉm cười: “Bần tăng sẽ giúp ngươi làm một quốc vương!”.

°°°

“Cái gì? Ngài muốn Na Thuận trở thành quốc vương?”, Ba Pha vô cùng kinh ngạc.

Trong tịnh phòng, ba người đại sư Giới Hiền, Ba Pha và Sa Bà Mị nghe Huyền Trang nói ra yêu cầu đều kinh ngạc.

Huyền Trang gật đầu: “Bần tăng đời này chưa từng ép buộc người khác bao giờ, cũng chưa từng trao đổi với ai cái gì, nhưng hôm nay bần tăng sẽ dùng chân tướng kế hoạch luân hồi này trao đổi lấy một quốc vương. Điều kiện của bần tăng chính là như vậy, các vị làm cho Na Thuận trở thành quốc vương, bần tăng giữ kín chuyện này, lên đường về Đại Đường”.

Ba Pha với Sa Bà Mị đưa mắt nhìn nhau, đều có chút do dự.

“Trở thành quốc vương cũng không phải việc khó”, đại sư Giới Hiền đột nhiên nói: “Các lãnh chúa lớn nhỏ đều có thể xưng là quốc vương, chỉ có quốc thổ lớn nhỏ khác nhau mà thôi. Sa Bà Mị, cởi dây phải tìm người buộc dây, việc này sẽ giao cho ngài giải quyết!”.

Sa Bà Mị nhếch miệng cười gượng, lại không từ chối. Ông ta biết rõ tính cách Huyền Trang, người này vì Na Thuận mà không ngừng tranh đấu với mình, cuối cùng gần như phá vỡ tất cả các phép thuật của mình. Ông ta có thể nói là cực kỳ e ngại Huyền Trang, có thể dùng cách này đổi lấy sự thỏa hiệp của Huyền Trang, trước kia đúng là không dám nghĩ. Vị hòa thượng này có bao giờ chịu thỏa hiệp với ai?

Sa Bà Mị không còn cách nào, đành phải đáp ứng.

Ba Pha hỏi nhỏ Sa Bà Mị: “Tôn giả, làm cho một người bình thường trở thành quốc vương, có khác nào một trò đùa? Vì sao ngài lại đáp ứng?”.

Sa Bà Mị cười cười: “Đại sư, ngài có e ngại tên Huyền Trang này không?”.

Ba Pha im lặng gật đầu, ông ta và Huyền Trang tiếp xúc không nhiều, nhưng tăng nhân này vẫn khiến ông ta cực kỳ e ngại. Hôm qua mới chỉ phá giải kế hoạch tầng thứ nhất của chúng ta trước mặt đại sư Giới Hiền, nếu để hắn ở lại Thiên Trúc lâu hơn vài năm, chỉ sợ kế hoạch cuối cùng cũng sẽ bị hắn phá vỡ. Đến khi đó chẳng phải kế hoạch mà ngài và ta vạch ra hàng chục năm sẽ bị hủy hoại trong chốc lát hay sao?”.

Ba Pha biến sắc mặt: “Hắn thật sự có thể nhìn ra mục tiêu cuối cùng của kế hoạch này sao?”.

“Người này mặc dù không thể nói là có thiên nhãn thông, nhưng vạn vật trên thế gian đều hiện rõ trước mắt hắn, không sao che giấu được.” Sa Bà Mị than thở: “Trước đó ta đã giao phong với hắn mấy lần, mặc dù không thể nói là đều thất bại nhưng cũng vô cùng chật vật. Hắn không hoàn toàn nhìn thấu kế hoạch của chúng ta không phải là hắn nhìn không ra, mà là kế hoạch này kéo dài hàng chục năm, xuyên qua vô số quốc gia, đã trở thành một hệ thống khổng lồ phức tạp. Bây giờ hắn đã bóc được lớp thứ nhất, nếu cho hắn thời gian, ai có thể đảm bảo hắn sẽ không đánh thẳng vào trọng tâm?”.

Ba Pha gật đầu, sắc mặt trở nên nghiêm nghị: “Vậy thì bất kể phải trả giá lớn thế nào cũng phải để hắn về Đại Đường. Yêu cầu hắn đưa ra mặc dù khó nhưng cũng không phải là không thể hoàn thành. Ngài và ta hợp lực nhất định có thể làm Giới Nhật Vương phong cho hắn làm một lãnh chúa”.

“Nếu là lãnh chúa thì dễ hơn nhiều”, vỗ tay, vui sướng nói: “Lãnh chúa cũng coi như là quốc vương! Na Thuận và Liên Hoa Dạ là thuốc trường sinh của Giới Nhật Vương, hừ, muốn trường sinh, sắc phong một lãnh chúa có là cái gì? Ta sẽ đi gặp Giới Nhật Vương ngay!”.

Sa Bà Mị rời khỏi đây, lập tức cầu kiến Giới Nhật Vương, thuyết phục Giới Nhật Vương phong Na Thuận làm quốc vương, trở thành một lãnh chúa nhỏ. Giới Nhật Vương mới đầu kinh ngạc, sau khi hỏi kỹ lập tức cười to không ngừng. Giới Nhật Vương có cả bốn biển, vì trường sinh sẵn sàng trả giá, lập tức đồng ý, nói với Sa Bà Mị: “Ngoài thành Khúc Nữ có một ấp tên là Phạn Đế Đà, có mấy trăm hộ gia đình. Ta sẽ phong ấp này cho Na Thuận, đế hắn được làm một quốc vương”.

Tin tức truyền đến, Na Thuận vô cùng vui sướng. Các lãnh chúa lớn nhỏ ở Thiên Trúc, lớn có lãnh địa hàng ngàn dặm, nhỏ chỉ có mấy tòa thành. Lãnh địa của mình mặc dù nhỏ nhưng dù sao cũng là quốc vương danh chính ngôn thuận, mấy trăm hộ gia đình này là con dân của mình, toàn bộ thuế má cũng là của mình.

Na Thuận sợ Giới Nhật Vương đổi ý, lập tức xin ông ta hạ chỉ, cầm công văn sắc phong chạy tới thành Khúc Nữ tiếp nhận đất phong. Huyền Trang nhìn vẻ hưng phấn và kích động của hắn, trong lòng chua xót, tiễn hắn đến ngoài chùa Na Lan Đà.

“Vì sao sư huynh lại đau buồn?” Na Thuận nói: “Từ nay trở đi ta chính là quốc vương! Chuyện đầu tiên ta làm chính là cưới Liên Hoa Dạ làm vương hậu của ta. Ngài xem, mặc dù tất cả đều phát triển theo đúng vận mệnh, nhưng lần này quốc vương là ta, Liên Hoa Dạ là vương hậu của ta! Ta sẽ mãi mãi bảo vệ nàng, tuyệt đối không để kẻ nào đánh vỡ đầu nàng dưới tường thành!”.

Liên Hoa Dạ dịu dàng nhìn hắn: “Na Thuận, chàng thật sự rất dũng cảm. Trên đời này mấy người có thế trở thành quốc vương, nhưng chàng đã làm được. Na Thuận, thiếp sẽ làm vương hậu của chàng thật tốt, sinh con đẻ cái cho chàng, suốt đời suốt kiếp không xa rời nhau”.

“Sai rồi!” Na Thuận nghiêm túc nói: “Đời đời kiếp kiếp cũng không xa rời nhau. Liên Hoa Dạ, ta tìm nàng quá khổ cực, kiếp này tìm được nàng, ta vĩnh viễn sẽ không buông tay nữa”.

Trong lòng Huyền Trang rất nặng nề. Ngài cảm thấy mọi chuyện rất mông lung, nếu Na Thuận sống cả đời này trong vai nhân vật của mình, có lẽ hắn sẽ rất hạnh phúc.

Huyền Trang đưa tiễn hai người trong nắng sớm. Nhìn chiếc xe ngựa biến mất trong dãy núi nhấp nhô, dường như bóc ra một mảng máu thịt sạch sẽ từ thế gian nhơ nhớp này.

Huyền Trang vẫn còn đứng trước cửa chùa Na Lan Đà, đột nhiên vô số cấm vệ sát đế lợi từ trong chùa thúc ngựa lao ra, ở giữa là liễn xa của Giới Nhật Vương. Tất cả mọi người đều vô cùng sốt ruột. Huyền Trang vội vàng tránh sang một bên thi lễ.

Giới Nhật Vương từ trên xe vươn người ra: “Đại sư, ta phải đến thành Khúc Nữ ngay, không cáo biệt đại sư được”.

“Bệ hạ, xảy ra chuyện gì vậy?”, Huyền Trang hỏi.

Bà Ni bên cạnh đáp: “Người Ba Tư vượt sông Ấn, Y Tự Hầu đệ tam khai chiến rồi!”.

Huyền Trang kinh ngạc, lúc này chiếc liễn xa được cấm vệ sát đế lợi vây quanh đã đi xa như cuồng phong bão táp.

Cuộc chiến tranh ấp ủ hơn hai năm này cuối cùng cũng sắp bùng nổ rồi.

°°°

Nguyên nhân của chuyện này chính là kế hoạch diệt quốc mà Vương Huyền Sách vạch ra nửa năm trước. Hôm đó Vương Huyền Sách gặp Y Tự Hầu đệ tam ở thành Khúc Nữ, khuyên Y Tự Hầu đệ tam tiến lên Thổ Hỏa La phía bắc, cùng Đại Đường liên hợp giáp công Dục Cốc Thiết. Nhưng Y Tự Hầu đệ tam không hề đưa tộc nhân lên bắc theo kế hoạch này, chỉ phái thám báo phác họa địa đồ các quan ải và chú ý đến tình hình chiến sự giữa Dục Cốc Thiết và Bạc Bố. Có điều Vương Huyền Sách cũng không hoàn toàn đặt thành bại của kế hoạch trên người Y Tự Hầu đệ tam, sau khi trở lại Trường An, hắn lập tức thông qua đám thương nhân tung tin đồn trên Con đường Tơ lụa, nói Đại Đường và Ba Tư đã đạt thành thỏa thuận, ủng hộ Y Tự Hầu đệ tam lên Thổ Hỏa La, tiêu diệt Dục Cốc Thiết.

Dục Cốc Thiết nhanh chóng nghe thấy tin tức này, hết sức kinh hãi. Giờ đây hắn đang giằng co với Bạc Bố trên đại thảo nguyên, nếu người Ba Tư đánh lén từ sau lưng, quân đội của hắn chắc chắn sẽ sụp đổ.

Dục Cốc Thiết không hành động thiếu suy nghĩ, hắn chính là một đấng kiêu hùng, không hề do dự. Trước hết hắn đưa ra một loạt hành động đánh lạc hướng Bạc Bố, sau đó bí mật chia quân, tự mình dẫn đại quân đi vòng hai ngàn dặm tấn công Thổ Hỏa La. Quốc vương Thổ Hỏa La lúc này là A Sử Na Ô Thấp Ba hoàn toàn không ngờ Dục Cốc Thiết lại liều lĩnh tập kích mình như thế. Mặc dù có quan ải hiểm yếu nhưng thứ nhất là không có phòng bị, thứ hai là quân tinh nhuệ phần lớn đã được điều đi giúp Bạc Bố rồi, vì thê bị Dục Cốc Thiết đánh hạ thành A Hoãn, A Sử Na cũng bị bắt làm tù binh.

Sau khi chiếm thành A Hoãn, đầu tiên Dục Cốc Thiết cho cướp bóc ba ngày, sau đó lập tức đánh chiếm các cửa ải ở phía đông nam thành A Hoãn, đề phòng người Ba Tư lên bắc. Phú thương và quý tộc quanh thành A Hoãn đều chạy trốn, đại đa số trốn đến đất Na Kiệt[164], xem chiến cuộc phát triển thế nào.

Sự kiện này có ghi lại trong Cựu Đường thư như sau: Đốt Lục (Dục Cốc Thiết có danh hiệu là khả hãn Ất Bì Đốt Lục) dẫn quân đánh phá Thổ Hỏa La. Tự phụ mạnh mẽ, hoành hành Tây Vực.

Dục Cốc Thiết công chiếm Thổ Hỏa La dẫn tới sóng to gió lớn. Đứng mũi chịu sào chính là Y Tự Hầu đệ tam.

Theo lí thuyết, đề nghị của Vương Huyền Sách thật sự xem như diệư kế, mặc dù thực hiện rất khó khăn, lại có thể khiến người Ba Tư thoát ra khỏi lồng, trời cao biển rộng. Trên thực tế, ba năm sau Y Tự Hầu đệ tam đến bước đường cùng cuối cùng vẫn đi con đường này, hợp quân với quốc vương Thổ Hỏa La, lấy Thổ Hỏa La làm cứ điểm chống cự người Đại Thực, có sự trợ giúp của Đại Đường, vùng vẫy được hai mươi năm.

Tuy nhiên lúc này vì Y Tự Hầu đệ tam do dự mà con đường này đã bị Dục Cốc Thiết cắt đứt, cục diện của người Ba Tư trở nên hiểm ác hơn. Mặt tây có người Đại Thực nhìn chằm chằm, mặt đông có Giới Nhật Vương chặn bên sông Ấn, mặt bắc có Dục Cốc Thiết có thể về nam bất cứ lúc nào, còn mặt nam? Theo sông Ấn đi về phía nam vài trăm dặm chính là biển cả mênh mông…

Y Tự Hầu đệ tam và Giới Nhật Vương đàm phán thất bại, vừa trở lại tòa thành ở Càn Đà La đã nghe thấy tin dữ này. Ông ta lập tức ngây người, hối hận tím tái cả ngũ tạng, bỏ vương miện xưống, chạm đầu xuống đất, khóc lóc: “Vì sao mỗi một quyết định của ta đều sai lầm? Lúc đầu ta vì bảo tồn thánh hỏa mà vứt bỏ quốc gia, bây giờ ta thương tính mạng con dân mà không lên Thổ Hỏa La, lại khiến tính mạng của tất cả mọi người gặp nguy hiểm. Chẳng lẽ ta thật sự không thích hợp làm quân vương hay sao? Nhưng vì sao ông trời lại đặt trách nhiệm này lên vai ta?”.

Lúc này đại ma cát và Phi Lỗ Tán lặng lẽ đi vào. Đại ma cát an ủi: “Bệ hạ, ngài tâm địa thiện lương, cho nên mọi người mới sẵn sàng đi theo ngài. Cục diện thay đổi trong nháy mắt, ngài tự trách cũng có ích gì?”.

Y Tự Hầu đệ tam đứng dậy, lại lảo đảo ngã bệt xuống đất, dựa lưng vào tế đàn, ngơ ngác không nói.

“Bệ hạ, đường lên bắc bị bóp chết, giờ đây chúng ta chỉ còn một con đường vượt sông Ấn”, đại ma cát than thở.

“Ha ha… Ha ha!” Y Tự Hầu đệ tam cười, vẻ mặt lại tuyệt vọng, nghiến răng nghiến lợi: “Ông trời đối xử với ta đúng là không tệ! Bất kể ta có một tia hi vọng nhỏ nhoi nào đều phải dập tắt nó!”.

Ông ta giận dữ đứng lên, chạy đến giữa thần điện, giận dữ hét lên: “Ta là người bị trời cao vứt bỏ sao?”.

Phi Lỗ Tán và đại ma cát cũng có chút tuyệt vọng, yên lặng đứng trong thần điện.

“Phi Lỗ Tán, lệnh các dũng sĩ chuẩn bị hi sinh đi!” Một hồi lâu sau, Y Tự Hầu đệ tam nói nhỏ.

Phi Lỗ Tán ngẩn ra: “Bệ hạ?”.

“Không còn hi vọng nữa, chỉ còn cách vượt sông Ấn”, Y Tự Hầu đệ tam lẩm bẩm nói: “Ta phải khai chiến!”.

“Bệ hạ suy tính cẩn thận, bây giờ Giới Nhật Vương đã có phòng bị, không phải thời cơ tốt để khai chiến!”, Phi Lỗ Tán khuyên nhủ.

“Thời cơ tốt?” Y Tự Hầu đệ tam cười thảm: “Ông trời đã cho ta thời cơ tốt, nhưng ta lại trơ mắt vứt bỏ nó. Lúc này bất kể là vua Đại Thực hay là Đột Quyết, Thiên Trúc đều đang cười ta đúng không? Cười ta hèn nhát vô năng, do dự thiếu quyết đoán, ta lại muốn cho bọn chúng xem, người Ba Tư rốt cuộc có dũng cảm hay không! Ý ta đã quyết, nhất định phải vượt sông!”.

Y Tự Hầu đệ tam truyền xuống chiếu lệnh, người Ba Tư phân bố ở các nơi trong Càn Đà La nghe tin liền bắt đầu tập kết. Cả Càn Đà La câm như hến, đều biết một trận huyết chiến sắp bùng nổ, ai cũng không dám cản trở. Quốc vương Càn Đà La ra lệnh đóng cổng thành, ngày đêm canh gác. May mà người Ba Tư không hề làm phiền bọn họ, chỉ tập kết ở phía đông thành Phú Lâu Sa, xây dựng doanh trại khổng lồ, trong doanh trại có năm sáu vạn quân Ba Tư trấn giữ các cửa ải.

Thời kỳ Tát San Ba Tư, binh chủng chủ yếu chia thành xa binh, bộ binh, kỵ binh, ngoài ra chính là hạm đội. Xa binh cực kỳ tốn kém, lúc đế quốc hùng mạnh nhất cũng chỉ có quy mô hai trăm chiếc, bây giờ đã không thể duy trì được. Còn hạm đội chủ yếu do các thuộc quốc ven bờ Địa Trung Hải như Phì Nê Cơ[165] (Phoenician) cung cấp, sau khi Ba Tư vong quốc, hạm đội cũng hoàn toàn bị hủy diệt, bây giờ chỉ còn lại bộ binh và kỵ binh.

Tuy nhiên vượt sông Ấn phải dựa vào hạm đội. Thống soái Phi Lỗ Tán sớm đã thu gom rất nhiều thuyền đánh cá, cải tạo thành chiến hạm, dù sao hạm đội của đế quốc Giới Nhật cũng không mạnh, người Ba Tư muốn đánh vẫn phải đổ bộ tiến đánh, hai bên so đấu đến cuối cùng vẫn dựa vào bộ binh và kỵ binh.

Phi Lỗ Tán trưng thu khoảng ba trăm chiếc thuyền đánh cá, chở vũ khí và chiến mã, một đợt có thể đưa tám ngàn người qua sông. Nhiệm vụ lớn nhất của tám ngàn người đầu tiên qua sông chính là chiếm lĩnh một trận địa bên bờ sông, chặn đứng thế công của Giới Nhật Vương, tiếp ứng đại quân qua sông.

Y Tự Hầu đệ tam đứng trên đài chỉ huy xây dựng bên bến đò, nhìn ba trăm chiến hạm giương buồm chuẩn bị xuất phát chạy sang bờ bên kia. sắc mặt ông ta tái nhợt, tay căng thẳng nắm quyền trượng vàng, ngay cả năm ngón tay cũng trắng bệch.

Ông ta không thể không căng thẳng, nghe nói quân đoàn Thiên Trúc cũng đã bắt đầu tập kết ở bờ bên kia. Trên sông Ấn, cột buồm san sát, vô số chiến thuyền đi lại trên mặt sông. Còn bến sông ở bờ bên kia cũng đã bố trí chiến thuyền xong xuôi, kỵ binh qua lại, một doanh trại thủy quân quy mô lớn được xây dựng. Vô số thợ thủ công dựng tường trại lều bạt, phụ binh và nô bộc vận chuyển xe vật tư, cảnh tượng tấp nập.

Sống hay chết, vùng vẫy do dự đã rất lâu, kết cục vẫn phải đưa ra lựa chọn này.

°°°

Trong bầu không khí chiến sự gấp gáp này, Huyền Trang rời khỏi chùa Na Lan Đà, bước lên con đường về Đại Đường dài đằng đẵng. Từ năm Trinh Quán thứ ba bắt đầu Tây du, cho tới bây giờ đã mười hai năm, ngài vân du Thiên Trúc mười năm, dường như mới chỉ trong chớp mắt.

Mười bảy năm trước đại sư Giới Hiền lập kế hoạch tìm người đi lấy kinh chính là vì hôm nay. Đại sư Giới Hiền hạ lệnh mở kinh viện, chọn ra năm trăm hai mươi sáu kẹp, tổng cộng sáu trăm năm mươi bảy bộ kinh Phật, một trăm năm mươi hạt xá lị Phật để Huyền Trang mang về Đại Đường. Kinh Phật chất đống như núi, chất đầy năm sáu chiếc xe ngựa. Chùa Na Lan Đà phái tịnh nhân hộ tống, thành lập một đội xe khổng lồ đi cùng Huyền Trang lên đường hồi cố quốc.

Một số tăng chúng chùa Na Lan Đà tỏ ý bất mãn khi thấy Huyền Trang được hậu đãi như thế, cho rằng những kinh thư này đều là của quý trong chùa, không thể mang đến Đại Đường. Đại sư Giới Hiền lập tức thăng tọa, tuyên bố Huyền Trang chính là tượng Phật đàn hương chuyển thế, bây giờ vừa đúng là một ngàn hai trăm năm sau khi Phật Đà niết bàn, ứng lời dặn dò của Phật Đà, tiến về Chấn Đán tạo phúc cho người đời.

Nhất thời mọi người ở chùa Na Lan Đà đều kinh ngạc. Tượng Phật đàn hương này thật sự có lai lịch rất lớn. Theo Kinh Tăng Nhất A Hàm ghi lại, lúc Phật Đà tại thế có một lần đến tầng trời thứ ba mươi ba là Đao Lợi[166] để giảng Phật pháp cho thân mẫu là Ma Gia phu nhân, ba tháng không về nhân gian. Quốc vương Ưu Điền tưởng niệm Phật Đà, sai thợ thủ công dùng gỗ đàn hương tạo một pho tượng Phật Đà. Phật Đà từ tầng trời Đao Lợi trở lại nhân gian, quốc vương Ưu Điền và mười đại đệ tử của Phật Đà tới tấp đi đến nghênh đón, còn pho tượng Phật đàn hương này cũng bay lên trời nghênh đón Phật Đà. Sau khi nhìn thấy tượng Phật đàn hương, Phật Đà liền xoa đầu trao cho ký chứng thành Phật, nói: Sau khi ta niết bàn ngàn năm, ngươi tới Chấn Đán phổ độ chúng sinh.

Chấn Đán chính là Trung Nguyên ở Đông Thổ. Pho tượng Phật đàn hương này mới đầu được thờ ở Thiên Trúc, ba trăm năm trước từ Thiên Trúc truyền vào Quy Từ, hai trăm năm trước cao tăng Cưu Ma La Thập đưa đến Lương Châu ở Cam Túc, sau đó đến Trường An. Đây là sứ mệnh mà Phật Đà đã an bài cho nó. Từ khi Phật Đà nhập diệt đến bây giờ vừa đúng một ngàn hai trăm năm[167].

Đại sư Giới Hiền nói như thế chính là tuyên bố Huyền Trang là tượng Phật đàn hương chuyển thế, kiếp này được Phật Đà giao nhiệm vụ đến Đại Đường Trung Nguyên hoàn thành nguyện vọng của Phật Đà.

“Đệ tử Đề Bà Nô của ta, Hán danh Huyền Trang, tu hành mười kiếp, kiếp này sẽ được thành Phật. Hiệu là Chiên Đàn Công Đức Phật”, đại sư Giới Hiền tuyên bố.

Huyền Trang hiểu đây là một cách tạo thế, mục đích là muốn ngài mang theo danh vọng lớn trở về Đại Đường, hoàn thành đại nghiệp truyền kinh. Danh vọng này có uy lực vô cùng, một khi xác định chuyện kiếp trước chính là tượng Phật đàn hương, toàn bộ giới Phật giáo ở Ngũ Thiên Trúc đều sẽ coi ngài là người đứng đầu. Trở lại Đại Đường, giới Phật giáo Đại Đường cũng coi ngài là người đứng đầu, chỉ cần ngài còn sống một ngày, Phật giáo liền có thể hưng thịnh một ngày.

Nhưng ngài biết rõ mình là một người bình thường, không hề có lai lịch đặc biệt gì.

Phật Đà đã nói, vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Ngài dựa vào một chút Phật tính phân bố đều đều giữa chúng sinh này để truy tìm đại đạo kiếp này. Trong quá trình này sẽ gặp phải mê hoặc vô cùng vô tận, ngài khuyên răn chính mình ghi nhớ một điều: Châm một ngọn đèn trong lòng mình. Có ngọn đèn này soi sáng dẫn đường sẽ không đi lạc bước nhầm. Trong cuộc đời ngài, tu hành là viên mãn tự thân, nếu như vì hưng suy của Phật môn, hưng vong của vương triều mà tắt ngọn đèn trong lòng đi, vậy thì tu đến cuối cùng sẽ chỉ tu vào Nê Lê ngục, hóa thành dạ xoa mãnh quỷ không còn Phật tính.

Trong ánh tịch dương, Huyền Trang quay lại, chắp tay cúi chào từ biệt đại sư Giới Hiền, từ biệt chùa Na Lan Đà, lên đường về cố quốc.

Đường về phải đi qua thành Khúc Nữ, Na Thuận và Liên Hoa Dạ liền đi cùng Huyền Trang. Đội ngũ cuồn cuộn đi nửa tháng mới đến thành Khúc Nữ. Bao phủ dưới mây đen chiến tranh, thành Khúc Nữ cũng rất rối ren, quân đội Giới Nhật Vương chiêu mộ đã lũ lượt đến nơi, quân tiên phong cũng đã xuất phát mấy ngày trước.

Giới Nhật Vương đích thân dẫn trung quân, đang chuẩn bị xuất phát, nghe tin Huyền Trang về Đại Đường vẫn dành thời gian tới gặp ngài. Đồng minh thép của Giới Nhật Vương là quốc vương Cưu Ma La cũng dẫn quân đội đến, liền cùng đi đưa tiễn Huyền Trang. Giới Nhật Vương muốn tặng Huyền Trang một con voi lớn, ba ngàn đồng vàng, một vạn đồng bạc cùng với vật tư cần dùng trên đường. Huyền Trang từ chối, chỉ lấy một chiếc áo choàng đế phòng trời mưa.

Giới Nhật Vương đành phải nghe lời ngài, sau khi hàn huyên vài câu liền cùng quốc vương Cưu Ma La, Bà Ni dẫn ba vạn trung quân lần lượt xuất phát. Quân đội phía sau cuồn cuộn không ngừng, kéo dài hơn mười dặm.

Giới Nhật Vương không quên chuyện sắc phong Na Thuận làm lãnh chúa, đích thân ra lệnh giao ấp Phạn Đế Đà ngoài thành Khúc Nữ cho Na Thuận. Na Thuận cực kỳ vui sướng, dẫn Liên Hoa Dạ và Huyền Trang đến xem xét. Ấp này có khoảng bốn năm trăm hộ gia đình, theo chế độ lãnh chúa của Thiên Trúc, đây chính là lãnh địa của Na Thuận. Mấy trăm hộ gia đình này chính là thần dân của Na Thuận, phải nộp thuế phú.

Tính cả đất ruộng, phạm vi ấp rộng ba mươi dặm, lưng dựa vào sông Hằng, đất đai màu mỡ. Trên một ngọn đồi bên sông Hằng còn có một hành cung, nghe nói trước kia Giới Nhật Vương từng có thời gian ngắn cư trú ở đó. Mặc dù quy mô không lớn nhưng cũng là quy cách dành cho đế vương. Na Thuận rất vui vẻ, bàn với Liên Hoa Dạ: “Chứng ta tu sửa tòa hành cung này một chút, từ nay sẽ sống ở đây, được không?”.

Liên Hoa Dạ dịu dàng nhìn hắn, nói: “Sau này chàng chính là quốc vương, không cần chuyện gì cũng thương lượng với thiếp”.

Na Thuận cười to: “Quốc gia này của chúng ta, đại sự duy nhất chính là làm cho nàng vui vẻ”.

Na Thuận đứng trước cửa hành cung hùng vĩ, ngắm nhìn mấy trăm hộ dưới chân núi, nói một cách đắc ý: “Đại sư, từ nay về sau ta chính là quốc vương roi!”.

“Quốc gia này có tên không?”, Huyền Trang cười hỏi.

Na Thuận gãi đầu: “Đúng rồi, còn phải có tên nữa. À, gọi là Đế Na Phục!”.

“Đế Na Phục?” Huyền Trang ngạc nhiên, đột nhiên nhớ tới tên thật của hắn, chẳng lẽ hắn thật sự nhớ lại chính mình là ai rồi sao: “Vì sao lại gọi như thế?”.

Na Thuận suy nghĩ một lát, lắc đầu: “Không biết… không biết vì sao, cái tên này đột nhiên xuất hiện trong đầu. Ta không biết nó có quan hệ gì với ta, nhưng rất muốn làm cho cái tên này lưu truyền trên thế gian”.

Huyền Trang và Liên Hoa Dạ nhìn nhau một cái, Liên Hoa Dạ nhẹ nhàng lắc đầu, trên mặt lộ vẻ cầu khẩn.

Huyền Trang im lặng.

Na Thuận hưng phấn chỉ xung quanh: “Ta phải sai người xây tường cao ba cung xung quanh hành cung này, bao cả ngọn đồi lại. Bốn góc tường thành còn phải xây tháp canh…”.

Huyền Trang nghẹn lời. Ba cung, theo đơn vị chiều dài Thiên Trúc, một cung bằng sáu thước Đại Đường, độ cao của tường thành này lên tới năm mét tư, còn cao hơn cả tường thành Khúc Nữ!

“Vì sao phải xây tường cao như thế?”, Huyền Trang tò mò hỏi.

Na Thuận yên lặng một lát, chậm rãi nói: “Ta vĩnh viễn không thể quên được, trong mỗi một kiếp luân hồi, Liên Hoa Dạ đều chết dưới tường vương cung. Bây giờ trở thành quốc vương, ta phải xây tường cao để người không thể vượt qua, chim chóc không thể bay qua, yêu tà không thể trèo qua. Ta phải ngày ngày canh gác ngoài cửa cung, sẽ không để bất kỳ ai làm hại Liên Hoa Dạ!”.

Liên Hoa Dạ không biết là cảm động hay là thương cảm, chậm rãi áp má vào ngực hắn: “Nếu có thể ở bên nhau cả đời, cho dù kiếp này thiếp không bước ra khỏi vương cung một bước cũng cam lòng”.

Nhìn Na Thuận tràn đầy hạnh phúc, Huyền Trang cảm thấy trong lòng vô cùng xót xa. Vòng luân hồi này rõ ràng chỉ là một vở kịch, lại khiến đôi nam nữ này sống chết không đổi. Mặc dù một người vẫn hóa thân vào nhân vật, một người sớm đã tỉnh táo lại, nhưng vậy thì đã sao? Chỉ cần tình yêu của bọn họ là thực, đối với bọn họ, trên đời này đâu có thứ gì là hư ảo nữa?

Na Thuận nói làm liền làm, ngày hôm sau liền chiêu mộ nhân lực trong toàn ấp, bắt đầu xây dựng tường vương cung.

Huyền Trang không đành lòng xem tiếp, chỉ ở lại một đêm liền cáo từ mà đi. Na Thuận lưu luyến đưa tiễn: “Sư huynh, chờ ta chiến thắng vận mệnh rồi sẽ đến Trường An thăm ngài. Năm xưa ngài táng di thể của ta trên gò Bạch Lộc, ta đã nói, có lẽ có một ngày ngài cũng sẽ được chôn trên gò Bạch Lộc, đến lúc đó chúng ta còn sẽ gặp lại nhau”.

Hắn nghiêm túc nói, hoàn toàn không biết đây chỉ là một câu thoại mà người khác dạy cho hắn. Hắn còn nhớ đến tình nghĩa với Huyền Trang kiếp trước, có lẽ còn có thế nhớ năm đó bọn họ gặp nhau trong núi Hà Lạc, hắn gảy đàn cổ, kinh động năm tháng bể dâu.

Huyền Trang chậm rãi rơi lệ, lại nở nụ cười, phất tay áo xoay người đi.

Trên đường lớn từ thành Khúc Nữ đến sông Ấn toàn là đại quân kéo dài liên miên đi về phía Thản Xoa Thủy La[168] (Taksasilã).

Tòa thành nhỏ bên bờ sông Ấn này giờ đã thành nơi đóng quân của đại quân Giới Nhật Vương, quân đội trên khắp Thiên Trúc nghe hiệu triệu mà tới, lương thảo khí giới đều tập kết đến nơi này.

Đường Thiên Trúc gập ghềnh khó đi, dù ở khu vực đồng bằng cũng không hề bằng phẳng, cùng với khí hậu ẩm ướt mưa nhiều, vừa có xe ngựa đi qua liền để lại vết bánh rất sâu. Bây giờ đường lớn đều đã bị quân đội chiếm hết, khách buôn và bách tính đều phải tránh sang hai bên đường, sau khi quân đội đi qua mới được phép đi tiếp. May mà việc Huyền Trang hồi cố quốc được coi là sự kiện lớn của cả Thiên Trúc, bất kể là quân đội hay khách buôn, vừa thấy đội xe của Huyền Trang đi qua thì đều tỏ ra kính cẩn lễ phép. Trên đường đi, Huyền Trang gần như luôn song hành cùng với quân đội viễn chinh.

Mấy ngày sau, đột nhiên quân đội tăng tốc, bỏ lại quân nhu lương thực, hành quân cấp tốc.

Huyền Trang sai người đi nghe ngóng mới biết: Khai chiến rồi!

[*] [165] Phì Nê Cơ hay Phoenicia là một nền văn minh cổ đại năm ở miền bắc khu vực Canaan cố đại, với trung tâm nằm dục vùng eo biến Liban, Syria, và bắc Israel ngày nay. Nền văn minh Phoecinia là một nền văn minh dựa vào thương mại hàng hải trải khăp Địa Trung Hái trong suốt thời kỳ từ năm 1550 TCN tới năm 300 TCN.

[*] [166] Đao Lợi là tiếng Phạn, nghĩa là ba mươi ba. Nhưng Đao Lợi Thiên không phải tầng trời trên cùng mà là tầng trời trung tâm, mỗi phía đông tây nam bắc có tám cõi trời khác, tổng cộng có ba mươi hai cõi trời xung quanh. Người cai quàn cõi trời này là Đế Thích. (Chú thích của dịch giả)

[*] [167] Về tượng Phật đàn hương có thể xem thêm “Đàn hương Phật tượng ký” của Trình Cự Phu thời Nguyên. Tượng Phật đàn hương từ Thiên Trúc đưa vào Trung Quốc, từ sau thời kỳ thập lục quốc đến tận đời Thanh đều có ghi chép đầy đủ về quá trình lưu chuyên, lần lượt được thờ cúng tại Lương Châu, Trường An, Giang Nam, Biện Kinh, Thượng Kinh, Băc Kinh. Đến thời Quang Tự nhà Thanh, liên quân tám nước đánh chiếm Bắc Kinh, tượng đàn hương bị người Nga cướp đi, mang về Nga, từ đó không rõ tăm tích. (Chú thích sách gốc).

[*] [168] Thán Xoa Thủy La - Taksasilă hay Taxila là một thành phố và một địa điểm khảo cố quan trọng ờ hạt Rawalpindi, tình Punjab, Pakistan. Taxila cách Islamabad và Rawalpindi chừng 32 km về phía tây bắc, và năm ở độ cao 549 mét trên mực nước biến. Taksasilã cổ nằm ở điểm giao lưu quan trọng giữa An Độ, Tây A, và Trung Á.

[*] [169] Phạt Lạt Nã hay Phạt sắc Noa theo ghi chép của “Đại Đường Tây Vực ký” của đại sư Huyền Trang có ghi lại như sau: “Chu vi hơn 4000 dặm, đô thành chu vi hơn 20 dặm. Dân chúng giàu có, nhưng lệ thuộc Ca Tất Thí. Đất đai chủ yếu là rừng núi, ít lúa gạo. Khí hậu tương đối lạnh, phong tục thô bạo. Tánh tình nóng nảy, ý chí yếu. Ngôn ngữ không mấy giống Trung Ấn Độ, tin theo cả chánh lẫn tà…”.