Chương 17 Sông Ấn Độ - chiến trường vây thành
Bờ bên kia sông Ấn, trên một ngọn đồi cao.
Một đài cao đã được xây dựng, Giới Nhật Vương đứng trên đài nhìn cột buồm san sát trên sông Ấn. Hơn mười tướng quân đứng sau lưng ông ta chờ đợi mệnh lệnh.
“Doanh trại của ta trấn giữ ngay bến đò, xem ra người Ba Tư dự định qua sông từ hạ lưu”, Giới Nhật Vương cười nói: “Bọn chúng không có ý định quyết chiến trên mặt nước với ta mà muốn đô bộ tiến đánh. Vậy thì ta sẽ không đê cho bọn chúng được như ý”.
Giới Nhật Vương quay lại hạ lệnh: “Truyền mệnh lệnh của ta, hạm đội đế quốc khẩn cấp chặn đánh, mục đích chính là phá hủy tàu thuyền quân địch!”.
Tướng quân chỉ huy hạm đội nhận lệnh đi, một lá cờ dựng lên trong trại doanh trên sông, từng chiến thuyền chạy ra ngoài doanh trại, giương buồm xuôi xuống hạ lưu chặn đánh chiến thuyền Ba Tư.
Hạm đội hai bên gặp nhau giữa sông Ấn, huyết chiến thảm khốc lập tức bùng nổ.
Cách đó tám mươi trượng, hạm đội của người Ba Tư phát động tấn công trước. Ba Tư có nhiều dầu hỏa, trong chiến tranh với Bái Chiêm Đình kéo dài bốn trăm năm đã sử dụng rất nhiều dầu hỏa. Họ đựng dầu hỏa trong vò sành, nút bằng vải trắng, cho vào trong túi bắn đá, tầm bắn khoảng trăm trượng. Thấy hạm đội của người Thiên Trúc đã tiến vào tầm bắn, quân đoàn trưởng thống lĩnh hạm đội ra lệnh một tiếng, các chiến sĩ tới tấp đốt vải trắng, bắn vò sành ra ngoài. Vô số vò sành đang bốc cháy hừng hực bay về phía hạm đội Thiên Trúc.
Một lần bắn ba trăm vò sành, giống như vô số ngôi sao băng bay trên không, tới tấp rơi xuống hạm đội Thiên Trúc, ít nhất có một phần ba bắn trúng tàu thuyền đối phương. Ầm một tiếng, vò sành đập vào tàu thuyền, ngọn lửa bốc lên dữ dội. Người Thiên Trúc chưa từng gặp cách đánh này bao giờ, nhất thời luống cuống tay chân, có một số người vội vàng dập lửa, một số người bị dầu hỏa bắn vào người, tiếng kêu thảm thiết vang lên khắp nơi, rất nhiều người nhảy xuống sông. Một số thuyền dập tắt được lửa, nhưng một số không khống chế nổi thế lửa, chìm xuống sông trong ngọn lửa hừng hực.
Thống lĩnh hạm đội Thiên Trúc biết bên mình tương đối yếu khi tác chiến ở cự li xa, vội vàng hạ lệnh nhanh chóng tiến lên dưới làn mưa vò sành đựng dầu hỏa, kéo gần khoảng cách giữa hai bên còn năm mươi trượng.
Để rút ngắn khoảng cách ba mươi trượng, hạm đội Thiên Trúc thiệt hại ít nhất năm mươi, sáu mươi chiến thuyền, hàng ngàn người chết dưới sông Ấn Độ.
“Trường cung, bắn!” Thống lĩnh hạm đội Thiên Trúc truyền lệnh xuống.
Trường cung của người Thiên Trúc có uy lực mạnh mẽ, độ dài của cung được chế tạo theo chiều cao của người bắn, được làm bằng tre, cọ và các loại gỗ có tính dẻo, dây cung làm bằng gân hươu, sợi đay, lực kéo rất lớn. Những chiến sĩ này chống một đầu cánh cung xuống rãnh trên sàn thuyền, chân trái đạp cánh cung, hai tay kéo dây, mũi tên dài ba khuỷu tay, cách hàng chục trượng cũng có thế bắn xuyên lá chắn và thân người.
Trường cung thủ hai tay kéo cung, hàng ngàn người đồng loạt bắn. Vô số mũi tên dài bay lên không trung dày đặc, lao về phía chiến thuyền Ba Tư. Người Ba Tư lập tức bị cuồng phong vùi dập, bất kể lá chắn hay áo giáp đều bị băn thủng, thậm chí có những mũi tên sau khi bắn xuyên người vẫn chưa hết đà, lại tiếp tục bắn xuyên qua một người khác. Sau mấy lượt bắn, chiến thuyền của người Ba Tư như bị mưa máu xối qua, xác nằm khắp nơi, đâu đâu cũng có xác chết và người bị thương kêu thảm.
Hai bên lại tới gần nhau, khoảng cách còn ba mươi trượng. Cung tên của người Ba Tư cũng phát huy tác dụng, hai bên bắn nhau cách ba mươi trượng mặt nước. Tình hình chiến đấu quyết liệt chưa từng có, thỉnh thoảng lại có người trúng tên ngã xuống sông.
Trên mặt sông kéo dài vài dặm trôi đầy xác chết, máu tươi nhuộm đỏ nước sông. Thỉnh thoảng có chiến thuyền đè qua xác chết, nước gợn dập dờn, xác chết lúc chìm lúc nổi.
Sau mấy lượt bắn tên, hạm đội hai bên đã áp sát, lao ầm ầm vào nhau. Chiến thuyền của người Ba Tư đều là thuyền đánh cá được cải tạo, ắt sẽ chịu thua thiệt, không ít tàu thuyền bị đâm chìm. Sau khi trả giá bằng cả trăm chiến thuyền, cuối cùng người Ba Tư mới ngăn cản được đà xông tới của chiến thuyền người Thiên Trúc, hai bên bùng nổ một cuộc chiến áp mạn.
Trên sông Ấn chém giết quyết liệt liên tục mấy ngày liền, một bên là bảo vệ đất nước, một bên đã không nhà để về, ý chí chiến đấu mạnh mẽ chưa từng có, một khi tàu thuyền bị đối phương công phá, dù chỉ còn một người cuối cùng cũng không chịu bỏ thuyền. Cho dù là bên chiến thắng cũng phải trả giá vô cùng nặng nề.
Trên bờ tây sông Ấn, các ma cát người Ba Tư xoay quanh tế đàn thánh hỏa, cùng cầu khấn, hát những bài hát cúng tế cổ xưa. Y Tự Hầu đệ tam đứng trên đài cao quan sát, toàn thân run rẩy, lệ nóng tràn mi.
“Chiến sĩ phải đổ máu, là lỗi của ta. Nếu có thể giúp con dân Ba Tư của ta giành được nơi cư trú ở đất Ngũ Hà, ta sẵn sàng không hưởng thánh hỏa thờ cúng sau khi chết!” Y Tự Hầu đệ tam lẩm bẩm cầu nguyện: “Chỉ khẩn cầu thần Mã Tư Đạt vạn năng có thể phù hộ các chiến sĩ của ta bình an trở về”.
Phi Lỗ Tán vội vã đi lên đài cao: “Vương của vạn vương tôn kính, thế trận đã giằng co quyết liệt. Phải tiến hành bước tiếp theo của kế hoạch thôi”.
“Ngươi là thống soái, ngươi cứ hạ lệnh”, Y Tự Hầu đệ tam nói.
“Tuân lệnh!” Phi Lỗ Tán cầm lấy quân kỳ phất vài cái, lính truyền lệnh lần lượt truyền mệnh lệnh của hắn đi.
°°°
“Bệ hạ, thế trận đang giằng co quyết liệt, e rằng dù là ai chiến thắng cũng đều thắng một cách bi thảm.” Bên bờ đông sông Ấn, tể tướng Bà Ni cũng rất lo lắng.
Giới Nhật Vương không cho vậy: “Thắng một cách bi thảm là sao? Mục đích của người Ba Tư là qua sông, chỉ cần hủy diệt hạm đội của chúng, mục đích của chiến lược đã hoàn toàn thất bại. Chúng ta sẽ chiếm thế chủ động trong cả chiến cuộc, tiến có thể qua sông tấn công, lùi có thể dựa vào sông phòng thủ. Nói cho cùng, cho dù hai hạm đội đều cùng bị hủy diệt, chúng ta cũng là người chiến thắng”.
Đúng lúc này doanh trại phía nam đột nhiên có tiếng la hét kinh thiên động địa, mọi người kinh ngạc quay lại nhìn về phía nam, thấy bụi mù bay lên, tiếng sấm ì ầm. Mọi người ở đây đều tùng trải chiến trận, tất cả đều biến sắc mặt. Đây rõ ràng là tiếng kỵ binh xung phong. Tình hình này thì không dưới một vạn người.
“Chuyện gì thế?”, Giới Nhật Vương quát to.
Lập tức có khoái mã của thám báo về báo cáo: “Khởi bẩm bệ hạ, kỵ binh Ba Tư đột nhiên xuất hiện ở phía nam cách ba mươi dặm, lao về phía doanh trại quân ta, bây giờ khoảng cách chỉ còn không đến năm dặm. Tướng quân Cúc Đà Na Đa đã dẫn quân chặn đánh!”.
“Kỵ binh Ba Tư có bao nhiêu người?”, Bà Ni vội vàng hỏi.
“Có khoảng chừng một vạn người” thám báo nói.
Sắc mặt Giới Nhật Vương xanh mét: “Một vạn kỵ binh này rốt cuộc làm thế nào vượt qua được sông An?”.
“Điều này…”, thám báo khó xử: “Còn chưa làm rõ được”.
Bà Ni cười khổ nói: “Bệ hạ, bọn chúng xuất hiện ở phía nam, vậy nhất định là người Ba Tư đã mua chuộc được đất Phạt Lạt Nã[169], từ Phạt Lạt Nã bí mật qua sông, đi vòng qua hoang mạc ven biển tới đây”.
Đúng lúc này lại có thám báo đến báo cáo: “Bệ hạ, toàn quân của tướng quân Cúc Đà Na Đa đã bị diệt, kỵ binh Ba Tư đã đánh vào đại doanh phía nam!”.
“Đồ ăn hại! Đều là một đám ăn hại!” Giới Nhật Vương vô cùng giận dữ: “Ra lệnh cho trung quân chi viện, cần phải giữ được đại doanh phía nam!”.
Còn chưa nói xong đã thấy phía hạ lưu sông Ấn đột nhiên xuất hiện vô số cột buồm, một hạm đội ngược dòng đi lên, lao vào chiến trường đang giằng co. Đội thuyền này có quy mô không lớn, chỉ có khoảng một trăm chiến thuyền, nhưng đây là một đội quân lành lặn, mới nguyên, vừa gia nhập chiến trường đã lập tức phát động tấn công mãnh liệt nhằm vào hạm đội Thiên Trúc, hạm đội Thiên Trúc nhất thời không chống đõ được, chẳng mấy chốc đã tan tác.
“Thì ra bọn chúng đóng thuyền ở Phạt Lạt Nã!” Giới Nhật Vương rên rỉ một tiếng: “Ta đã coi thường đám người Ba Tư này rồi!”.
Đây chính là kế hoạch vượt sông được Y Tự Hầu đệ tam và Phi Lỗ Tán trù tính suốt hai năm trời. Đầu tiên họ mua chuộc Phạt Lạt Nã ở phía nam Càn Đà La, đóng thuyền ở bến cảng Phạt Lạt Nã, ba ngày trước đã đưa một vạn kỵ binh tới đây. Sau đó trực tiếp vượt sông, thu hút sức chú ý của Giới Nhật Vương. Đến lúc hai quân giao chiến, kỵ binh phát động tập kích, phá rối tính toán của Giới Nhật Vương. Cuối cùng hạm đội bí mật gia nhập vòng chiến, tiêu diệt hạm đội Thiên Trúc.
Tình hình chiến đẩu quả nhiên diễn ra đúng như Y Tự Hầu đệ tam tính toán. Sau khi hai hạm đội hợp lực đánh tan hạm đội Thiên Trúc, đưa binh lính đổ bộ lên bờ, lại có một vạn thiết kỵ phát động tấn công đại doanh phía nam, hung hãn không sợ chết, chặn đứng quân đội Thiên Trúc. Đội thuyền nhanh chóng đến bờ sông, ba ngàn bộ binh còn lại nhảy xuống chiến thuyền, gia nhập đội ngũ tấn công đại doanh phía nam.
Xem ra bọn họ muốn cướp lấy đại doanh phía nam làm căn cứ.
Giới Nhật Vương giận đến hoa cả mắt, hạ lệnh bằng mọi giá phải giữ được đại doanh phía nam. Ngay sau đó quân đội Thiên Trúc như thủy triều về tiếp viện đại doanh phía nam. Nhưng lúc này đại doanh phía nam hơn nửa đã rơi vào tay địch, hai bên liền tiến hành một cuộc chiến tranh đoạt bên ngoài hàng rào.
“Bệ hạ, Y Tự Hầu đệ tam có mưu đồ vượt sông Ấn đã hai năm, đã tính hết mọi cách, giai đoạn đầu chúng ta thiệt hại một chút cũng là bình thường”, Bà Ni khuyên nhủ: “Chỉ cần chặn đứng thế công ban đầu của hắn, hắn thiếu chiều sâu, cuối cùng cũng tất bại”.
“Đội tàu của người Ba Tư qua lại một lượt cần một canh giờ, trong một canh giờ này phải đánh tan người Ba Tư ở đại doanh phía nam”, Giới Nhật Vương cũng đã suy nghĩ rõ ràng, lập tức hạ lệnh.
Bộ binh Ba Tư chặn kín lối vào đại doanh phía nam, còn có một bộ phận kỵ binh vây quét tàn quân trong đại doanh phía nam, bộ phận còn lại chia ra tấn công hai cánh. Gần ba vạn quân của hai bên chém giết lẫn nhau trong khu vực chật hẹp này, máu chảy thành sông.
Bộ binh là binh chủng cơ bản của Ba Tư, chia thành cung thủ, thuẫn thủ, trường thương, ném đá, bốn binh chủng phối hợp tác chiến đã trở thành truyền thống mấy trăm năm của đế quốc Ba Tư, đội tàu đưa sang đây cũng đầy đủ các binh chủng. Ba ngàn bộ binh trấn giữ lối vào đại doanh phía nam, cung thủ và lính ném đá phát động tấn công tầm xa trước, khi kỵ binh đối phương xông tới gần liền lập tức lui về, thuẫn thủ che chắn cho binh lính dùng trường thương tiến lên, cắm mặt dưới lá chắn xuống đất, từng cây trường thương vươn ra từ nơi tiếp giáp giữa các tấm lá chắn, chi chít như một rừng gai.
Kỵ binh Thiên Trúc đâm vào rừng gai này, kỵ binh xung phong phía trước ngã dúi dụi, thậm chí cả người lẫn ngựa bị xiên trên trường thương. Nhưng rất nhiều chiến mã lại đạp vỡ lá chắn, lao vào trong trận hình Ba Tư. Chiến sĩ Ba Tư lập tức dùng đao, dùng mâu đâm chết bọn họ.
Tuy nhiên có vô số thiết kỵ Thiên Trúc phát động xung phong cảm tử, những chiến đội ở phía trước liên tiếp bị đập tan, bộ binh bị vó ngựa giày xéo và đao cong chém tử thương nặng nề. Trước cửa doanh trại, xác người xác ngựa chất đống như núi, cao đến vài thước!
Xa xa bên ngoài, kỵ binh Ba Tư như một thanh kiếm sắc đâm vào cánh của người Thiên Trúc. Giới Nhật Vương đích thân chỉ huy nghênh chiến, cờ lệnh vẫy lên, dùng kỵ binh chống lại kỵ binh, thiết kỵ tinh nhuệ nhất của hai bên triển khai một trận chiến đấu máu lửa.
Kỵ binh hai bên mỗi người đều có hai mũi đoản mâu, một cây trường mâu, vũ khí tùy thân của người Ba Tư là đoản kiếm, của người Thiên Trúc là đao cong. Kỵ binh hai bên lao tới, khi đến gần đồng thời ném đoản mâu, hàng vạn mũi đoản mâu gào rít đầy trời bay về phía kẻ thù. Mật độ đoản mâu quá dày, thậm chí một số mũi va vào nhau giữa không trung rơi xuống, nhưng đa số vẫn trúng mục tiêu, bất kể là người hay ngựa đều đâm xuyên qua. Những ky binh đi đầu của hai bên dường như bị cuồng phong bão táp quét trúng, ngã xuống từng mảng. Các chiến sĩ đau khổ kêu thét, chiến mã hí lên ngã gục. Trong cảnh hỗn loạn này, từng kỵ binh tiếp tục cầm trường mâu nghênh chiến, như hai con bão đâm thẳng vào nhau, cuốn lên sóng lớn ngập trời. Trong cơn sóng lớn này có vô số xác người và xác ngựa.
Sau khi kỵ binh phía trước giáp chiến, kỵ binh phía sau cuồn cuộn xông lên, đâm xuyên qua quân trận của nhau. Lúc này tất cả đều đã vứt bỏ trường mâu, chỉ có đao cong và kiếm sắc là có tác dụng. Đao cong của người Thiên Trúc lướt qua thân thể đối phương, căn bản không cần tốn sức, lưỡi đao cong cắt với tốc độ cao dễ dàng xé rách áo giáp đối phương như cắt một miếng bơ, để lại vết thương dài hơn một thước trên thân thể đối phương, da thịt bị cứa đứt, máu phun tung tóe. Đại đa số người Ba Tư trúng đao đều sẽ mất sức chiến đấu, kêu thảm ngã khỏi lưng chiến mã. Còn một số hung hãn không sợ chết thì gầm lên cầm kiếm đâm tới. Mũi kiếm sắc nhọn cùng với chiến mã phi nhanh, chiến giáp thô kệch của người Thiên Trúc càng không chống nổi, sau khi trúng kiếm cho dù không chết cũng mất sức chiến đấu.
Phạm vi chiến trường quyết đấu của kỵ binh lớn hơn nhiều, xung quanh đại doanh phía nam thoáng chốc đã biến thành địa ngục Tu La, núi thây biển máu.
Giới Nhật Vương đứng trên đài cao, yên lặng nhìn chiến cuộc, ông ta biết lần này phiền phức to rồi.
“Đám người Ba Tư vong quốc này không ngờ lại dũng mãnh như vậy!”, Giới Nhật Vương lẩm bẩm nói.
“Quân đội tinh nhuệ thật sự của bọn chúng, quân đoàn bất tử còn chưa xuất hiện”, Bà Ni nói.
“Ta chờ!”, Giới Nhật Vương lạnh lùng nói.
“Trận chiến này đã biến thành cối xay thịt rồi”, Bà Ni than thở: “Không biết Y Tự Hầu đệ tam rốt cuộc có dám đặt cả sinh mạng vào cuộc chiến này hay không?”.
“Ta cá là hắn không dám!” Giới Nhật Vương cười lạnh: “Trong các quân vương trên thế giới, hắn không phải một con bạc mà là một tên hèn!”.
Trên sông Ấn, tà dương chiếu đỏ như máu.
Hai bên quyết chiến từ sáng sớm đến lúc mặt trời lặn, toàn bộ vùng đất bên bờ đông sông Ấn đã bị máu tươi thấm đẫm, mặt đất mềm như vừa trải qua một trận mưa. Vó ngựa chạy qua đạp xuống đất ướt, khi nhấc lên thấm đẫm máu đào.
Cuối cùng Giới Nhật Vương không thế cướp lại đại doanh phía nam trong một canh giờ, trơ mắt nhìn chiến thuyền của người Ba Tư lại đưa một đợt quân đến, trong ngoài phối hợp hoàn toàn tiêu diệt binh sĩ Thiên Trúc cố thủ ở đại doanh phía nam. Nhưng do sự cản trở của người Thiên Trúc, người Ba Tư cũng rất khó đổ bộ, chiến sự kéo dài trọn một ngày cũng chỉ đưa được hai đợt quân đến. Tuy nhiên cộng thêm số người đang chém giết trên chiến trường, quân đội Ba Tư đã có hai vạn năm ngàn người, tạo thành áp lực cực lớn cho Giới Nhật Vương.
Nhưng cục diện chiến trường vẫn nắm chắc trong tay Giới Nhật Vương, ông ta có gần năm vạn đại quân, cơ bản vẫn có thể duy trì để áp chế toàn diện đối với người Ba Tư.
Bờ tây sông Ấn, trên đài cao bên sông.
Y Tự Hầu đệ tam đã đứng trọn một ngày. Chỉ trong một ngày, người đã gầy mòn, hai má ửng đỏ bệnh trạng. Đại ma cát và Phi Lỗ Tán đứng bên cạnh ông ta, dưới đài cao là ba ngàn thiết kỵ xếp hàng chỉnh tề, cả người lẫn ngựa đều bọc trong lớp vỏ sắt thép, đó là quân đoàn bất tử tinh nhuệ của Ba Tư.
Trên bến đò, hàng trăm chiến thuyền đang chờ đợi xuất phát.
“Bệ hạ!”, Phi Lỗ Tán khuyên bảo: “Chiến cuộc bây giờ đang ở thế giằng co, người Thiên Trúc chiếm lợi thế địa hình và ưu thế nhân số, một khi không thể đánh tan quân đội Thiên Trúc trong thời gian ngắn, cuối cùng chúng ta chắc chắn sẽ thất bại. Đến lúc đưa quân đoàn bất tử lên rồi”.
“Đại ma cát, ngài thấy thế nào?”, Y Tự Hầu đệ tam do dự.
Đại ma cát cúi người: “Bệ hạ, thần không hiểu quân sự, ngài và tướng quân Phi Lỗ Tán cứ quyết định đi’”.
Y Tự Hầu đệ tam lưu luyến nhìn quân đoàn bất tử bên dưới: “Phi Lỗ Tán, sau khi quân đoàn bất tử qua sông có thể bảo đảm đánh bại người Thiên Trúc không?”.
Phi Lỗ Tán ngây ra: “Điều này… Thần không thể bảo đảm. Với trình độ của kỵ binh Thiên Trúc, sức chiến đấu của bọn chúng thua xa quân đoàn bất tử, ba ngàn nhân mã này có thể đánh tan quân đoàn vạn người của hắn. Theo lý thường, một khi quân đoàn bất tử đổ bộ sẽ nhất định có thể cho người Thiên Trúc một đòn chí mạng, nhưng tình thế trên chiến trường thay đổi không ngừng, thần quả thật không dám cam đoan”.
“Vậy ngươi có từng nghĩ không, Phi Lỗ Tán”, Y Tự Hầu đệ tam vô cùng lo lắng: “Trong cuộc chiến này, ta đã đưa vào ba vạn dũng sĩ, đây là tác chiến trên đất địch, lại cách sông Ấn hiểm yếu. Nếu cuộc chiến này chúng ta thất bại, ba vạn người này có thể không ai còn sống. Nếu ta đặt cả quân đoàn bất tử vào, năm mươi, sáu mươi vạn nam phụ lão ấu Ba Tư sẽ do ai bảo vệ?”.
“Bệ hạ!”, Phi Lỗ Tán cực kỳ sốt ruột: “Vượt sông tác chiến chính là tất tay sống chết. Nếu thắng, chúng ta sẽ đứng vững bên kia sông, nếu thua, có bao nhiêu người chết bấy nhiêu. Cho tới bây giờ chúng ta đã đặt vào ba vạn chiến sĩ, chỉ có thể tất tay một lần, đặt hết toàn bộ vào canh bạc này. Người Ba Tư ta hoặc là một trận thành công, hoặc là một trận diệt tộc!”.
“Một trận thành công, một trận diệt tộc!” Y Tự Hầu đệ tam đột nhiên nổi giận: “Đây chính là đáp án ngươi đưa ra cho ta? Ngươi bắt ta dùng một câu để quyết định sinh tử của toàn tộc Ba Tư sao?”.
Ông ta lấy một đồng tiền vàng tù trong lòng ra đưa cho Phi Lỗ Tán: “Ngươi tung đi! Hình tổ phụ của ta quay lên, ta tự mình dẫn quân đoàn bất tử qua sông! Nào, tung đi!”.
Phi Lỗ Tán cầm đồng tiền vàng, bàn tay lập tức run lên. Đồng tiền vàng này một mặt là tế đàn thánh hỏa, một mặt là tổ phụ của Y Tự Hầu đệ tam, Khố Tư Lỗ đệ nhị. Hắn cầm đồng tiền vàng trong tay, không ngờ lại không có dũng khí tung lên.
“Ngươi xem!” Y Tự Hầu đệ tam mỉa mai: “Trên đồng tiền vàng này chỉ cộng thêm tính mạng của ta, ngươi đã nhìn trước ngó sau, do dự khó quyết. Nhưng đồng tiền vàng trong tay ta lại là cả Ba Tư!”.
“Bệ hạ!”, Phi Lỗ Tán thở dài một tiếng, trả lại đồng tiền vàng cho hoàng đế: “Thần không nên đấy quyết định này lên người bệ hạ. Thần thân là tướng quân, chuyện chiến trường nên để thống soái là thần quyết định, tất cả hậu quả thần sẽ gánh vác”.
“Phi Lỗ Tán”, đại ma cát hỏi: “Ngài định làm thế nào?”.
“Quân đoàn bất tử, để lại cho bệ hạ!”, Phi Lỗ Tán cười cười, trên mặt lộ vẻ kiên quyết: “Thần không mang một binh một lính, một mình qua sông, đích thân chỉ huy. Cho dù chiến đấu đến chỉ còn một binh lính cũng phải phá vỡ phòng tuyến sông Ấn cho bệ hạ!”.
“Phi Lỗ Tán…”, Y Tự Hầu đệ tam sửng sốt.
Phi Lỗ Tán không nói gì nữa, kính cẩn cúi rạp người hành lễ, xoay người đi xuống đài cao. Đến bến sông, trèo lên một chiến thuyền, giương buồm xuất phát chạy sang bờ bên kia.
Tà dương mênh mang trải sóng bạc trên dòng sông Ấn, một chiếc chiến thuyền vô tư lự đi xa dần trên ánh sóng lấp lánh dưới tịch dương, Phi Lỗ Tán không quay đầu lại nữa.
“A…!” Y Tự Hầu đệ tam đột nhiên điên cuồng đấm hàng rào bảo vệ quanh đài cao, không cầm được nước mắt.
°°°
Phi Lỗ Tán ngồi chiến thuyền sang bờ bên kia, lập tức có kỵ binh Ba Tư hộ tống hắn tiến vào đại doanh phía nam.
Quân đội Ba Tư biên chế thành bốn cấp, đội mười người, đội trăm người, đội ngàn người, đội vạn người. Đội vạn người còn gọi là quân đoàn. Lần này Ba Tư đã lần lượt đưa vào ba quân đoàn, ba quân đoàn trưởng đã chết trận một người, hai quân đoàn trưởng còn lại là Hách Luân và Nữu Đa Mạn đến đây bái kiến.
“Đại thống soái vì sao một mình đến đây?”, Hách Luân ngạc nhiên hỏi.
“Bệ hạ phái ta đến chỉ huy toàn cục”, Phi Lỗ Tán nói: “Cục diện lúc này thế nào? Dựa vào chúng ta có thể đánh tan Giới Nhật Vương không?”.
Hai quân đoàn trưởng liếc nhau, lắc đầu: “Tất cả các chiến tuyến đều đang giằng co. Chúng ta đã huyết chiến cả ngày, các binh sĩ đã rất mệt, sợ rằng khó mà chống đỡ được nữa”.
Phi Lỗ Tán trèo lên vọng lâu nhìn chiến trường xung quanh, cả chiến trường hỗn loạn, người Ba Tư và người Thiên Trúc đan xen vào nhau. Trong tình hình này, trừ khi một bên chết hết hoặc hoàn toàn tan tác, nếu không bên nào cũng không thể rút khỏi chiến trường.
Phía bắc chiến trường có thể nhìn thấy một lá cờ lớn, đó là vương kỳ của Giới Nhật Vương. Phi Lỗ Tán hỏi thăm mới biết, từ trưa Giới Nhật Vương đã di giá đến tiền tuyến, đích thân đốc chiến.
“Thương vong thế nào?”, Phi Lỗ Tán hỏi.
“Tính toán sơ bộ, quân ta thương vong một vạn ba ngàn người, bây giờ chỉ còn khoảng một vạn hai ngàn người”, Hách Luân nói: “Sát thương quân địch khoảng hai vạn người. Nhưng người Thiên Trúc đông, có lẽ còn khoảng ba vạn người”.
“Không ngờ lại thê thảm như thế!”, Phi Lỗ Tán cũng không khỏi kinh hãi: “Quân dự bị có bao nhiêu?”.
“Chỉ còn lại một ngàn người nữa”, Nữu Đa Mạn nói.
“Giao cho ta!” Phi Lỗ Tán nói: “Ta đích thân dẫn bọn chúng đâm vào khe hở giữa vùng giao chiến của bộ binh và kỵ binh, chém tướng đoạt cờ, giết Giới Nhật Vương!”.
Hai người kinh ngạc, tới tấp ngăn cản. Nhưng Phi Lỗ Tán đã quyết, hắn biết rõ, nếu quân đoàn Ba Tư không thể đánh bại người Thiên Trúc trong thời gian ngắn thì chỉ có một kết cục: Toàn quân bị diệt.
Phi Lỗ Tán không hề rề rà, dẫn một ngàn kỵ binh cuồn cuộn lao ra, từ góc đông nam của đại doanh phía nam vòng tới, đâm chéo vào chiến trường. Trên đường đi gặp đội quân Thiên Trúc đông người thì vòng qua, gặp đội quân ít người thì đạp thẳng tới. Một ngàn kỵ binh như một cơn bão táp, cũng có thể ví như một đạo âm hồn, cuồng bạo ngang tàng mà lặng lẽ, lao về phía trung quân của Giới Nhật Vương.
Quy mô của đội kỵ binh này không nhỏ nhưng cũng không thể coi là lớn, trên chiến trường tổng cộng bốn năm vạn người mà không hề khiến người khác chú ý đến. Đến khi còn cách trung quân của Giới Nhật Vương một dặm, người Thiên Trúc mới phát hiện tình hình có biến, lập tức triệu tập nhân mã chặn đánh.
Phi Lỗ Tán hét lớn một tiếng: “Tăng tốc!”.
Một ngàn kỵ binh đồng thời thúc giục chiến mã, tốc độ bùng nổ lao tới, như một mũi tên nhọn lao về phía trung quân của Giới Nhật Vương. Đến trước hàng rào đơn sơ, họ hoàn toàn không giảm tốc độ, cả người lẫn ngựa ở phía trước lao thẳng vào phá vỡ hàng rào rồi tràn vào trong.
Lúc này người Thiên Trúc hoảng sợ tột độ, hò hét lao tới bảo vệ Giới Nhật Vương. Nhưng Phi Lỗ Tán hoàn toàn không để mất thời giờ với họ, vừa giao chiến đã xông xáo khắp nơi trong trung quân tìm lỗ hổng để đột phá.
Trong vương trướng trung quân, Giới Nhật Vương đang lắng nghe báo cáo tình hình chiến đấu ở tiền tuyến. Các thám báo vẫn chú ý theo dõi bến sông của người Ba Tư, phát hiện có một chiến thuyền chạy sang bò đông, nhưng từ chiến thuyền chỉ có một người đi xuống, lập tức được kỵ binh đón đi. Giới Nhật Vương rất kinh ngạc, hỏi kĩ tướng mạo và cách ăn mặc của người đó, lại không nghĩ ra là ai.
“Bệ hạ!”, Bà Ni suy nghĩ một lát, cau mày nói: “Nhìn tướng mạo người đó có vẻ như là đại thống soái Phi Lỗ Tán của người Ba Tư”.
“Phi Lỗ Tán?”, Giới Nhật Vương kinh ngạc: “Tại sao hắn lại một mình qua sông làm gì?”.
Hai người còn đang ngẫm nghĩ, đột nhiên bên ngoài vương trướng vang lên tiếng kêu long trời lở đất, ngay sau đó liền nghe thấy tiếng chém giết, tiếng kêu thảm thiết, tiếng gót sắt lao đi, dường như đã gần trong gang tấc.
Ngoài trướng có cấm vệ quân chạy vào bẩm báo: “Thưa bệ hạ, kỵ binh Ba Tư tập kích trung quân! Còn cách vương trướng không tới một trăm cung!”.
Giới Nhật Vương sầm mặt rút bảo đao đi ra ngoài vương trướng, cấm vệ quân bên cạnh vội vàng cầm lá chắn lên bảo vệ xung quanh ông ta. Giới Nhật Vương đi ra ngoài xem, thấy cách đó không xa có một đội kỵ binh Ba Tư tung hoành tách nhập như một con rồng tàn phá trung quân của mình, từ từ giết đến, tiến gần về phía vương trướng. Một tướng quân dẫn đầu râu tóc đã có sợi bạc, nhìn dáng vẻ thì đó hẳn phải là Phi Lỗ Tán vừa mới nhắc đến.
Bà Ni tỏ ra lo lắng: “Bệ hạ, gã Phi Lỗ Tán này xem ra muốn nhằm vào ngài. Ngài nên tạm tránh một lát!”.
“Vì sao ta phải tránh hắn?”, Giới Nhật Vương giận dữ: “Ta có mấy vạn đại quân, lại để một ngàn người ép đánh đến độ phải chạy trối chết sao?”.
Nhưng tình thế đã không như ý muốn của Giới Nhật Vương, Phi Lỗ Tán đột nhiên tập kích, quân đội của Giới Nhật Vương đều ở bên ngoài, trung quân chỉ có hai ba ngàn người chặn đánh. Tuy nhiên một ngàn kỵ binh này người nào cũng mang quyết tâm phải liều chết, cực kì hung hãn, cho dù trên người trúng đao cũng phải ôm đối thủ ngã xuống ngựa. Trong thời gian nửa nén hương, một ngàn người đã chết mất bảy tám trăm, có thể thấy chiến sự tàn khốc đến mức nào.
Sau khi hi sinh tính mạng bảy tám trăm người, cuối cùng Phi Lỗ Tán đã đánh xuyên qua trung quân, lao vào vương trướng của Giới Nhật Vương. Bà Ni mặc kệ Giới Nhật Vương tức giận thế nào, sai người đỡ ông ta lên chiến mã, nhanh chóng lui lại.
Giới Nhật Vương vừa lui, người Thiên Trúc xung quanh vội vàng tụ tập tới bảo vệ. Phi Lỗ Tán thấy áp lực giảm mạnh, mặc dù các dũng sĩ của mình vẫn muốn tiếp tục truy kích, nhưng Phi Lỗ Tán biết cơ hội giết chết Giới Nhật Vương đã trôi qua rồi.
“Chặt đứt vương kỳ!”, Phi Lỗ Tán hét lớn.
Hơn hai trăm người quay ngựa lại, chạy thẳng đến chỗ cắm vương kỳ, đao chặt kiếm chém, cán cờ lập tức bị chém đứt.
Vương kỳ cao hàng chục trượng ầm ầm đổ xuống.
Đây chính là một sự kiện lớn, trên chiến trường hỗn loạn, vương kì gần như là một biểu tượng, đồng thời còn có vai trò chỉ huy. Vương kỳ bị gãy đối với chiến trường cũng không khác quốc vương bị giết là mấy.
Quân đoàn Thiên Trúc trên chiến trường lập tức hoảng sợ, có dấu hiệu chuẩn bị tháo chạy.
“Biết tiếng Phạn không?”, Phi Lỗ Tán hỏi.
“Biết một chút”, mấy tên kỵ binh thủ hạ đáp.
“Hô lên cho ta, Giới Nhật Vương chết rồi!”, Phi Lỗ Tán nói.
Hai trăm kỵ binh không tác chiến nữa mà chạy khắp chiến trường, đến đâu cũng lớn tiếng hô: “Giới Nhật Vương chết rồi!”.
Đây là một đòn đánh nặng nề thẳng vào lòng quân của người Thiên Trúc. Mấy vạn người chia thành mười mấy vùng giao chiến, lập tức một số vùng giao chiến xuất hiện dấu hiệu nghiêng về một bên, người Thiên Trúc hoảng sợ bắt đầu tháo chạy. Quân đoàn Ba Tư nhân cơ hội phản công, bắt đầu từ một góc chiến trường, người Thiên Trúc tháo chạy như thủy triều, thế đổ vỡ đang dần cuộn sạch cả chiến trường.
Dưới sự bảo vệ của mấy ngàn kỵ binh, Giới Nhật Vương đứng trong hậu quân, tức giận đến trước mắt tối sầm.
“Phi Lỗ Tán!”, Giới Nhật Vương gầm lên: “Không giết ngươi, ta thề không làm người!”.
Bà Ni cũng sốt ruột: “Bệ hạ, phải nhanh chóng ngăn cản! Một khi đã hình thành thế sụp đổ, năm vạn người sẽ không khác gì năm vạn con lợn, sớm muộn sẽ bị người Ba Tư chém giết hết!”.
“Hừ!” Giới Nhật Vương nổi giận nói: “Xem ra ta không nhìn nhầm Y Tự Hầu đệ tam, hắn quả thật chính là một kẻ bất lực không dám đánh bạc, không nõ phái quân đoàn bất tử đi. Truyền lệnh, đến lúc hoàn toàn tiêu diệt người Ba Tư rồi”.
“Bệ hạ nên hạ lệnh này từ sớm” Bà Ni thở phào nhẹ nhõm.
Giới Nhật Vương lắc đầu: “Nếu không phải bị Phi Lỗ Tán đánh cho chật vật như thế, ta vẫn muốn đợi quân đoàn bất tử. Chấp nhận hi sinh lớn như vậy, không tiêu diệt được quân đoàn bất tử, ta thật sự không cam lòng”.
“Hê!”, Bà Ni cười gượng: “Có thể giết chết Phi Lỗ Tán cũng xem như đáng giá rồi”.
Giới Nhật Vương thở dài một tiếng tiếc nuối, truyền lệnh xuống.
Lúc này bóng chiều đã bao phủ trên sông An, áo giáp rực rõ, đao mâu lấp lánh. Trên chiến trường khốc liệt này, mặt đất đột nhiên bắt đầu rung động, tiếng sấm rền đinh tai nhức óc vang lên. Sau một ngày chém giết, trên mặt đất có vô số vũng máu, lúc này trông không khác nào mặt trống, máu từ các vũng máu bắn ra tung tóe.
Bất kể là người Ba Tư hay là người Thiên Trúc đều kinh ngạc quay đầu lại nhìn, thấy trên chiến trường đột nhiên xuất hiện một bức tường!
Đó là một đội voi chiến đông nghịt lên tới hơn năm trăm con, mỗi con đều to lớn như một mỏm núi, trên ngà voi buộc kiếm sắc, trên đầu voi khoác giáp trụ, thậm chí trên người cũng phủ giáp sắt.
Voi chiến xếp thành một hàng ngang rộng chừng hai dặm, từ mặt bắc, mặt đông, mặt nam chiến trường vây lại, giống như một bức tường thành to lớn ép tới, muốn đẩy người Ba Tư xuống sông Ấn!
Quân đoàn của người Thiên Trúc đang trên đà sụp đổ, nhưng có voi chiến gia nhập lại như được tiếp thêm sức mạnh. Dưới sự chỉ huy của thống lĩnh các cấp, quân đoàn Thiên Trúc lùi vào phía sau hàng voi chiến, chỉnh đốn lại hàng ngũ, một số còn đi theo voi chiến phát động phản công. Trên lưng mỗi con voi chiến đều có một giá gỗ to, bên trên có năm binh sĩ gồm một quản tượng, hai trường mâu thủ, hai cung thủ.
Sau khi cùng voi chiến xông vào chiến trường, những chiến sĩ này dùng mâu đâm, dùng cung bắn, giống như một pháo đài chiến tranh di động.
Người Ba Tư đã chém giết cả ngày, thấy thắng lợi đã ở trong tầm mắt, đột nhiên lại gặp tượng binh, trong lòng lập tức nảy sinh sự sợ hãi. Trước mặt đám quái vật khổng lồ này, bất kể người hay ngựa đều không chịu được một đòn, ngà voi hất ngang, cả người lẫn ngựa bay đi, một số binh lính còn bị chân voi giẫm trúng, thịt nát xương tan. Một số người Ba Tư dũng cảm chặt đứt vòi voi, một số khác ném trường mâu cắm vào thân voi. Tuy nhiên những hành động này chỉ kích thích đàn voi trở nên điên cuồng hơn, vô số con voi chiến phát điên lao ầm ầm trên chiến trường.
Đặc biệt là đại bộ phận người Ba Tư còn giằng co với quân đoàn Thiên Trúc, voi chiến vừa chạy tới, người Thiên Trúc lập tức dựa vào voi chiến, còn người Ba Tư đuổi theo liền bị voi chiến và tượng binh giết chết. Xung quanh mỗi con voi chiến nhanh chóng tụ tập rất nhiều binh lính Thiên Trúc, binh lính bám theo voi chiến ầm ầm nghiền nát người Ba Tư.
Nhìn thấy quân đoàn voi chiến xuất hiện, Phi Lỗ Tán lập tức biết trận chiến này đã không thể tránh được thất bại. Người Ba Tư cũng từng nuôi dưỡng voi chiến, mặc dù hắn có biện pháp giải quyết voi chiến, nhưng lúc này quân đoàn Ba Tư bị chia cắt thành từng mảng, hoàn toàn không thể ngăn cản đợt phản kích quy mô lớn này.
Cục diện chiến trường lập tức thay đổi, người Ba Tư trước đó còn đang truy kích lại xuất hiện rơi vào thế sụp đổ, không ngừng tháo chạy trước sức ép của voi chiến, kéo theo nhiều người Ba Tư tháo chạy hơn nữa. Cả chiến trường giống như một chiếc bánh xe lớn bị đàn voi cuộn lại, triệt để bao vây quân đoàn Ba Tư, quân đoàn Ba Tư tử thương vô số.
“Nữu Đa Mạn”, Phi Lỗ Tán nghiêm nghị, tìm được Nữu Đa Mạn đang chém giết đẫm máu: “Ngươi đi tìm Hách Luân, thế không thể đỡ, các ngươi đưa chiến sĩ lên thuyền rút lui”.
“Đại thống soái, không thể rút lui”, Nữu Đa Mạn hét lên: “Một khi rút lui, chúng ta sẽ hoàn toàn sụp đổ, cuối cùng không ai có thể đi được’”.
“Ta ở lại”, Phi Lỗ Tán nói: “Cắm chiến kỳ Ba Tư dưới chân ta. Ta sẽ không lui lại một bước’”.
“Đại thống soái.’”, Nữu Đa Mạn ngây người, trong mắt đột nhiên có lệ nóng tràn ra: “Đế cho người khác đi truyền lệnh, ta ở lại cùng đại thống soái!”.
Nữu Đa Mạn ra lệnh cắm chiến kỳ Ba Tư dưới chân Phi Lỗ Tán, sau khi nói rõ tình hình với các binh sĩ, không ngờ lại có ba ngàn người sẵn sàng tử chiến để yểm hộ đồng bào. Lúc này người Ba Tư trên cả chiến trường đã hoàn toàn bị đánh bại, sau khi thế sụp đổ đã thành, chiến sĩ dũng mãnh nhất cũng không còn dũng khí, hoảng loạn như chó nhà có tang. Phi Lỗ Tán dẫn ba ngàn bộ binh một lần nữa chặn cửa đại doanh phía nam, yểm hộ tàn binh tiến vào đại doanh phía nam lên thuyền.
Còn phía bên kia, người Thiên Trúc và voi chiến như một bức tường thành sắt thép tràn tới. Phi Lỗ Tán dẫn ba ngàn người liều chết chống cự. Họ đốt cháy doanh trại bức lui voi chiến, dùng thân thể ngăn cản trường mâu và cung tên của người Thiên Trúc. Họ đã bị bao vây, lại không có một người rút lui, họ giống như một tảng đá ngầm bị sóng biển đánh vào, bóc đi từng lớp một, lại không hề xê dịch chút nào.
Ba ngàn người kiên cường ngăn cản hai canh giờ, chỉ còn lại hơn ba trăm người mà vẫn không hề lui lại. Thi thể trước mặt Phi Lỗ Tán đã chất cao ba bốn thước, ý chí kiên cường khiến tất cả người Thiên Trúc đều sợ hãi.
Lúc này Giới Nhật Vương cưỡi tuấn mã đi ra tiền tuyến dưới sự bảo vệ của cấm vệ quân. Ông ta cau mày nhìn đám người Phi Lỗ Tán, thở dài nói: “Phi Lỗ Tán, một đời danh tướng Ba Tư lại phải chết ở chỗ này”.
“Có cần bắt sống hắn không?”, Bà Ni hỏi.
Giới Nhật Vương lắc đầu: “Cho hắn chết theo cách vinh dự nhất”.
Bà Ni ra lệnh một tiếng, trường cung doanh được điều động lên. Cánh cung cao một thân người cắm một đầu xuống đất, hai tay kéo dây cung, vù một tiếng, năm trăm mũi tên bắn tới.
“Bảo vệ đại thống soái!” Chiến sĩ Ba Tư hò hét chặn ở trước người Phi Lỗ Tán, mặc cho mũi tên bắn xuyên qua người ngã xuống. Lập tức lại có một đám chiến sĩ dùng thân thể máu thịt chặn ở trước mặt Phi Lỗ Tán nghênh đón mũi tên. Phập phập phập, tiếng mũi tên đâm vào người vang lên, chiến sĩ Ba Tư tới tấp ngã xuống. Sau mấy đợt mưa tên, chỉ còn lại bốn năm người còn đứng được.
Trên người Phi Lỗ Tán đã trúng mấy mũi tên, trong đó có một mũi xuyên qua người hắn, nhưng được mấy chiến sĩ đỡ lấy, hắn vẫn chống kiếm trong tay xuống đất, hiên ngang đứng thẳng.
“Phi Lỗ Tán!”, Giới Nhật Vương bước lên phía trước: “Ta kính trọng ngươi là anh hùng, ta hỏi ngươi một câu, có chịu hàng không?”.
Phi Lỗ Tán cười to: “Giới Nhật Vương, ngài đang làm nhục chính mình sao?”.
Giới Nhật Vương yên lặng một lát, gật đầu nói: “Thực xin lỗi ngươi. Nếu muốn tự sát, mời cứ tùy ý!”.
Phi Lỗ Tán lắc đầu: “Hảo nam nhi chết trận sa trường, chết có ý nghĩa”.
Giới Nhật Vương thở dài một tiếng, phất tay: “Đưa tiễn đại thống soái Phi Lỗ Tán!”.
Phi Lỗ Tán cười ha hả, cùng mấy chiến sĩ còn lại hát bài hát cổ xưa của Bái Hỏa giáo: “Chúng ta ca ngợi sự thuần khiết của chính giáo đồ, những linh thể lương thiện mà mạnh mẽ, họ là kỵ binh khỏe mạnh nhất, là thủ lĩnh cơ trí nhất, người ủng hộ kiên định nhất, là vũ khí sắc bén nhất. Chúng ta ca ngợi sự thuần khiết của chính giáo đồ, các linh thế lương thiện mà mạnh mẽ. Họ tạo thành quân đội, mặc áo giáp, cầm bỉnh khí, giơ tinh kỳ hình tia chớp lên…”.
Trường cung doanh đồng thời giương cung bắn, tiếng hát đột nhiên im bặt, vô số mũi tên bắn xuyên qua người Phi Lỗ Tán. Thân thể hắn không ngờ lại được những mũi tên dài chống đỡ, chết mà không ngã.
“Vòng qua thi thể, không được giày xéo”, Giới Nhật Vương ra lệnh.
Người Thiên Trúc nhanh chóng phá rào doanh trại từ các hướng tràn vào, truy đuổi đến bờ sông, bắt đầu tàn sát người Ba Tư đang tháo chạy lên thuyền. Trong hai canh giờ Phi Lỗ Tán cố gắng ngăn chặn quân Thiên Trúc đã có một đợt binh lính lên thuyền qua sông, nhưng trên bờ còn tới bốn năm ngàn người, thuyền vừa mới cập bờ, người Thiên Trúc đã đến rồi.
Sau khi bị đẩy đến bờ sông, ý chí chống cự của người Ba Tư hoàn toàn biến mất, kêu khóc thảm thiết, tranh nhau trèo lên thuyền chạy trốn. Hơn một trăm chiến thuyền nhiều nhất chỉ có thể chứa được chưa tới ba ngàn người, nhưng mọi người chen lấn xô đẩy, kết quả là một số thuyền còn chưa khởi hành đã bị sóng gió lật úp chìm thẳng xuống sông, một số thuyền va chạm lẫn nhau, cả hai cùng chìm nghỉm.
Trên mặt nước, khắp nơi là ván gỗ và binh lính. Một số binh lính biết bơi còn có thể vùng vẫy, một số thì chìm thẳng xuống đáy sông, biến thành xác chết trôi. Mấy vạn người Thiên Trúc tràn tới bờ sông, triển khai một cuộc tàn sát đẫm máu đối với số người Ba Tư còn lại. Người Ba Tư khóc lóc, từng bước được xua đuổi đến mép sông, trở thành tù binh, rất nhiều người bị ép xuống sông, bị nước sông cuốn đi rất xa.
Khi trăng vừa mọc, chiến sự cũng hoàn toàn kết thúc.
Trận chiến này người Thiên Trúc chết ba vạn, còn người Ba Tư đổ bộ ba vạn chỉ có hơn sáu ngàn người trốn về được bờ bên kia, hơn hai vạn người chết trận, ba ngàn người bị bắt. Nhìn từ quân số thương vong, hai bên dường như thiệt hại ngang nhau, nhưng ai cũng biết người Ba Tư mới là kẻ thất bại hoàn toàn.
Giới Nhật Vương hạ lệnh chém đầu tất cả ba ngàn người bị bắt bên bờ sông, thi thể ném xuống sông, đầu thì ném lên thuyền, chở sang bờ bên kia.
Bà Ni kinh ngạc can ngăn: “Bệ hạ, giết tù binh không phải là điều lành, trái với đạo trời!”.
Giới Nhật Vương cười lạnh: “Ta đã có thể trường sinh, không cần trải qua phán xét dưới ngục Nê Lê, cần gì phải để ý đến thiên đạo? Chém đi, ta phải lấy máu tươi của người Ba Tư để làm thiên hạ khiếp sợ!”.
°°°
Trăng lên giữa trời, Y Tự Hầu đệ tam vẫn đau khổ chờ đợi bên bờ sông. Ông ta đợi được tin tức chiến bại, đợi được đợt tàn quân đầu tiên, đợi được đợt tàn quân thứ hai, đợi được quân đoàn trưởng Hách Luân, nhưng lại không đợi được thống soái Phi Lỗ Tán.
Y Tự Hầu đệ tam bỏ mũ xõa tóc, quỳ rạp xuống bờ sông khóc nức nở.
Đúng lúc này, trong ánh trăng và sóng bạc, một chiếc thuyền chậm rãi trôi trên mặt sông. Thân thuyền rất nặng, thứ chở trên thuyền chất cao như một ngọn núi nhỏ. Y Tự Hầu đệ tam tràn ngập hi vọng, sai người kéo thuyền vào bờ, thuyền được kéo lại gần, mùi máu tanh gắt mũi tạt vào mặt, lập tức tất cả mọi người đều kinh hãi, Y Tự Hầu đệ tam đặt người ngôi bệt xuống đất.
Trên thuyền, tất cả ba ngàn cái đầu được chất thành một tòa tháp. Trước mũi thuyền là thi thể hoàn chỉnh của Phi Lỗ Tán, trên người cắm hơn ba mươi mũi tên!
Y Tự Hầu đệ tam vừa lảo đảo đứng lên, miệng phun ra một ngụm máu tươi, rồi ngã xuống đất.
°°°
Cũng trong hoàng hôn hôm đó, Huyền Trang đi tới bờ sông Ấn, qua sông ở hạ lưu chiến trường.
Hai chiếc thuyền chở đầy kinh luận, tượng Phật, voi và ngựa. Thuyền đến giữa sông, vô số thi thế từ thượng du trôi xuống ngổn ngang, lập lờ trong nước sông. Trong ánh chiều tà, nước sông gần như bị nhuộm thành màu đỏ đậm, sông Ấn giống như một người khổng lồ bị chém mất đầu, máu từ cổ phun ra thành một dòng sông.
Thuyền đi giữa vô số thi thể và máu loãng, mùi tanh lợm giọng. Huyền Trang đứng ở mũi thuyền ngơ ngác nhìn, nhìn thi thể đầy sông, lại nhìn kinh luận chất đống trong khoang thuyên, sau đó quỳ rạp xuống sàn thuyền. Tây du mười bảy năm, mang về cả thuyền chân kinh, rốt cuộc có thể hóa giải được bao nhiêu thảm kịch trên nhân thế? Một bên tay nâng chân kinh, bên kia không ngừng tàn sát, Huyền Trang đột nhiên cảm thấy chuyện trên đời này lại vô cùng trào phúng.
Sông Ấn nổi sóng lớn, đột nhiên bão táp ập đến, ngọn sóng màu đỏ, sóng lớn cuốn theo thi thể và xác chiến thuyền đập tới. Vô số tay đứt chân cụt, thi thể và mảnh thuyền đập lên thuyền, không ít người bị cuốn xuống sông. May mà Huyền Trang được tịnh nhân bảo vệ nên vẫn bình yên vô sự, nhưng có năm mươi kẹp kinh bị cuốn mất.
Trong lúc nguy hiểm, chiến thuyền Ba Tư vẫn canh phòng trên sông phá sóng đi tới, dùng dây thừng cố định thuyền của Huyền Trang lại, kéo sang bờ bên kia. Vừa nghe nói là đại sư Huyền Trang, người Ba Tư vội vàng báo cho Y Tự Hầu đệ tam.
Y Tự Hầu đệ tam chạy tới gặp Huyền Trang. Nửa năm không gặp, Y Tự Hầu đệ tam trẻ trung thoạt nhìn như đã già đi hơn mười tuổi, mái tóc màu vàng kim đã có nhiều sợi bạc, vẻ mặt hốc hác uể oải, trên mặt có vô số nếp nhăn.
Y Tự Hầu đệ tam được người hầu dìu tới, cúi người thi lễ, vẻ mặt đắng chát: “Trước kia không nghe lời Vương Huyền Sách, bây giờ hối tiếc không kịp, không biết đại sư có lời nào chỉ giáo ta hay không?”.
Huyền Trang suy nghĩ một lát, nói: “Bệ hạ có biết vì sao lúc bần tăng qua sông lại gặp sóng gió, kinh luận rơi xuống nước không?”.
Y Tự Hầu đệ tam kinh ngạc lắc đầu.
“Thiên Trúc có truyền thuyết, dưới sông Ấn Độ có thần linh, bảo vệ mặt đất Thiên Trúc rộng lớn, bảo vệ báu vật của Thiên Trúc. Một khi có người muốn mang báu vật của nó ra khỏi Thiên Trúc, hà bá sẽ làm lật thuyền của họ, để những báu vật này chìm xuống đáy sông.” Huyền Trang nói: “Bần tăng cầu lấy chân kinh, ngài muốn đoạt lấy đất đai, đây đều là bảo vật thật sự của Thiên Trúc!”
Y Tự Hầu đệ tam thở dài một tiếng, không nói gì nữa.
Huyền Trang chắp tay từ biệt. Con đường Tây du, bất kể đi hay là về, xét đến cùng vẫn là con đường của một mình Huyền Trang, ngài một lần nữa bước lên con đường về dài đằng đẵng.
[*] [170] Cao Câu Li, là một vương quốc ở phía bắc bán đảo Triều Tiên và Mãn Châu. Đây là một trong Tam Quốc, cùng với Bách Tế, Tân La. Tên gọi Korea mà nhiều nước phương Tây sử dụng ngày nay là lấy từ nhà nước Cao Li, với nhiều biến âm khác nhau của nó.