Chương 18 Tề vương phi
Thành Trường An, khu Tây Thị.
Thành Trường An là đô thị phồn hoa nhất thời đại này, khu Tây Thị lại là nơi phồn hoa nhất thành Trường An.
Khu Tây Thị có bố cục chín cung, mở bốn cổng phường, đường phố ngang dọc thông suốt, cửa hàng san sát nhau lên tới hơn tám vạn, dân số lên tới ba mươi vạn. Không giống các con phố chính trong thành Trường An với hai bên phố đều là tường cao, các cửa hàng trong khu Tây Thị đều mở ra bên phố, bốn phía lập phủ, hàng chục vạn người hội tụ, đông vui nhộn nhịp, chen vai sát cánh. Người Cao Câu Li[170], Bách Tề[171], Tân La[172], Phù Tang[173] ở phương Đông, người Đột Quyết, người Túc Đặc, người Ba Tư, người Đại Thực, người Bái Chiêm Đình, người Thiên Trúc ở phương Tây tấp nập tới đây buôn bán, của cải trong thiên hạ đều tập trung tại đây.
Hôm đó bên kênh đào trong khu Tây Thị có một người kể chuyện đứng trên bục kể biến văn[174]. Biến văn thời này chủ yếu thường là những chuyện trong kinh Phật, phần lớn là tăng nhân dùng ngôn ngữ đại chúng kể lại chuyện kinh Phật, khuyên người ta hướng thiện. Còn người kể chuyện này lại kể về chính trị đương triều, hơn nữa còn là về cuộc binh biến Huyền Vũ Môn của hoàng đế đương triều Lý Thế Dân!
Bách tính Đại Đường biết rõ ở đây rất nguy hiểm, không biết lúc nào sẽ bị quan phủ truy bắt, vì vậy phần lớn đều đứng cách khá xa, lấp ló nghe truyện. Lại có một số người Hồ mới đến, không biết nông sâu, vây quanh người kể chuyện nghe say sưa. Có lẽ đối với họ, đây là cơ hội cực tốt để biết những tin tức của triều đại này.
“Chuyện kể rằng hoàng đế cho gọi thái tử và Tân vương đến điện Cam Lộ để bình xét đúng sai phải trái. Sáng sớm mùng bốn tháng sáu, thái tử và Tề vương mang theo hộ vệ đi tới điện Cam Lộ. Người trong cung nói, lúc này hoàng đế đang du thuyền trên hồ Nam Hải. Các vị nghĩ xem, thái tử và Tân vương sứt mẻ, triều chính không lên, hôm nay hoàng đế phải đưa ra quyết định, trong lòng đang lo nghĩ phải xử trí thế nào, còn lệnh cho triệu đám trọng thần Bùi Tịch, Tiêu Vũ, Trần Thúc Đạt tới, làm sao còn có tâm tình sáng sớm đi du thuyền?” Người kể chuyện vừa kể vừa bình luận: “Thái tử và Tề vương đi tới điện Lâm Hồ, chuẩn bị đến hồ Nam Hải kiến giá. Đột nhiên phục binh tứ phía của Tân vương ập tới đuổi giết. Các vị phải biết, thái tử muốn nghe hoàng đế phân xử, đương nhiên sẽ tới gặp hoàng đế càng sớm càng tốt, cho nên nhất định sẽ vào cung trước Tân vương, nhưng vì sao thái tử đến sớm như thế mà Tân vương lại đã mai phục tại đây rồi? Chuyện này cứ tạm để đó, sau này chúng ta sẽ nói tiếp. Lại nói thái tử bị Tân vương mai phục, hai bên hò hét chém giết, Tân vương đích thân giương cung bắn thái tử, chỉ một mũi tên đã bắn xuyên cổ họng thái tử. Tề vương thấy tình hình không ổn, cướp đường mà chạy. Có vị kia hỏi, điện Lâm Hồ cách hồ Nam Hải chỉ có dăm ba trăm bước, mấy trăm người chém giết, ngay cả thái tử cũng đã mất mạng, vì sao hoàng đế đang du ngoạn trên hồ lại không phái người đến ngăn cản? Thưa các vị, hôm nay ta sẽ vạch trần đáp án cho các vị. Cái gọi là hoàng đế du thuyền trên hồ Nam Hải, tất cả đều là dối trá. Tình tình thực sự là từ đêm trước đó Tân vương đã dẫn giáp sĩ lẻn vào trong cung, phát động chính biến, khống chế hoàng đế…”.
Trong một quán ăn cách chỗ người kế chuyện không xa, hai nam nhân ngồi trên bàn vừa uống rượu vừa nhìn chằm chằm người đang kể chuyện. Một người mặc áo bào đỏ đứng tuổi hơn sắc mặt tái mét, lại cố gắng tự kiềm chế. Người áo xanh còn lại liếc trộm sắc mặt người này, không dám chậm trễ, vội vàng khẽ vẫy tay. Trong đám người có mấy nam tử lặng lẽ trà trộn vào đám người Hồ đang đứng nghe chuyện. Người áo xanh chậm rãi đi ra, lạnh lùng nhìn người kể chuyện, quát to: “Bắt lấy hắn!”.
Mấy nam nhân kia hô lên một tiếng, đồng thời tung sáu bảy sợi dây thòng lọng về phía người kể chuyện. Dây thòng lọng này là loại người chăn nuôi trên thảo nguyên thường dùng để bắt ngựa, một khi ném trúng, chỉ cần kéo dây là thòng lọng sẽ thít chặt trói gô người đó lại. Vòng thòng lọng xoay tròn giữa không trung bay tới, người kể chuyện mỉm cười ngẩng đầu lên nhìn một cái, giơ ngón tay chỉ vào mấy sợi dây thòng lọng, quát một tiếng: “Dừng!”.
Tất cả mọi người đều trợn mắt há mồm, bảy sợi dây thòng lọng cứ thế lơ lửng giữa không trung, không thể nào di chuyển được. Đám nam tử kinh hãi, hợp lực kéo mạnh mới kéo thòng lọng về được. Người áo xanh đi tới bên ngoài đám người, nghiến răng nói: “Lại là trò ma quỷ này!”.
“Tặc soái!”, người kể chuyện đứng trên bục chắp tay nói với người áo xanh: “Ngài và ta giao đấu gần một năm rồi. Kỳ phùng địch thủ, rất tốt!”.
Người áo xanh đó chính là Vương Huyền Sách, còn người kể chuyện chính là yêu nhân Vi Linh Phù. Từ năm ngoái Vi Linh Phù biến mất trong vạn quân giữa Huyền Vũ Môn, Lý Thế Dân đã nghiêm lệnh cho Vương Huyền Sách truy bắt.
Vi Linh Phù vẫn ẩn hiện gần kinh kỳ, viết chân tướng vụ binh biến Huyền Vũ Môn của Lý Thế Dân thành một bài biến văn đi kể khắp nơi. Chuyện này cũng phải trách Lý Thế Dân, ông ta tô điểm cho binh biến Huyền Vũ Môn, lại suy nghĩ không chu đáo, trong đó có vô số sơ hở: Cái gì mà uống rượu độc của Kiến Thành lại chỉ hộc mấy ngụm máu, ngày hôm sau lại đã khỏe như voi phát động binh biến. Cái gì mà hai bên chém giết ầm ĩ ở Huyền Vũ Môn, Lý Uyên cách đó gang tấc lại không hề biết được. Một số lời nói dối nếu không suy nghĩ tỉ mỉ sẽ không có vấn đề gì, nhưng nếu suy nghĩ kỹ sẽ dễ dàng bị vạch trần, sau khi trở thành người kể chuyện, Vi Linh Phù cứ thao thao bất tuyệt, người nghe rất đông, truyền bá rất rộng.
Lý Thế Dân mất hết thể diện, bộ mặt thánh quân vất vả tạo ra mấy năm nay gần như đã bị xé rách hoàn toàn.
Lý Thế Dân rất hận Vi Linh Phù, lệnh cho Vương Huyền Sách không tiếc giá nào phải bắt lấy người này. Vấn đề là mỗi lần Vương Huyền Sách nghe tin chạy đến, Vi Linh Phù lại hóa thành khói trắng biến mất trước mắt rất nhiều người, lại khiến dân chúng càng tin tưởng người này có thần thông quảng đại, cũng càng tin tưởng những lời ông ta mê hoặc.
Lý Thế Dân nổi giận lôi đình, lại không làm gì được thuật sĩ này, nghiêm khắc trách phạt Vương Huyền Sách. Vương Huyền Sách phải chịu áp lực vô cùng lớn, may mà trong tay hắn còn có đám “Người Bất Lương” nên mới có thể nắm giữ một chút hành tung của Vi Linh Phù. Hôm đó quả nhiên tìm được Vi Linh Phù ở khu Tây Thị.
Vương Huyền Sách ngước nhìn Vi Linh Phù, vẻ mặt nghiêm nghị. Mặc dù đối phương đã bị thủ hạ “Người Bất Lương” của mình bao vây, Vương Huyền Sách vẫn không cảm thấy đã nắm chắc thắng lợi. Quả nhiên có người hô lên: “Trên người ông ta lại bắt đâu bốc khói rồi!”.
Mọi người kinh ngạc nhìn lại, trên người Vi Linh Phù bắt đầu bốc lên khói trắng. Vương Huyền Sách hét lớn: “Tung lưới!”.
Đám thủ hạ lấy ra lưới thừng đã chuẩn bị từ trước, mỗi người cầm một sợi dây, hét lên một tiếng, trùm tấm lưới thùng lên đầu Vi Linh Phù. Lúc này cả người Vi Linh Phù đã bị khói trắng bao phủ, khói mù dày đặc bao trùm cả bục. Tấm lưới đan bằng dây thừng trùm xuống, trong khói trắng và lưới thừng, dường như có bóng người đang giãy giụa. Vương Huyền Sách thấy vậy thở phào nhẹ nhõm, sai người thu lưới lại. Mọi người nhìn thấy quả nhiên có một thứ bị trùm trong lưới, sau khi khói trắng dần dần tan đi mới phát hiện không ngờ lại là một cái bàn. Vi Linh Phù đã biến mất không còn thấy bóng dáng tăm hơi!
Mọi người đứng xem phát ra tiếng thán phục. Vương Huyền Sách lại đứng yên nhìn chằm chằm cái bàn đó, đột nhiên hét lớn: “Bắt lấy hắn!”.
Đột nhiên trong đám người xem, Đỗ Hành Mẫn và mấy tên “Người Bất Lương” xông tới, hung hăng đè một người trong số họ ngã xuống đất rồi trói gô lại. Đám người xem lập tức trợn tròn mắt, hoảng sợ tản ra. Lúc này Vương Huyền Sách mới quay lại, đi tới trước mặt người đó, quay mặt người đó lại. Không ngờ lại chính là Vi Linh Phù vừa biến mất! Chỉ có điều lúc này râu của Vi Linh Phù đã biến mất, da mặt cũng trở nên nhão hơn nhiều, khóe mắt trễ xuống, nước da trắng nhợt, nếu không nhìn kỹ sẽ tưởng như không liên quan gì đến Vi Linh Phù vừa rồi còn trông rõ thần thái tiên phong đạo cốt.
Vi Linh Phù sắc mặt tái nhợt, lẩm bẩm nói: “Không thể! Ngươi làm sao có thể phá được thuật mây mù của ta?”.
“Dẫn đi!”, Vương Huyền Sách không đáp, ra lệnh một tiếng. Đám Đỗ Hành Mẫn áp giải Vi Linh Phù đi tới quán ăn đó, ném xuống trước mặt người mặc áo bào đỏ. “Người Bất Lương” giải tán đám người vây xem, đóng cửa quán ăn lại, cài chốt.
Người mặc áo bào màu đỏ nhìn chằm chằm Vi Linh Phù, oán hận nói: “Yêu nhân, cuối cùng ngươi cũng rơi vào tay trẫm!”.
Vi Linh Phù giãy giụa ngẩng đầu lên, lúc này mới phát hiện người mặc áo bào màu đỏ trước mặt lại là hoàng đế Lý Thế Dân!
“Ha ha, ta làm nghề kể chuyện ti tiện, thường xuyên tự trách mình không ra gì, không ngờ lại có thể mời được bệ hạ đến nghe, thật sự là may mắn ba đời!” Vi Linh Phù cười ha hả: “Bệ hạ nghe có vui không?”.
“Đồ khốn!” Lý Thế Dân giận tím mặt, một cước đá Vi Linh Phù lật ngửa ra.
Vi Linh Phù nằm trên mặt đất cười khanh khách không ngùng, Vương Huyền Sách lôi ông ta dậy, lại bắt quỳ trước mặt Lý Thế Dân. Vi Linh Phù quan sát Vương Huyền Sách: “Tặc soái, ngài và ta so đấu đã hơn một năm rồi. Hôm nay rơi vào trong tay ngài, ta không hề có gì oán hận. Chỉ có điều ta có chút tò mò, ngài rốt cuộc làm thế nào phá giải được thuật sương mù của ta?”.
Vương Huyền Sách nhìn Lý Thế Dân một cái, hoàng đế lạnh lùng nói: “Cho hắn được chết tâm phục khẩu phục!”.
“Kỳ thực thuật sương mù của ngươi không phải ta phá, mà là sư phụ của ta phá”, Vương Huyền Sách nói.
“Sư phụ ngươi?” Vi Linh Phù kinh ngạc, suy nghĩ một lát: “Chẳng lẽ là đại sư Huyền Trang?”.
“Tai mắt của ngươi cũng khá nhanh nhạy đấy!”, Vương Huyền Sách kinh ngạc nói.
Rõ ràng việc hắn đi đến Thiên Trúc là phụng mật lệnh của Lý Thế Dân, ngay đến trọng thần trong triều đình cũng không mấy người biết, vậy mà một thuật sĩ cả ngày trốn đông trốn tây lại biết. Vương Huyền Sách và Lý Thế Dân nhìn nhau một cái, hai người đều có chút lo lắng.
“Nhưng đại sư Huyền Trang đang ở tận Thiên Trúc, làm sao có thế phá được thuật sương mù của ta?”, Vi Linh Phù thắc mắc.
“Bởi vì lần trước sư phụ ở vương cung Càn Đà La đã nhìn thấy một màn mất tích trong khói trắng”, Vương Huyền Sách nói: “Khi đó là trong đại điện của một vương cung. Lúc đó ngoài sư phụ còn có quốc vương Ba Tư, đại tế ti Ba Tư, kỳ nhân Thiên Trúc, quốc vương Càn Đà La, ai cũng đều cơ trí. Nhưng từ người nữ tử đó lại phun ra khói trắng, sau đó biến mất trước mặt mọi người. Sư phụ thấy vậy không nói một lời, dẫn Na Thuận rời khỏi Càn Đà La. Sau đó ta từng hỏi sư phụ vì sao không tra xét, sư phụ nói là vì phải bảo vệ tính mạng mình, không thể tra xét, chỉ có thể vòng qua Càn Đà La, tìm lối đi khác”.
Vương Huyền Sách cảm khái: “Khi đó ta không hiểu, nhưng sư phụ không chịu giải thích, hơn một năm nay cùng ngươi đấu trí đấu dũng, đột nhiên bỗng ngộ ra những lời sư phụ nói. Đó là vì khi đó mặc dù sư phụ chưa thể phá giải thuật sương mù, nhưng đã nhìn ra những vương hầu ở đó đang hợp lực diễn một vở kịch trước mặt ngài! Quốc vương Ba Tư, quốc vương Càn Đà La, cả Sa Bà Mị, bọn họ đều cùng một giuộc, cho nên sư phụ mới không thể tra xét!”.
“Nhưng biết vậy cũng không thể phá giải thuật sương mù của ta được!”, Vi Linh Phù không phục.
“Không sai. Như vậy chúng ta thử suy đoán một chút tình hình trong vương cung Càn Đà La hôm đó, Liên Hoa Dạ biến mất như thế nào”, Vương Huyền Sách nói: “Khi đó trong đại điện giống như một mật thất, ngoài quốc vương Ba Tư, quốc vương Càn Đà La, Sa Bà Mị, đại ma cát thì chỉ có một số nội thị và cung nữ. Cảm giác từ người Liên Hoa Dạ phun ra khói trắng, ta và bệ hạ đều đã từng được cảm nhận. Khi đó bởi vì khói trắng lan ra, miệng mũi hít vào, đầu óc sẽ có cảm giác choáng váng trong phút chốc. Lúc này khói trắng sẽ bao phủ kín người trong đó, một lát sau khói trắng tan đi, người liền biến mất. Ta lại muốn hỏi, trong mật thất, người đã không thể bay lên trời, lại cũng không thể chui xuống đất, càng không thể thật sự hóa thành khói trắng tan đi. Vậy thì người này ở đâu? Đáp án chính là người vẫn còn ở nơi đó!”.
Vi Linh Phù ngơ ngác thở dài, không nói gì nữa.
“Vì sao à?”, Vương Huyền Sách cười lạnh: “Bởi vì khói trắng phun ra trên người các ngươi căn bản có thể gây ảo giác, làm đầu óc và thị giác của những người xung quanh bị tê liệt trong giây lát, trước mắt chỉ nhìn thấy khói trắng. Dù là trong mật thất ở Càn Đà La hay là ở bãi đất rộng bên Huyền Vũ Môn, khói trắng lan ra trong gió, bao trùm phạm vi lớn như vậy có thể cùng lúc khiến cho bấy nhiêu người bị tê liệt trong giây lát. Lúc này các ngươi liền nhanh chóng cuộn áo ngoài lên…”.
Vương Huyền Sách bước tới vén áo bào của Vi Linh Phù lên, áo bào của ông ta màu xám, nhưng mặt trong lại là màu trắng sữa: “Dùng áo trắng bao lấy thân thể, bò sát mặt đất trà trộn vào trong đám người. Giống như hôm nay ngươi đã làm. Đương nhiên thuật sương mù hôm nay ngươi biểu diễn tương đối đơn giản, nhưng hôm đó Liên Hoa Dạ biểu diễn lại phức tạp hơn một chút, bởi vì khi đó Liên Hoa Dạ cần có người phối hợp trong số các nội thị và cung nữ đang đứng xem trong đại điện, phải có người che chắn để thay phục sức cung nữ. Cho nên sư phụ ta mới nhìn ra nguy hiểm cận kề, những người này đều đang diễn kịch trước mặt ngài! Ngài mới phải đi đến tận Đông nữ quốc để điều tra về thân phận thực sự của Liên Hoa Dạ. Còn màn biểu diễn của ngươi ở Huyền Vũ Môn năm ngoái cũng dùng phương pháp giống hệt như vậy, thừa dịp sương khói làm tê liệt thị giác của mọi người, trà trộn vào phía sau cấm vệ nha môn phía bắc, ở đó có tới mấy ngàn cấm vệ, ai cũng không thể phát hiện phía sau mình có thêm một người. Có điều ngươi biểu diễn như vậy sẽ khó khăn phức tạp hơn. Khó khăn nằm ở chỗ hôm đó bao vây ngươi toàn bộ đều là cấm vệ nha môn phía bắc, toàn bộ mặc áo giáp, tay cầm trường mâu. Ngươi phải có người phối họp, giấu cho ngươi một bộ giáp trụ và vũ khí từ trước”.
“Cho nên…”, Lý Thế Dân chậm rãi nói: “Nói cho trẫm biết, nội ứng trong cung của ngươi rốt cuộc là ai?”.
“Ngươi cho rằng ta sẽ nói với ngươi sao?”, Vi Linh Phù châm chọc. Ông ta định cắn lưỡi tự sát, nhưng Vương Huyền Sách nhanh tay lẹ mắt, một chưởng đánh vào sau gáy Vi Linh Phù khiến ông ta lập tức ngất đi.
Lý Thế Dân cau mày: “Vương khanh, có cách nào làm cho hắn mở miệng không?”.
“Rất khó, thần có thể thử xem sao”, Vương Huyền Sách có chút khó xử nói: “Có điều người này đã quyết phải chết, hơn nữa trên người có vô số bí pháp, e rằng rất khó đề phòng hắn tự vẫn”.
Lý Thế Dân nhìn chằm chằm khuôn mặt Vi Linh Phù, cũng rất do dự. Đột nhiên Lý Thế Dân ngẩn ra, nhảy dựng lên: “Người đâu, cởi quần hắn ra!”.
Đám “Người Bất Lương” kinh ngạc, lại không dám chần chừ, lập tức cởi quần của Vi Linh Phù, để lộ ra hạ thân trần trụi. Mọi người đều hít sâu một hơi, Lý Thế Dân lại càng kinh hãi. Gã Vi Linh Phù này không ngờ lại là một thái giám đã tịnh thân từ lâu.
°°°
Lý Thế Dân và Vương Huyền Sách áp giải Vi Linh Phù về hoàng cung. Từ khu Tây Thị vào cung, đường gần nhất là đi qua cung Dịch Đình, từ cửa tây cung Dịch Đình đi qua Dịch Đình tới cửa Gia Du là đến hồ Nam Hải trong cung thành.
Cung Dịch Đình là nơi ở của cung nữ và hoạn quan, người đông đúc lại tai vách mạch rừng, hơn nữa Lý Thế Dân không hề có ý tránh tai mắt của người khác, vì vậy vừa vào cung Dịch Đình, tin tức liền truyền khắp nơi: “Hoàng đế đã bắt được yêu nhân Vi Linh Phù, đang dẫn hắn vào cung chỉ điểm”. Hoàng đế đã không ngăn cản, thế nên có không ít hoạn quan cung nữ cũng đến đây xem, đều muốn gặp gã yêu nhân trong truyền thuyết này. Hơn một năm qua, trong cung đàm luận nhiều nhất chính là về Vi Linh Phù, bởi vì năm ngoái ông ta đã biến mất trong vòng vây của vạn quân, rất nhiều người đều tận mắt nhìn thấy. Huống hồ trong thời gian hơn một năm nay, hoàng đế căm hận gã Vi Linh Phù này đến mức ăn không ngon ngủ không yên, mọi người làm sao có thể không tò mò cho được?
Có hoàng đế ở đây, đám nội thị này cũng không dám tới gần, chỉ đứng xem từ xa. Sau khi đi qua cửa Gia Du, liền có cấm vệ nha môn phía bắc phụng mệnh chạy tới tiếp quản phạm nhân, theo đúng lời phân phó của Lý Thế Dân dẫn ông ta đến nhốt trong điện Hàm Trì bên cạnh hồ Nam Hải. Vương Huyền Sách lo lắng ông ta dùng bí thuật, đích thân dùng xích sắt khóa ông ta vào cây cột to một người ôm. Sau đó cả vua lẫn tôi đều không nói gì, Lý Thế Dân yên lặng ngồi trên một chiếc sạp, Vương Huyền Sách đứng hầu bên cạnh.
Vi Linh Phù đã tỉnh lại từ lúc bị áp giải trên đường, thấy dáng vẻ của hai vua tôi, không khỏi cảm thấy kỳ lạ, cười lạnh nói: “Bệ hạ muốn thẩm vấn ta thế nào? Nghe nói ‘Người Bất Lương’ có rất nhiều thủ đoạn tra tấn, không bằng mang hết ra thử xem?”.
Lý Thế Dân lắc đầu: “Trẫm không phải là một quân chủ ưa dùng cực hình, ‘Người Bất Lương’ chỉ có quyền truy bắt, vốn không có quyền dùng hình thẩm vấn. Bên ngoài tin đồn thất thiệt đã đành, người có nội ứng trong cung đình như ngươi tại sao lại không biết?”.
Vi Linh Phù cười lạnh không nói.
“Trẫm không có hứng thú thẩm vấn ngươi”, Lý Thế Dân nói: “Sở dĩ ở đây chờ đợi chẳng qua là muốn đợi nội ứng trong cung của ngươi tự mình cắn câu mà thôi”.
Vi Linh Phù ngẩn ra: “Ý ngươi là gì?”.
“Trẫm cố ý rầm rộ dẫn ngươi vào cung, rất nhiều cung nhân đều đến xem, chắc hẳn người quan tâm đến ngươi cũng sẽ phái người đến xem xét thật giả. Trẫm đã bố trí người từ sớm, giám sát mỗi một cung nhân đến xem, chỉ cần cung nhân nào trở về mật báo sẽ tự khắc để lộ thân phận của chủ nhân”.
Vi Linh Phù biến sắc mặt, một hồi lâu sau mới nói: “Trong cung quan hệ rắc rối phức tạp, người người đều muốn trở về nói với người mình quen biết, ngươi làm sao có thể tìm ra được ai?”.
“Không sao. Người có khả năng giấu sẵn một bộ áo giáp chắc cũng không nhiều lắm”, Lý Thế Dân thản nhiên nói: “Hơn nữa ngươi là một thái giám, trẫm mặc dù không biết ngươi nhưng trong cung nhất định sẽ có người biết ngươi, cứ từ từ điều tra sẽ ra thôi”.
“Ngươi… Ngươi làm sao biết ta là thái giám?”, cuối cùng sắc mặt Vi Linh Phù cũng thay đổi, lộ rõ vẻ kinh hoàng.
“Xin lỗi!” Vương Huyền Sách cười ha hả, nói: “Lúc ngươi ngất đi, ta đã cởi quần ngươi ra kiểm tra. Vết tịnh thân của ngươi xem chừng cũng phải hai mươi năm rồi nhỉ?”.
Vi Linh Phù vô cùng phẫn nộ, chửi bới Vương Huyền Sách ầm ĩ. Nhưng Vương Huyền Sách và Lý Thế Dân hiển nhiên không có tâm tư mắng chửi lại ông ta, có chút lơ đãng, vô cùng lo lắng chờ đợi tin tức. Lúc này nội thị giám chạy vào bẩm báo, định ghé vào bên tai Lý Thế Dân nói nhỏ, Lý Thế Dân hừ một tiếng: “Nói to lên, để cho Vi đạo trưởng nghe cho rõ một chút”.
“Tuân chỉ”, nội thị giám lớn tiếng nói: “Nô tài phụng ý chỉ của bệ hạ, sắp xếp người theo dõi, tổng cộng có hơn ba mươi cung nhân trở về báo lại với chủ nhân, có nương nương các cung, quản sự nội giám các cung, đông cung thái tử…”.
“Có kẻ nào thông báo cho ngoại thần và võ tướng hay không?”, Lý Thế Dân trầm ngâm hỏi.
“Việc này nô tài không thấy”, nội thị giám hết sức thận trọng nói: “Đây là quy tắc quan trọng nhất trong cung, nếu có, nô tài nhất định không dám xem thường”.
Lý Thế Dân gật đầu nói: “Xem ra, hậu cung của trẫm vẫn chưa thối nát đến mức bất trị. Nhưng vậy bộ áo giáp từ đâu mà tới chứ?”.
Vương Huyền Sách không dám nói lời nào, bầu không khí lại yên tĩnh một cách kỳ lạ. Nội thị giám cũng không dám đi, ba người im lặng chờ đợi.
Một lát sau có tiểu nội thị đi tới bẩm báo: “Trịnh hiền phi nhận được tin tức, niệm một tiếng A Di Đà Phật”.
Lý Thế Dân gật đầu, cho hắn lui ra.
Nội thị thứ hai đến bẩm báo: “Thái tử nhận được tin, chỉ thở dài”.
Nội thị thứ ba đến bẩm báo: “Lưu chưởng ký của Thượng Cung nghe xong liền hạ lệnh các cung nhân trong cục Thượng Cung không được bàn tán, không được nghe ngóng”.
Lý Thế Dân mặt không biểu cảm, tin tức tình báo cuồn cuộn không ngừng đưa đến, báo cáo lại tất cả phản ứng lớn nhỏ của mọi người. Lúc này một viên nội thị tới bẩm báo: “Dương quý phi nghe thấy tin tức, lỡ tay đánh rơi bát trà”.
Lý Thế Dân biến sắc, nhìn Vi Linh Phù một cái. Vi Linh Phù dứt khoát nhắm mắt lại.
“Đi thăm dò tất cả mọi hành động của quý phi cho trẫm”, Lý Thế Dân lạnh lùng hạ lệnh.
Nội thị giám biết chuyện có quan hệ trọng đại, tự mình đích thân đi, một lát sau tin tức báo về, sắc mặt Lý Thế Dân càng ngày càng khó coi.
“Quý phi lập tức đuổi cung nhân ra, vào trong nghỉ ngơi.”
“Quý phi dường như đang niệm kinh Phật. Kinh văn là Địa Tạng Bồ Tát bản nguyện kinh.”
“Quý phi chỉnh lại nhan sắc, dường như vừa khóc, mắt đỏ lên.”
“Quý phi khởi giá rời cung.”
Lý Thế Dân cắn răng: “Quý phi muốn đi đâu? Tra cho trẫm!”.
Lúc này một nội thị vội vã chạy vào: “Quý phi đã tới ngoài cửa nơi này!”.
Lý Thế Dân sửng sốt, lúc này bên ngoài điện Hàm Trì vang lên tiếng bước chân lộn xộn. Dương phi một thân một mình, trang phục lộng lẫy, thướt tha xuất hiện ngoài cửa đại điện. Lý Thế Dân đứng lên, Dương phi đi vào đại điện, hai người im lặng nhìn nhau.
“Bái kiến bệ hạ”, Dương phi quỳ gối.
“Bình thân!”, Lý Thế Dân thản nhiên nói: “Ái phi, tại sao nàng đến đây?”.
“Không thể không đến”, Dương phi dịu dàng nói: “Thần thiếp nghe tin bệ hạ bắt được Vi Linh Phù, làm mất thể thống, khiến bệ hạ phải phái người tìm hiểu, chỉ e thần thiếp không đến, bệ hạ cũng sẽ sai người triệu thần thiếp tới”.
Lý Thế Dân nhìn Dương phi: “Vì sao nàng lại lỡ tay làm vỡ bát trà?”.
“Quan tâm tất sẽ bị loạn”, Dương phi mỉm cười nói.
“Vương phi hãy cẩn trọng lời nói!”, Vi Linh Phù kêu lên.
Dương phi nhìn ông ta, từ hai mắt lệ nóng dần dần trào ra: “Ngươi có thể vì ta mà chết, chẳng lẽ ta lại không quan tâm đến sống chết của ngươi sao?”.
Lý Thế Dân kinh ngạc tột độ, lẩm bẩm nói: “Hắn gọi nàng là vương phi? Hắn gọi nàng là vương phi?”.
“Đúng vậy, bệ hạ. Hắn vốn là nội thị trong phủ Tề vương, đương nhiên phải gọi thần thiếp là vương phi”, Dương phi vẫn ung dung dịu dàng, tâm tình không hề rung động, cảm giác nữ nhân này vĩnh viễn đều như dòng suối khẽ chảy, chính tính cách này đã từng khiến Lý Thế Dân si mê, nhưng lúc này ông ta lại vô cùng căm hận sự bình tĩnh của bà.
“Tề vương… Lý Hữu?”, Lý Thế Dân vẫn không muốn tin.
“Tề vương, Lý Nguyên Cát” Dương phi nói.
“Mười sáu năm rồi, nàng vẫn không chịu quên hắn?”, Lý Thế Dân giận dữ quát lên.
“Cho dù sáu mươi năm, chỉ cần đời này còn chưa kết thúc, tình kết tóc làm sao có thể quên được?” Dương phi mỉm cười nói, tính tình tưởng như yếu đuối lại tràn ngập sự kiên quyết.
Vương Huyền Sách bên cạnh nghe mà kinh hãi. Thì ra Dương phi này không ngờ lại là thê tử của Tề vương Lý Nguyên Cát! Hắn đột nhiên nhớ tới một lời đồn nhiều năm trước, nói năm đó sau binh biến Huyền Vũ Môn, Lý Thế Dân giết chết cả nhà Lý Nguyên Cát, giết chết năm nhi tử của hắn, lại chỉ tha cho Tề vương phi và ấu nữ Thục Huyến. Sau đó Lý Thế Dân lấy cớ nuôi dưỡng Lý Thục Huyến, đưa vương phi vào trong cung, sắc phong làm phi, năm ngoái lại phong Lý Thục Huyến làm Quy Nhân huyện chúa, gả cho con thứ của Trường Đạo quận công[175].
Lý Thế Dân đặc biệt sủng ái Dương phi, hai người còn sinh hạ hoàng tử thứ mười bốn Lý Minh. Sau khi Trưởng Tôn hoàng hậu bệnh nặng qua đời, Lý Thế Dân thậm chí còn định lập Dương phi làm hoàng hậu, nhưng đám Trưởng Tôn Vô Kị cho rằng Dương phi dù sao cũng từng là Tề vương phi, kỳ thực không thỏa đáng, bèn cùng nhau phản đối. Lý Thế Dân bị ép thu hồi chiếu mệnh, nhưng vẫn phong làm quý phi, đứng trên cả Thục phi, Đức phi, Hiền phi, đứng đầu trong bốn phi.
Bởi vì Lý Thế Dân vẫn luôn không lập hoàng hậu, có thể nói Dương phi thực chất đã là người đứng đầu hậu cung.
Lý Thế Dân hai mắt ửng đỏ, ngã bệt xuống sạp. Ông ta chỉ vào Vi Linh Phù: “Người này cũng là nàng sắp xếp đến bôi nhọ danh tiếng của trẫm?”.
“Vâng, thưa bệ hạ”, Dương phi nói.
“Gây xích mích cho ba nhi tử của trẫm tàn sát lẫn nhau, phản lại trẫm, cũng là chủ ý của nàng?”, Lý Thế Dân hỏi.
“Vâng, thưa bệ hạ”, Dương phi nói.
“Không được nói mấy từ này nữa”, Lý Thế Dân giận dữ hét lên: “Vì sao? Vì sao phải làm như vậy?”.
“Không có nguyên nhân nào khác” Dương phi nói một cách ung dung, bình tĩnh: “Chỉ là muốn làm cho một người nhìn thấy, trước mặt hoàng quyền, khi tất cả mọi tình cảm phụ tử, huynh đệ, vua tôi đều không còn, vẫn còn có một loại tình cảm không hề nhạt phai”.
“Người nào?”, Lý Thế Dân nghiến răng.
“Nguyên Cát!” Dương phi nói: “Thần thiếp muốn cho Nguyên Cát nhìn thấy, sau khi chàng bị huynh đệ phản bội, bị phụ thân vứt bỏ, bị thuộc hạ bỏ rơi, tình phu thê vẫn còn nguyên vẹn. Thần thiếp muốn chàng ở dưới cửu tuyền được vui vẻ, không được hoài nghi hết thảy mọi thứ trên đời này”.
“Nàng cùng hắn có tình phu thê, chẳng lẽ cùng trẫm lại không có sao?”, Lý Thế Dân rơi lệ: “Nàng cũng biết, khi nàng vẫn chưa gả cho Nguyên Cát, trẫm đã yêu mến nàng rồi. Nàng ở bên trẫm mười sáu năm, ở bên Nguyên Cát mới được mấy năm? Huống hồ chúng ta còn sinh hạ được Minh nhi, trẫm còn phong nàng làm quý phi, làm cho nàng ở Đại Đường chỉ dưới một người, trên ngàn vạn người, nuôi nữ nhi của nàng lớn lên, cho nó có được trượng phu như ý muốn. Chẳng lẽ trẫm bù đắp cho nàng ngần ấy vẫn không đủ sao?”.
“Bệ hạ!”, Dương phi buồn bã nhìn ông ta: “Chúng ta sinh được một nhi tử, nhưng bệ hạ lại giết ba nhi tử của thần thiếp. Chẳng lẽ bệ hạ cho rằng, giết phu quân của thần thiếp, giết ba nhi tử của thần thiếp, cưỡng đoạt lấy thân thể của thần thiếp, những chuyện này có thể bù đắp được sao? Bệ hạ và thần thiếp ở bên nhau mười sáu năm, chẳng lẽ trong mười sáu năm này, bệ hạ chưa bao giờ nghĩ đến những tổn thương mà bệ hạ đã gây ra cho thần thiếp sao? Chẳng lẽ bệ hạ cho rằng phong thần thiếp làm quý phi, ân sủng thần thiếp là thần thiếp nên mang ơn bệ hạ sao? Chẳng lẽ bệ hạ cho rằng địa vị, quyền thế, của cải có thể thay đổi tất cả tình cảm trong lòng người khác sao?”.
“Mấy năm nay trong lòng nàng vẫn hận trẫm?” Lý Thế Dân hỏi, trong lòng như bị búa giáng xuống.
“Không còn hận”, Dương phi cũng rơi lệ: “Nếu không thần thiếp cũng sẽ không ở bên bệ hạ mười sáu năm. Thần thiếp dễ quên đi thù hận, chỉ cầu thanh thản. Trong lòng mặc dù thẹn với Nguyên Cát, nhưng có thể nuôi dưỡng nữ nhi của chàng lớn lên cũng coi như tạm an ủi bản thân. Nhưng mấy năm nay, đế rửa sạch máu ở Huyền Vũ Môn, bệ hạ không những bóp méo sách sử, lại còn bôi nhọ Nguyên Cát. Nói chàng từ nhỏ xấu xí, không được Thái Mục hoàng hậu yêu thích, vừa sinh ra đã sai người vứt bỏ chàng. Bệ hạ còn nói Nguyên Cát tính tình hung bạo, ham mê nữ sắc, khắp nơi xông vào nhà dân, tùy ý lăng nhục dân phụ. Bệ hạ còn nói, Nguyên Cát thích để nữ nhân lõa thể tấn công lẫn nhau trong phủ của mình để tìm niềm vui. Bệ hạ, ngài biết không, sách sử ngài cho biên soạn viết Kiến Thành tàn nhẫn, không có tài làm người đứng đầu, Nguyên Cát hung cuồng, có nguy cơ phá hỏng cơ nghiệp của tổ tiên, thật là hai kẻ hung ác. Nguyên Cát tàn nhẫn như lang sói, người và thần đều không chấp nhận được. Bệ hạ biết thần thiếp đọc được có cảm giác gì không? Đó là phu quân kết tóc với thần thiếp từ thuở nhỏ! Là người mà thần thiếp hiểu chàng như hiểu chính mình. Hoàng quyền có thể đổi trắng thay đen sao? Có thể lật ngược phải trái sao? Có thể sửa đổi hết thảy sao? Có thể bôi nhọ một người tốt thành ma quỷ sao?”.
“Nguyên Cát là một người tốt sao?”, Lý Thế Dân giận dữ quát lên: “Hắn nhiều lần muốn đẩy trẫm vào chỗ chết, liên hợp với Kiến Thành, minh tranh ám đấu với trẫm, những việc này nàng đều không nhìn thấy sao?”.
“Bệ hạ, ngài dùng lập trường chính trị để phán định tốt xấu của một người, nhưng thần thiếp không thế. Vì ngôi vị hoàng đế này, các ngài lừa gạt lẫn nhau, tranh giành quyền lợi, hai bên đều khao khát muốn đẩy đối phương vào chỗ chết. Có ai là vô tội? Nếu nói như vậy, Ngụy Trưng môn hạ của thái tử là người tốt sao? Uất Trì Kính Đức thủ hạ của Lưu Vũ Chu là người tốt sao? Thần thiếp chỉ biết, Nguyên Cát đối với thần thiếp, đối với gia đình thần thiếp, thật sự rất tốt, rất tốt”, Dương phi mặc dù từ ngữ kích động, nhưng vẻ mặt lại vẫn lạnh nhạt như cũ, giống như một đóa hoa cúc.
“Cho nên nàng trả thù trẫm, gây xích mích để các nhi tử của trẫm tự giết hại lẫn nhau, dùng tên hoạn quan này bôi nhọ danh dự của trẫm khắp nơi, là để báo thù cho Nguyên Cát?”, Lý Thế Dân nghiến răng nghiến lợi hỏi.
“Bệ hạ, thần thiếp nói nhiều như vậy mà bệ hạ vẫn không hiểu”, Dương phi nhẹ nhàng lắc đầu: “Nếu là để báo thù cho Nguyên Cát, bệ hạ và thần thiếp làm phu thê mười sáu năm, một đêm nào đó, thiếp thân chỉ cần một chiếc kéo là có thể làm được rồi, cần gì mười sáu năm sau mới báo thù?”.
Vậy thì vì cái gì?”, Lý Thế Dân rùng mình một cái, hỏi.
“Bởi vì bệ hạ càng ngày càng coi thường mọi việc trên thế gian. Không còn có giới hạn, không hề e ngại gì, bệ hạ muốn chà đạp tất cả mọi thứ thần thiếp coi trọng trên thế gian này”, Dương phi nói: “Bệ hạ giam cầm phụ thân, giết chết huynh đệ, có thể nói thành tự bảo vệ mình. Ngài giết chết mười nhi tử của Kiến Thành và Nguyên Cát, lại nói là để miễn trừ hậu hoạn. Hoàng gia vô tình, từ cổ chí kim, không phải một mình bệ hạ làm việc như vậy. Nhưng sau khi giết huynh đệ, ngài chiếm lấy thê tử kết tóc của huynh đệ đưa vào cung, lại không hề tự trách, ngược lại còn định lập làm hoàng hậu. Bệ hạ, chẳng lẽ ngài không sợ miệng lưỡi thế gian sao? Để biến binh biến Huyền Vũ Môn trở nên tốt đẹp, ngài bóp méo sách sử, chẳng những viết Kiến Thành và Nguyên Cát thành những kẻ gian tà hung tàn bạo ngược, ngay cả Thái thượng hoàng cũng viết thành người khẩu thị tâm phi, do dự thiếu quyết đoán. Bệ hạ, thần thiếp chia rẽ tam vương tạo phản, đó là muốn nói với ngài, không phải không có luân hồi, không phải không có báo ứng, ngài và huynh đệ tàn sát nhau, các nhi tử của ngài cũng sẽ tàn sát lẫn nhau. Ngài hủy diệt danh dự của người khác, người khác cũng sẽ hủy diệt danh dự của ngài. Thần thiếp làm như vậy, nói lớn là để làm cho ngài hiểu được cái gì là giới hạn, thứ gì trên nhân thế vĩnh viễn không được chà đạp, nói nhỏ là để làm cho Nguyên Cát tin rằng trên đời này có một người chưa từng quên chàng, có một người chưa từng phụ chàng. Thần thiếp muốn chàng có thể nở nụ cười dưới cửu tuyền lạnh giá”.
Lý Thế Dân như bị hút đi tất cả sức mạnh trong người, sắc mặt trắng bệch như tuyết, ngôi tê liệt trên sạp. Môi ông ta run rẩy, ngơ ngác nhìn Dương phi, có bi thương, có giận dữ, có ấm ức, lại không nói nên lời. Lúc này nội thị giám đã lén thông báo cho cấm vệ nha môn phía bắc, trung lang tướng trực ban dẫn rất nhiều giáp sĩ bao vây điện Hàm Trì lại, còn có một đội giáp sĩ tràn vào đại điện, bảo vệ bên người Lý Thế Dân.
Lý Thế Dân giận dữ cầm lên một chiếc lư hương bên cạnh đập thẳng xuống đất, điên cuồng hét lên: “Cút! Ai cho các ngươi vào đây? Cút ra cho trẫm!”.
Trung lang tướng sợ đến hồn phi phách tán, vội vàng đưa giáp sĩ rút khỏi đại điện, lại không dám rời đi, đành phải để đám cấm vệ rời khỏi tầm mắt hoàng đế, nín thở ngưng thần.
Lý Thế Dân mệt mỏi đứng lên, chậm rãi đi tới trước mặt Dương phi, vuốt ve mặt bà, lẩm bẩm nói: “Nói cho cùng, vẫn là trẫm chưa từng có được trái tim nàng. Còn nhớ năm trẫm mười sáu tuổi, cùng phụ thân đi qua Hoằng Nông đã nhìn thấy nàng. Khi đó nàng mới mười hai tuổi, nhưng trẫm vừa thấy đã kinh ngạc, từ đó không thể nào quên được nàng. Đáng tiếc khi đó trẫm đã thành hôn với Trưởng Tôn thị. Nàng và Nguyên Cát cùng tuổi, phụ thân liền thay Nguyên Cát đính hôn ước với phụ thân nàng. Tùy mạt sụp đổ, chư hầu giao tranh, Đường hưng thay Tùy, huynh đệ bất hòa, binh biến trước cửa, từng việc, từng chuyện, trẫm leo đến ngôi vị hoàng đế này, quay đầu nhìn lại chuyện cũ, trừ đôi mắt sáng và nụ cười của nàng lúc mười hai tuổi vẫn rực rỡ như cũ, vô số chuyện trẫm không dám nghĩ lại. Trẫm giữ nàng trong lòng, cũng giống như lưu giữ những kí ức thanh xuân trong lòng. Nàng không đi, thanh xuân của trẫm vẫn mãi còn ở đó. Như vậy, trên thế gian nhơ nhớp này, khi trên tay đã nhuốm mực đen và máu đỏ, trẫm còn có thể nhớ mang máng, năm mười sáu tuổi, trẫm đã từng có rung động. Khi đó, trẫm vẫn còn sạch sẽ”.
“Cùng nàng đi ngắm hoa sen, nắm tay kề má khêu đèn thuyền hoa. Thuyền đi rẽ sóng gợn xa, gió đâu thổi đến hương hoa ngạt ngào.” Dương phi cũng rơi lệ, dịu dàng nắm tay Lý Thế Dân, lẩm bẩm đọc. Đây là câu thơ năm đó Lý Thế Dân viết cho bà, đó là thời gian nào, bà đã không nhớ rõ được nữa, chỉ nhớ loáng thoáng hai người nắm tay trèo lên thuyền hoa, thuyền đi trên hồ Thái Dịch ở Bắc Uyển, hoa sen trong hồ nở rộ, phủ kín mặt nước.
Lý Thế Dân cũng nhớ lại, rơi lệ cười, ngâm: “Tiếng oanh thánh thót nơi nào, thuyền đang lướt nhẹ lạc vào khói mây. Hái sen vang tiếng vòng tay, mái chèo khua nước giữa đầy tiếng ca. Chim rừng về đậu cây xa, nào hay trước mặt đã là Kiến Chương”.
Hai người mỉm cười, rơi lệ nhìn nhau. Khóe miệng Dương phi từ từ chảy ra một vệt máu tươi, đẹp đẽ thê lương. Lý Thế Dân ngơ ngác dùng ngón tay chấm một giọt, dường như không hiểu đây rốt cuộc là cái gì. sắc mặt ông ta đột nhiên thay đổi: “Ái phi! Ái phi! Nàng làm sao thế?”.
“Chim rừng về đậu cây xa, nào hay trước mặt đã là Kiến Chương”, Dương phi khẽ cười: “Bệ hạ, trong những câu thơ của ngài luôn có một chút bi thương không tan đi được. Có lẽ cuộc đời chính là như thế, từ đâu tới đây, sẽ về nơi đó. Dù vui vẻ thế nào rồi cũng phải đến lúc tiếng cười dần tắt”.
Thân thế Dương phi rũ xuống chực ngã. Lý Thế Dân luống cuống tay chân đỡ lấy, hét to: “Thái y! Truyền thái y…”.
Vi Linh Phù bên cạnh cũng kinh ngạc, liều mạng vùng vẫy: “Vương phi! Vương phi…”.
Mọi người trong đại điện đều luống cuống tay chân.
Dương phi lại ho ra máu, nhuộm đỏ ngực áo Lý Thế Dân.
“Bệ hạ, không kịp rồi. Thần thiếp đã uống hạc đỉnh hồng”, Dương phi gượng cười, cơn đau quằn quại làm bà run rẩy, da dẻ trắng bệch.
“Vì sao? Vì sao phải làm như vậy?” Lý Thế Dân khóc: “Nàng sợ trẫm trách tội nàng sao? Trẫm sẽ không giết nàng!”.
“Không phải sợ bệ hạ giết thần thiếp, đây… đây chỉ là bước cuối cùng trong kế hoạch của thần thiếp mà thôi”, Dương phi thở gấp: “Thần thiếp chết, kế hoạch này mới có thể thật sự hoàn thành”.
“Vì sao?”, Lý Thế Dân rơi lệ điên cuồng hét lên: “Rốt cuộc nàng phải hoàn thành kế hoạch gì? Vì sao lại sẵn sàng chết để trả thù trẫm?”.
“Không phải thần thiếp trả thù bệ hạ…” sắc mặt Dương phi ngày càng tái đi, lại vân cố nói tiếp: “Bệ hạ đã làm rất nhiều việc đi ngược lại luân lí và đạo đức lương tri, ngài nắm hoàng quyền trong tay, không kính sợ thứ gì, càng không để ý điều tiếng, nhưng ngài biết người cùng sống với ngài đau khổ thế nào không? Cho dù thần thiếp đã sống bên ngài mười sáu năm vẫn không thể đối mặt với chính mình, không thể đối mặt với quá khứ, không thể đối mặt với chúng sinh, càng không thể đối mặt với luân hồi sau khi chết. Không phải thần thiếp trả thù bệ hạ, kế hoạch của thần thiếp là phải làm bệ hạ biết kính sợ, kính sợ trời, kính sợ đất, kính sợ sinh linh, kính sợ vận mệnh, kính sợ đạo đức trong lòng, kính sợ tôn nghiêm của lịch sử, cho nên thần thiếp phải để trong đời bệ hạ cũng xuất hiện luân hồi giống như Huyền Vũ Môn. Bệ hạ là người chiến thắng, bệ hạ chưa bao giờ biết Huyền Vũ Môn mang đến nỗi đau thế nào cho người khác. Bây giờ nhân vật hoán đổi, ba nhi tử của bệ hạ giết nhau ngoài cửa, bệ hạ mới biết. Lý Hữu đã chết, Lý Thái đã biếm, Âm phi tỷ tỷ cũng biếm rồi, năm ngoái Thừa Càn cũng chết tại Kiềm Châu. Ba vương một phi, thê li tử tán, nhưng như thế vẫn còn chưa đủ, thần thiếp là quý phi còn có thể càng làm tăng thêm tấn thảm kịch này. Cho nên thần thiếp phải lấy cái chết của mình để đặt dấu chấm hết cho thảm kịch, hoàng thất Đại Đường xóa mất một nửa, bệ hạ mới có thể suy nghĩ lại”.
Lý Thế Dân ôm Dương phi, cảm nhận thân thế bà dần dần giảm nhiệt, gan mật vỡ nát, tim phổi nứt ra, ông ta gào khóc, nước mắt chảy tràn. Dương phi cố gắng giơ tay lên vuốt ve mặt ông ta, nước mắt của ông ta: “Cùng nàng đi ngắm hoa sen, nắm tay kề má khêu đèn thuyền hoa. Bệ hạ, thần thiếp thật sự rất thích bài thơ này…”.
Tay Dương phi đột nhiên buông xuống, hô hấp dừng lại.
Lý Thế Dân ôm thi thể bà, điên cuồng gào lên.
“Quý phi qua đời…!” Nội thị giám kéo dài giọng quay ra bên ngoài hô, cấm vệ ngoài cửa đồng loạt quỳ một gối xuống. Cả hoàng thành bao phủ trong sự sầu thảm.
Vi Linh Phù bị xích vào cột cũng nước mắt giàn giụa: “Vương phi đi thong thả, nô tài châm cho vương phi một ngọn đèn luân hồi, chiếu sáng đường vãng sinh”.
Vương Huyền Sách giật mình, biết tình hình không ổn, đang định xông tới bỗng thấy dưới lòng bàn chân Vi Linh Phù bốc lên một ngọn lửa. Ngọn lửa này màu trắng xanh, dường như bốc cháy từ trong cơ thể, tuy nhiên nhiệt độ cực cao, chỉ sau nháy mắt đã lan khắp cả người, Vi Linh Phù bốc cháy hừng hực.
“Thái thượng đài tinh, ứng biến vô đình. Khu tà phược mị, bảo mệnh hộ thân. Trí tuệ minh tịnh, tâm thân an ninh. Tam hồn vĩnh cửu, phách vô tang khuynh. Cấp cấp như luật lệnh!” Vi Linh Phù niệm thần chú xong, cười to quái dị: “Vương phi khởi giá, cùng nô tài thăng thiên thôi…!”.
Dứt lời cả người hóa thành tro, rơi rào rào tràn xuống đất, xích sắt cũng leng keng rơi xuống. Trên cột gỗ lim rắn chắc chỉ còn lưu lại một hình người đen như mực.
[*] [171] Bách Tề là một vương quốc nằm tại tây nam bán đáo Triều Tiên. Đây là một trong Tam Quốc Triều Tiên, cùng với Cao Câu Ly (Goguryeo) và Tân La (Silla).
[*] [172] Tân La (Silla) là một trong Tam Quốc Triều Tiên, và là một trong số các triều đại duy trì liên tục lâu nhất trong lịch sử Châu Á.
[*] [173] Phù Tang đề cập đến các đối tượng khác nhau trong văn học Trung Quốc cổ đại, thông thường là một loại cây trong thần thoại hay một vùng đất bí ẩn ở phía Đông. Nhật Bản được coi là một trong những giải thích hợp lí của thuật ngữ Phù Tang, và là thuật ngữ được chỉ định để ám chỉ Nhật Bản trong thơ ca, văn học Trung Quốc.
[*] [174] Biến văn là một loại hình văn học hát nói ra đời và phát triển vào thời nhà Đường, Trung Quốc; thường là thơ hoặc văn vần và văn xuôi kết hợp đan xen tạo thành, nội dung ban đầu là các câu chuyện về điển tích Phật giáo, sau này phạm vi được mở rộng ra bao gồm cả câu chuyện về lịch sử và các truyền thuyết dân gian…
[*] [175] “Toàn Đường Văn Bổ Di”, phần “Quy Nhân huyện chúa mộ chí”, Vương Bột có viết: phu nhân chưa rõ tên, người Thành Kỷ, Lũng Tầy, là cháu ruột của Đại Đường Cao Tổ, vốn là con gái của Tề vương… Dương phi nhan sắc kiều diễm được sủng ái, bèn đưa vào trong cung nuôi nấng. (Chú thích sách gốc)
[*] [176] Trích đoạn Kinh Kim Cang - Hóa vô sờ hóa: Đại ý muốn nói là dù phàm phu hoặc cao thượng (pháp sanh ra tính chất Thánh) Thánh chăng qua là những danh từ tạm chỉ lúc mê và lúc ngộ, lúc mê thì gọi là phàm phu, lúc ngộ gọi là Phật, là Thánh… phải thấy được nó là Vô Ngã. Trong quá trình thiền quán, pháp thiện, pháp ác sẽ phát sinh hành giả cần phải quán sát (thấy rõ bằng Chánh Trí) nó đều là Vô Ngã hết. Chẳng có cái gì là của tôi, là tôi, tự ngã của tôi.