← Quay lại trang sách

Chương 19 Thịnh thế của đế quốc, -hoàng hôn của đế vương

Năm Trinh Quán thứ mười chín, tháng Giêng. Huyền Trang tới thành Trường An.

Năm ngoái Lý Thế Dân di giá Lạc Dương, sắp xếp công việc chinh phạt Cao Câu Li. Chiến tranh tiêu diệt đế quốc vô cùng tốn kém, cho nên phải bắt đầu trù bị từ hơn một năm trước, toàn bộ tài nguyên của cả Đại Đường bắt đầu được điều động. Lý Thế Dân rất coi trọng việc này, ông ta nhất định phải tiêu diệt Cao Câu Li, nhổ sạch mầm họa lớn nhất ở biên giới đông bắc. Trong ngoài triều mặc dù cũng gặp phải sự phản đối, các trọng thần như Chử Toại Lương đều không đồng ý, nhưng Lý Thế Dân gạt hết mọi dị nghị, cho nên rất nhiều chuyện đều phải tự mình làm.

Nghe tin Huyền Trang trở về, Lý Thế Dân tù Lạc Dương đặc biệt hạ chiếu, lệnh cho đám đại thần Phòng Huyền Linh sắp xếp việc nghênh đón. Tới ngoại ô thành Trường An, Huyền Trang đã không thể đi tiếp được nữa. Tây du mười bảy năm, nhiều lần trải qua sinh tử, một mình đi năm vạn dặm, qua một trăm mười quốc gia, danh chấn Ngũ Thiên Trúc, mang về sáu trăm năm mươi bảy bộ kinh luận. Câu chuyện truyền kỳ này mấy năm nay vẫn thường xuyên được truyền về Đại Đường, sớm đã khiến dân chúng ngưỡng mộ không thôi. Bách tính Trường An nghe tin, toàn thành chấn động. Thành Trường An dân số triệu người, phải có đến hàng chục vạn đổ ra đường nghênh đón, đám người hai bên đường kéo dài hơn mười dặm, thắp hương quỳ lạy, rải hoa tươi ra đường, ngay cả quan lại nghênh đón cũng khó mà đi qua được. Phòng Huyền Linh vội vàng phái hữu vũ hậu đại tướng quân hộ tống Huyền Trang vào thành.

Từ ngoại ô đi đến chùa Hoàng Phúc, trên hơn mười dặm đường, dân chúng Trường An xếp hàng dày đặc hai bên, tay nâng hoa tươi và hương nến chờ đón. Con voi ngày trước được Giới Nhật Vương biếu tặng đã rơi xuống sông chết đuối, bây giờ Huyền Trang ngồi trên một con ngựa trắng, phía sau có hơn hai mươi chiếc xe ngựa đi theo chở kinh thư và tượng Phật, đội ngũ hùng hậu. Nhìn hàng chục vạn dân chúng hoan hô quỳ lạy, Huyền Trang không khỏi có chút bồi hồi. Lúc đầu là một thân một mình xuất quan Tây du, bây giờ lại có muôn người hoan hô đón về, đây dường như là thắng lợi của một người kiên cường cầu Phật chứ không thể xem như thắng lợi của Phật pháp.

Huyền Trang nghỉ ngơi một đêm ở chùa Hoàng Phúc, hôm sau Vương Huyền Sách vẻ mặt phong trần mệt mỏi từ Lạc Dương chạy tới bái kiến Huyền Trang.

Vương Huyền Sách quỳ hai gối, hành đại lễ tham bái: “Đệ tử Vương Huyền Sách bái kiến sư phụ!”.

Huyền Trang vội vàng đỡ hắn lên, tỉ mỉ quan sát. Từ sau khi Vương Huyền Sách rời khỏi thành Khúc Nữ đến nay, sư đồ hai người đã ba năm không gặp nhau.

“Huyền Sách, nghe nói ngươi theo bệ hạ đông chinh, vì sao lại về Trường An?” Huyền Trang biết thân phận tặc soái của hắn, mặc dù vui mừng nhưng cũng không khỏi có chút kinh ngạc.

“Sư phụ!”, Vương Huyền Sách giải thích: “Bệ hạ ít ngày nữa sẽ rời khỏi Lạc Dương đông chinh, hi vọng sư phụ có thể nhanh chóng đến Lạc Dương gặp ngài, vì thế lệnh cho đệ tử về đây nghênh đón”.

Huyền Trang chắp tay vái về phía đông, sau đó hỏi: “Huyền Sách, ba năm nay ngươi sống ở Đại Đường thế nào?”.

Vương Huyền Sách cười khổ không thôi: “Sư phụ, mấy năm nay chuyện của đệ tử một lời khó nói hết được. Đầu tiên là trải qua phản loạn của Tề vương, sau đó trải qua phản loạn của thái tử, suýt nữa chết trong loạn quân”.

Vương Huyền Sách kể lại sơ lược cuộc phản loạn của tam vương, Huyền Trang nghe mà kinh hãi không thôi.

Bởi vì Lý Thế Dân chuẩn bị xuất chinh, Huyền Trang cất giữ kinh Phật xong xuôi liền nhanh chóng đội gió tuyết đi tới Lạc Dương. Lần này đến Lạc Dương, Huyền Trang vô cùng cẩn trọng nhẹ nhàng, hành lý gọn nhẹ đi cùng Vương Huyền Sách vào thẳng hoàng thành, không hề gây náo động.

Lý Thế Dân tiếp kiến Huyền Trang trong điện Càn Nguyên, nơi tổ chức đại lễ của triều đình, có thể thấy được long trọng thế nào.

Huyền Trang đi vào điện Càn Nguyên, Lý Thế Dân đích thân đứng dậy nghênh đón và ban ghế ngồi. Hai người nhìn nhau, sau khi từ biệt tại Hoắc Ấp năm Trinh Quán thứ ba, đã mười bảy năm không gặp, bây giờ nhìn nhau, Huyền Trang chân tóc đã bạc, da đen sạm, còn Lý Thế Dân cũng đã không còn vẻ hăng hái năm đó, già nua hốc hác, không ngờ đã đến lúc tuổi già sức yếu.

“Ngài chỉ kém trẫm một tuổi đúng không?” Đây là câu hỏi đầu tiên của Lý Thế Dân.

“Vâng!” Huyền Trang cảm khái: “Bệ hạ hơn bần tăng một tuổi”.

“Đại sư bây giờ vẫn trẻ trung khỏe mạnh, tinh thần sáng láng, còn trẫm lại đã già rồi”, Lý Thế Dân vạn phần cảm khái.

“Giang sơn gấm vóc, thịnh thế Trinh Quán của Đại Đường này rốt cuộc đã tổn hao bao nhiêu tâm huyết, người đời chỉ cần nhìn dung nhan của bệ hạ, tự nhiên sẽ hiểu” Huyền Trang nói.

Lý Thế Dân bật cười, trong lòng lại hết sức trăn trở. Đúng vậy, Đại Đường này đúng là đã hao hết tâm huyết của ông ta. Giờ đây Trinh Quán đã bước vào thời kỳ thịnh thế, người làm sao có thể không già đi?

“Năm đó đại sư muốn Tây du cầu pháp, vì sao không nói với trẫm trước?”, Lý Thế Dân hỏi.

Huyền Trang đứng dậy tạ tội: “Khi đó bần tăng từng nhiều lần dâng tấu, có điều chưa đủ thành ý, không được phê duyệt, đành phải bất chấp quốc pháp, tự ý xuất quan. Tội chuyên quyền này xin bệ hạ khoan thứ”.

Lý Thế Dân cười, mời ngài đứng dậy: “Năm đó Đại Đường mới lập quốc, quả thật từng có lệnh cấm biên. Có điều ngài là người xuất gia, đương nhiên không giống người phàm tục, huống chi lần này đi còn phải đối mặt với nguy hiểm sống chết, mục đích là phổ độ chúng sinh, trẫm cũng vô cùng khâm phục, chuyện này không cần để trong lòng nữa”.

Lý Thế Dân sớm đã có mưu đồ đối với Tây Vực, đặc biệt có hứng thú với phong thổ dân tình, chính giáo, sắc lệnh, quốc sự các quốc gia ở Tây Vực, tất cả đều không ngừng hỏi han. Huyền Trang đi qua một trăm mười quốc gia, kể cả những nơi chưa đi đến cũng hiếu biết rất rõ, lập tức trả lời cặn kẽ, phác họa tỉ mỉ, các trọng thần trong điện cũng được mở mang tầm mắt, dường như nhìn thấy muôn hình vạn trạng của cả thế giới.

“Đại sư đã đi qua nhiều quốc gia như vậy, nhưng trong quốc sử lại ghi chép thiếu sót. Đại sư có thể biên soạn một truyện ký để người Trung Hoa ta cũng hiểu được phong cảnh dị vực không?” Lý Thế Dân nói: “Gọi là ‘Đại Đường Tây Vực ký’ đi!”.

Huyền Trang đương nhiên nhận lời.

Lý Thế Dân càng nhìn Huyền Trang lại càng vui mừng, nói: “Đại sư, năm đó ngài và trẫm quen biết tại Hoắc Ấp, khi đó trẫm đã cảm thấy ngài vô cùng sáng suốt, chính là nhân tài có thể tham mưu chính trị. Không bằng đại sư hoàn tục, tham dự chính sự được không?”.

Huyền Trang sửng sốt, vội vàng nói: “Bần tăng chỉ hiểu được kinh Phật mà thôi, chưa từng học qua Nho thuật, như thuyền dưới sông lại bỏ nước lên bờ, chẳng những không có ích lợi gì mà còn mục nát hư hao. Bần tăng hi vọng có thể thông qua tu hành Phật pháp để báo đáp quốc gia và ơn trạch của bệ hạ”.

Lý Thế Dân im lặng gật đầu, dường như suy nghĩ gì đó: “Đại sư đã kiên định như vậy, chuyện này cũng đành thôi. Mấy năm nay trẫm gặp phải rất nhiều chuyện, hi vọng có thể thường xuyên đàm luận với đại sư. Có điều trẫm sắp xuất chinh, không được nhàn hạ. Không biết đại sư có thế đi theo đại quân của trẫm xuất chinh hay không, trên đường trẫm có thế thỉnh giáo nhiều hơn một chút?”.

Huyền Trang do dự một lát: “Bần tăng từ Thiên Trúc về Đại Đường, đường sá gian khổ, thân thể có chút bệnh nhẹ, sợ rằng khó có thể bồi giá”.

Lý Thế Dân cười, chỉ Huyền Trang nói: “Đại sư, ngài một mình Tây du xa xôi, đi theo trẫm đến Liêu Đông chẳng qua chỉ là chuyện nhỏ mà thôi. Đây không phải lí do để từ chối”.

Huyền Trang cười gượng: “Bệ hạ thứ tội, giới luật của Phật giáo, tăng nhân không được xem đao binh chiến đấu”.

Lý Thế Dân thở dài: “Đã là giới luật của Phật gia, trẫm cũng không làm khó ngài nữa”.

Huyền Trang lại nói: “Bệ hạ, bần tăng có một chuyện muốn thỉnh cầu. Bần tăng từ Thiên Trúc mang về hơn sáu trăm bộ kinh luận, muốn tới chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, phiên dịch những kinh luận này thành Hán điển”.

Lý Thế Dân suy nghĩ một lát: “Dịch kinh đương nhiên là việc lớn, nhưng đại sư không cần phải đến Tung Sơn. Chùa Hoằng Phúc ở Trường An, thiền viện u tĩnh, rất thích hợp dịch kinh. Đại sư cứ đến ở chùa Hoằng Phúc đi!”.

Huyền Trang lặng lẽ nhìn Lý Thế Dân một cái, nói: “Đã như vậy, bần tăng xin tuân lệnh. Có điều kinh thành phồn hoa, bách tính ở kinh thành biết bần tăng từ Tây Vực về, đều có lòng tò mò, muốn tới gặp bần tăng. Cứ thế sợ rằng sẽ ảnh hưởng đến trị an, làm trở ngại việc dịch kinh. Xin bệ hạ phái một số binh lính canh giữ cổng chùa, không cho người không phận sự ra vào”.

Lý Thế Dân cười to: “Đương nhiên không thành vấn đề. Trẫm đồng ý!”.

Thời gian còn sớm, Lý Thế Dân phải giải quyết rất nhiều quốc sự, sau khi tiếp kiến Huyền Trang, Lý Thế Dân còn muốn nói chuyện tiếp, liền lệnh cho Vương Huyền Sách cùng đi với Huyền Trang đến vườn Đông Đô chờ đợi.

Vườn Đông Đô ở phía tây hoàng cung, đi qua cung Thượng Dương là đến vườn Đông Đô quy mô to lớn, sông Cố Thủy và Lạc Thủy hợp lưu trong vườn, sau khi nhập vào sông Lạc Thủy liền chạy vòng bắt ngang qua thành Lạc Dương.

“Sư phụ, vừa rồi tại sao ngài lại xin bệ hạ phái người trông coi cửa chùa Hoằng Phúc?” Hai người dạo bước bên bờ Lạc Thủy, bên cạnh không có người, Vương Huyền Sách mới dám hỏi.

Huyền Trang thở dài một tiếng: “Ngươi thấy tính cách của bệ hạ thế nào?”.

Vương Huyền Sách nhớ tới những lời Lý Thế Dân cảnh cáo mình khi thái tử phản loạn, rùng mình một cái, nói nhỏ: “Sư phụ, sư đồ chúng ta không phải người ngoài, đệ tử xin được ăn ngay nói thật. Bệ hạ tưởng như khoan dung độ lượng, kỳ thực lòng nghi kỵ rất nặng. Nhưng bệ hạ có thể ẩn nhẫn, tầm nhìn lại xa, vì vậy tâm tư che giấu rất tốt”.

Huyền Trang gật đầu: “Ngày trước ở Hoắc Ấp, ta cũng đã nhận ra vậy. Vậy ngươi suy nghĩ xem, vì sao bệ hạ không cho ta đến Tung Sơn dịch kinh?”.

“Việc này…” Vương Huyền Sách suy nghĩ một lát: “Chẳng lẽ có lòng cảnh giác với sư phụ hay sao?”.

Huyền Trang yên lặng một hồi lâu, sau đó mới nói: “Hôm trước ta vào thành Trường An, hàng chục vạn dân chúng xếp hàng đón chào, phố xá trở nên vắng tanh. Một tăng nhân có danh vọng như vậy, bất cứ đế vương nào cũng sẽ không cho hắn đến chỗ xa xôi. Lòng nghi kỵ đã xuất hiện, cho dù ta ở lại Trường An, sợ là vẫn khiến bệ hạ khó mà yên tâm được, cho nên mới xin bệ hạ phái người trông coi môn hộ, tự giam mình trong chùa để bệ hạ yên tâm”.

Vương Huyền Sách tỉ mỉ nghĩ lại, quả nhiên khi đó nghe Huyền Trang xin phái người trông coi môn hộ, Lý Thế Dân dường như thở phào một hơi, vẻ vui sướng che giấu không nổi. Hắn lập tức toát mồ hôi lạnh.

“Sư phụ, vậy bây giờ nên làm thế nào cho phải?”, Vương Huyền Sách vội hỏi.

Huyền Trang liếc hắn một cái: “Bần tăng lại không có ý định tạo phản, có gì mà phải hay không phải? Binh lính trông cửa và tiểu sa di trông cửa thì có khác nhau bao nhiêu? Bệ hạ trong lòng bất an, trong lòng ta cũng bất an. Làm như vậy, bệ hạ có thể ngủ yên, ta cũng có thể an ổn dịch kinh. Có gì không tốt?”.

Vương Huyền Sách cười gượng: “Chỉ có người lòng dạ trong sáng vô tư như sư phụ mới có thể độ lượng như vậy”.

Huyền Trang không nói gì, chỉ cười cười.

Gần đến giờ Dậu, Lý Thế Dân mới xong việc, đi tới vườn Đông Đô trong vòng vây của cấm vệ và nội thị. Ông ta đuổi người hầu ra, cùng Huyền Trang và Vương Huyền Sách đi dạo ven hồ. Lúc này mặt trời sắp lặn trên sông Lạc Thủy, ráng đỏ đầy trời, băng tuyết mấy ngày trước vẫn bao phủ ngọn cây và bờ sông.

Hai người trò chuyện một lát, Lý Thế Dân hỏi chuyện của Huyền Trang tại Thiên Trúc, sau đó nói: “Đại sư, trẫm có một chuyện muốn thỉnh giáo, hi vọng đại sư có thể chỉ điểm”.

Huyền Trang vội vàng chắp tay: “Bệ hạ quá lời, bần tăng biết gì nói đó”.

“Nửa năm trước, Giới Nhật Vương của Thiên Trúc phái sứ đoàn đi sứ Đại Đường, có hỏi thăm đại sư, khi đó đại sư còn chưa về. Trẫm cũng rất tò mò về Thiên Trúc, thế nên có hỏi thăm vài chuyện.” vẻ mặt Lý Thế Dân trở nên nghiêm túc: “Trong lúc nói chuyện, sứ giả nói dường như Giới Nhật Vương đang cầu thuốc trường sinh”.

“Thuốc trường sinh?”, Huyền Trang kinh hãi.

Lý Thế Dân nhìn ngài chằm chằm: “Đại sư cùng Giới Nhật Vương giao hảo, có biết về thuốc trường sinh của ông ta không?”.

Huyền Trang giật mình: “Bệ hạ từ đâu nghe được tin này?”.

Lý Thế Dân nói: “Nghe sứ giả Thiên Trúc nói, Giới Nhật Vương còn lớn tuổi hơn trẫm, bây giờ sức khỏe cũng không tốt, hình như ông ta đã cầu được thuốc trường sinh. Nói là thuốc do một thuật sĩ tên là Sa Bà Mị luyện chế, đại sư có biết tình hình cụ thể không?”.

Trong lòng Huyền Trang lập tức dâng lên sóng gió ngập trời, do dự rất lâu mới đáp: “Biết đại khái”.

“Sao?”, Lý Thế Dân trở nên kích động: “Mời đại sư nói!”.

“Bệ hạ!” Nhìn vẻ nghiêm túc của Lý Thế Dân, Huyền Trang cũng trở nên nghiêm túc, quyết định nói toàn bộ sự thật: “Việc này bần tăng có biết một chút. Giới Nhật Vương quả thật đang cầu thuốc. Ông ấy mời về một thuật sĩ Thiên Trúc, người này tên Sa Bà Mị, tuổi thọ khoảng chừng hai trăm tuổi. Vài năm trước Sa Bà Mị vẫn giúp ông ấy luyện chế thuốc này. Thuốc này được trồng trên người một nam một nữ, chi tiết cụ thể bần tăng cũng không hiểu lắm, Sa Bà Mị gọi là nhân gian đại dược. Nhưng bần tăng cho rằng trên đời này vốn không hề có thuốc trường sinh, thuật sĩ Sa Bà Mị đó có qua lại với bần tăng nhiều lần, người này hư vọng không thực, không thể tin được”.

“Đại sư là người thế nào trẫm biết, ngài là người trong Phật môn, tu là đại đạo chính thống, trước giờ không bàn luận quái lực loạn thần. Nhưng trên đời này đích thực có một số chuyện mà sức người khó có thể giải thích được”, Lý Thế Dân nói: “Không biết Sa Bà Mị thọ hai trăm tuổi là thật hay giả?”.

Huyền Trang thở dài một tiếng, không hề che giấu: “Thuật sĩ Sa Bà Mị này trước kia xuất thân từ chùa Na Lan Đà, là người cùng thời đại với Bồ Tát hộ pháp, bần tăng từng hoài nghi về tuổi thật của ông ta, nhưng chưa tìm được điểm đáng ngờ”.

“Vậy thì đúng rồi!”, Lý Thế Dân vỗ tay nói: “Đại sư là người ra sao, thế giới Đại Thiên dường như đã nhìn thấu chân tơ kẽ tóc, ngay cả ngài cũng không phát hiện điểm đáng ngờ, chắc hẳn gã Sa Bà Mị đó cũng có khả năng đã sống hai trăm tuổi”.

Huyền Trang và Vương Huyền Sách nhìn nhau một cái, không thể nào phản bác, đành phải yên lặng không nói.

“Vậy nhân gian đại dược luyện chế thế nào?”, Lý Thế Dân vặn hỏi.

Huyền Trang lần này thật sự khó xử, nghiêm mặt nói: “Thứ gọi là nhân gian đại dược này, bần tăng cho rằng là giả. Hai mươi năm trước, Sa Bà Mị bắt đầu luyện chế. Ông ta chọn một nam một nữ, truyền ký ức ba mươi ba kiếp luân hồi cho họ, bắt họ biểu diễn. Thực ra hai người này chỉ đang đóng kịch, có điều sau hơn hai mươi năm đóng kịch, họ đã bị nhân vật mình vào vai chiếm lấy thân thể, thật sự cho rằng mình đã trải qua ba mươi ba kiếp luân hồi. Sau đó do bần tăng thúc ép, Sa Bà Mị mới đành từ bỏ. Việc này quá vô căn cứ, bệ hạ quyết không thể tin”.

“Sa Bà Mị đã từ bỏ sao?” Lý Thế Dân kinh ngạc: “Nhưng sứ đoàn Thiên Trúc nói, nhân gian đại dược này sắp luyện thành rồi mà!”.

Huyền Trang mặt biến sắc. Ngài đi đường mất ba năm, chẳng lẽ Sa Bà Mị đã nuốt lời hứa, lại khống chế Na Thuận và Liên Hoa Dạ hay sao?

Lý Thế Dân cau mày suy nghĩ: “Có thế khiến người ta biểu diễn ba mươi ba kiếp luân hồi, đến tận lúc luân hồi xâm nhập trong lòng hai người, nghe có vẻ rất có lí. Đây có phải là nói, Sa Bà Mị nuôi thành luân hồi trong cơ thể người không? Sau đó trải qua ba mươi ba kiếp luyện, cuối cùng hình thành đại dược nào đó có thể phá vỡ luân hồi, làm người ta trường sinh bất tử không?”.

Huyền Trang thật sự kinh sợ, hoảng hốt nói: “Bệ hạ, vì sao ngài lại nghĩ như vậy?”.

“Đây không phải điều trẫm có thể nghĩ ra”, Lý Thế Dân hơi xấu hổ: “Sau khi nghe sứ đoàn đó nói dăm câu ba điều, trẫm từng triệu tập một số thuật sĩ Đại Đường, tỉ mỉ tìm hiếu tính khả thi của nhân gian đại dược này. Những thuật sĩ này cuối cùng cũng không phủ định, chỉ nói cái gọi là trường sinh thuật chắc chắn là huyền diệu khó giải thích được, vì thế mới là một cánh cửa thần ki. Thiên Trúc đã có kì nhân nghĩ ra biện pháp này nhất định có lí lẽ của ông ta”.

“Bệ hạ, bần tăng lại cho rằng đây là chuyện hoang đường!” Huyền Trang biết trong vấn đề này quyết không thể dẫn Lý Thế Dân vào ngã rẽ sai lầm, lập tức nghiêm túc nói: “Thế gian này nào có chuyện trường sinh bất tử? Nào có người trường sinh bất tử? Dù là Phật Đà cũng có kiếp Hoại Không, nếu chúng sinh ăn một hạt đan dược đã có thể trường sinh, cân bằng sống chết, thì nhân gian sớm đã loạn hết lên rồi. Xin bệ hạ hãy suy xét cho kỹ!”.

“Đại sư!”, Lý Thế Dân thở dài, nói: “Lúc trẫm còn trẻ đọc hết sách sử, thấy Tần Hoàng, Hán Vũ, Minh Đế, Ai Đế, vì thuốc trường sinh mà hao tài tốn của, bị người ta lừa gạt, cuối cùng tự làm trò cười trong sách sử, khi đó trẫm làm sao lại không chê cười. Tuy nhiên sau khi trở thành đế vương mới phát hiện, chuyện trường sinh chính là thứ mê hoặc lớn nhất trên thế gian này. Mấy năm nay Đại Đường bước vào thịnh thế, nhưng trẫm còn có bao nhiêu thành tựu chưa hoàn thành mà đã già nua bệnh tật, trẫm thật sự không cam lòng! Muốn thực hiện đại nghiệp trong lòng trẫm, chướng ngại duy nhất chính là thời gian, phương pháp duy nhất chính là trường sinh!”.

Huyền Trang đang định nói xen vào, Lý Thế Dân xua tay cản lại: “Đại sư yên tâm, việc này trẫm sẽ tiết chế, tuyệt đối sẽ không để người khác mê hoặc như Tân Hoàng, Hán Vũ, cuối cùng tự làm trò cười trong sách sử. Trẫm muốn phái một người đến Thiên Trúc, lấy danh nghĩa đáp lễ thăm hỏi Giới Nhật Vương, bí mật điều tra thuốc trường sinh này thật giả thế nào”.

Huyền Trang mở miệng, lại không biết can ngăn thế nào.

Lý Thế Dân nhìn mặt trời lặn trên sông dài, dốc núi phủ tuyết, từng cảnh tượng trong đời lướt qua trước mắt. Kiến Thành, Nguyên Cát, mười tôn tử, thái thượng hoàng trước khi lâm chung, Thừa Càn, Lý Hữu, Dương phi… Nếu còn có lúc gặp nhau, bọn họ đều đang chờ mình.

“Đại sư, trẫm không cam lòng!” Lý Thế Dân lẩm bẩm nói: “Trẫm có bốn biển trong tay, nắm cả thiên hạ, nhưng rồi có một ngày sau khi chết lại lẻ loi một mình rơi vào luân hồi. Không có quân đội, không có quyền lực, cái gì cũng không có, ngay cả một tiểu quỷ cũng dám ức hiếp trẫm! Trẫm thực sự không cam lòng, trẫm phải trường sinh!”.

Lý Thế Dân đột nhiên hạ quyết tâm, nghiến răng nói: “Vương khanh, khanh đã đến Thiên Trúc một lần, lần này vẫn để khanh đi đi!”.

“Thần…” Vương Huyền Sách đành phải cúi người: “Tuân chỉ!”.

“Mấy ngày nữa trẫm phải thân chinh Cao Câu Li”, Lý Thế Dân nhìn về phía bắc xa xăm, khuôn mặt dần dần đỏ lên, tâm tình phấn khích thắp sáng mộng tưởng của ông ta: “Hành quân tới miệt biên cương, núi non trùng điệp dẫn đường ta đi. Gió đông thổi động tinh kỳ, rộn ràng vó ngựa rời đi Trường Thành… Trẫm phải dẫn thiết kỵ Đại Đường chinh phục tứ phương, làm cho con cháu đời sau của Đại Đường không gặp khói lửa chiến tranh nữa. Trẫm phải vượt qua Tân Hoàng, Hán Vũ, cho dù đời sau có vô số triều đại, bọn chúng đều phải ca tụng tên trẫm! Trẫm phải nói với sử sách trăm đời, cho dù trẫm phạm hết tội nghiệt trong thiên hạ cũng vẫn là hoàng đế vĩ đại nhất trên đời này!”.

Ông ta đột nhiên quay sang nhìn Huyền Trang và Vương Huyền Sách: “Cho nên trẫm không muốn già đi. Đợi trẫm đông chinh trở về, phải thấy được thuốc trường sinh!”.

°°°

Sau khi rời khỏi Lạc Dương, Huyền Trang và Vương Huyền Sách trở lại Trường An. Vương Huyền Sách chuấn bị công việc đi sứ Thiên Trúc, vấn đề Huyền Trang cần giải quyết là dịch kinh.

Từ xưa tới nay, dịch kinh luôn là một công trình khổng lồ, huống hồ kinh luận Huyền Trang mang về có tới hơn sáu trăm bộ. Khi ở Thiên Trúc, Huyền Trang vẫn lo lắng tuổi thọ có hạn, thời gian không nhiều, kinh thư mang về dù nhiều lại không biết mình có thể phiên dịch bao nhiêu. Cũng chính vì như thế, Huyền Trang mới chịu dính dáng sâu xa với triều đình, xét đến cùng cũng là để triều đình ủng hộ đại nghiệp dịch kinh của mình.

Trước kia Lý Thế Dân đáp ứng ủng hộ Huyền Trang dịch kinh, việc này cần sức người sức của khổng lồ. Năm xưa Thích Đạo An phiên dịch kinh Phật, trong trường dịch thường có hàng ngàn người, mà Huyền Trang e rằng còn cần nhiều hơn thế. Sau khi Lý Thế Dân rời khỏi Lạc Dương đông chinh vẫn chú ý đến việc dịch kinh của Huyền Trang, sai Phòng Huyền Linh hạ chiếu, triệu tập gần như tất cả mọi cao tăng đại đức của Đại Đường tới gia nhập trường dịch của Huyền Trang.

Đối với Huyền Trang, dịch kinh mới là sứ mệnh thật sự của ngài trong kiếp này. Trong mắt mọi người, ngài một mình đi vạn dặm, mười bảy năm Tây du, thật sự là truyền kỳ, nhưng thực ra đó chỉ là công tác chuẩn bị cho việc ngài muốn làm hôm nay.

Trường dịch vừa mở, thời đại rực rỡ nhất trong cuộc đời của Huyền Trang cũng mở ra.

Sau khi tổ chức xong trường dịch, Huyền Trang đi trong kinh các, nhìn kinh luận chất đống như núi, không khỏi hồi tưởng từng cảnh tượng ở Thiên Trúc năm đó. Đại sư Giới Hiên, Sa Bà Mị, Giới Nhật Vương, Na Thuận, Liên Hoa Dạ… Đột nhiên ngài trợn trừng mắt, vội vàng chạy ra cửa, mồ hôi chảy ròng ròng trên trán, cảm thấy vô cùng sợ hãi.

Đệ tử Biện Cơ mới thu nạp vẫn hầu bên cạnh, thấy sư phụ bối rối như vậy, vội vàng đi tới: “Sư phụ, xảy ra chuyện gì vậy?”.

“Mau…!” Trong cuộc đời này, Huyền Trang chưa bao giờ hoang mang như vậy, ngay cả ngón tay cũng run rẩy, chỉ về phía hoàng thành: “Đi… Đi tìm Huyền Sách, gọi hắn lập tức tới gặp ta! Hôm nay hắn phải đi sứ Thiên Trúc, nếu đã đi rồi, ngươi hãy cưỡi ngựa đuổi theo hắn!”.

Biện Cơ không dám chậm trễ, lập tức sai người chuẩn bị ngựa, chạy tới chùa Hồng Lư ở hoàng thành. Lúc chạy tới nơi, Vương Huyền Sách và phó sứ Tưởng Sư Nhân đang chuẩn bị xuất phát, nghe Biện Cơ nói xong, Vương Huyền Sách cũng vô cùng kinh hãi, vội vàng thúc ngựa chạy tới chùa Hoằng Phúc.

Vừa nhìn thấy hắn, Huyền Trang vội vàng nói: “Vi sư đã phạm một sai lầm lớn! Huyền Sách, ngươi cần phải tới Thiên Trúc càng nhanh càng tốt, ứng cứu Giới Nhật Vương!”.

“Ứng cứu Giới Nhật Vương?” Vương Huyền Sách không hiểu: “Giới Nhật Vương gặp nguy hiểm sao?”.

“E rằng chỉ cách ngày chết không còn xa nữa.” Huyền Trang nhắm mắt lại, hai mắt hơi đỏ lên, tự trách: “Ta từng kể cho ngươi nghe về âm mưu của Sa Bà Mị, ông ta trồng nhân gian đại dược trên người Na Thuận và Liên Hoa Dạ, sau đó bị ta nhìn thấu, ép ông ta từ bỏ kế hoạch này”.

“Đúng vậy!”, Vương Huyền Sách kinh ngạc: “Sư phụ đã nói, mục đích Sa Bà Mị trồng nhân gian đại dược là muốn làm cho Giới Nhật Vương nhìn thấy luân hồi, mượn việc này đe dọa các vương hầu của Thiên Trúc”.

“Sai, hoàn toàn sai!” Huyền Trang đấm ngực giậm chân, cực kỳ ảo não: “Đây căn bản không phải kế hoạch cuối cùng của Sa Bà Mị. Kế hoạch cuối cùng không phải đe dọa mà là mê hoặc!”.

Vương Huyền Sách ngơ ngác không hiểu, Biện Cơ đang cùng Huyền Trang biên soạn “Đại Đường Tây Vực ký”, cũng rất hiểu chuyện Thiên Trúc, không nhịn được nói: “Sư phụ, nhưng khi đó ngài đã nói, Sa Bà Mị muốn cho Giới Nhật Vương nhìn thấy luân hồi”.

“Trên thực tế, bần tăng đã nhầm rồi”, Huyền Trang đắng chát: “Nhân gian đại dược này không phải trồng luân hồi mà là trồng trường sinh! Cốt lõi của kế hoạch này cũng không phải luân hồi mà là trường sinh!”.

Thấy hai người vẫn không hiểu, Huyền Trang giải thích: “Vốn bần tăng cũng không hiểu, cho rằng kế hoạch của Sa Bà Mị là lựa chọn Na Thuận và Liên Hoa Dạ, truyền cho họ ba mươi ba kiếp luân hồi, mượn việc này làm đế vương và chúng sinh kinh sợ, vãn hồi thế suy tàn của Phật giáo. Tầng kế hoạch này trước kia bần tăng đã phá vỡ, buộc Sa Bà Mị thả hai người đó, ngừng hẳn kế hoạch. Nhưng mấy ngày trước đến Lạc Dương gặp hoàng đế ta mới biết đối với hoàng đế thì luân hồi hay phán xét đều là hư ảo, mê hoặc thật sự đối với họ là trường sinh! Bất kể Giới Nhật Vương hay là hoàng đế Đại Đường ta, chỉ cần là đế vương trên nhân gian đều không chống được sự mê hoặc của trường sinh. Sa Bà Mị đã sống hai trăm năm, đương nhiên biết quá rõ điều này, ông ta biết Giới Nhật Vương muốn cái gì, cho nên bần tăng mới chỉ phá vỡ được tầng thứ nhất trong kế hoạch của ông ta mà thôi. Mục đích cuối cùng của kế hoạch này là phải mê hoặc Giới Nhật Vương trường sinh, mà thuốc này chính là Na Thuận và Liên Hoa Dạ, cho nên đây mới là hàm nghĩa thật sự của nhân gian đại dược!”.

“Vậy Giới Nhật Vương vì sao lại nguy hiểm đến tính mạng?”, Vương Huyền Sách hỏi.

“Nếu muốn trường sinh sẽ phải vào luân hồi, vào luân hồi làm sao có thể không chết?” Huyền Trang nhắm mắt thở dài: “Ta cũng không biết cụ thể, chỉ biết Giới Nhật Vương gặp nguy rồi. Huyền Sách, việc bây giờ chúng ta có thể làm chính là ngươi đi tới Thiên Trúc nhanh nhất có thể, sớm một ngày, Giới Nhật Vương liền sẽ có thêm một ngày được sống, nếu đến muộn, hậu quả không thể dự liệu!”.

“Vâng, thưa sư phụ. Đệ tử nhất định nhanh chóng đi tới Thiên Trúc”, Vương Huyền Sách nói: “Nhưng Sa Bà Mị lợi hại như thế, nếu đệ tử gặp thì phải làm sao mới phá được?”.

Huyền Trang yên lặng một lát, nói: “Sa Bà Mị là người cuồng vọng tự đại, tự phụ tự tôn. Lợi dụng tám chữ này, tất có thể phá được”.

Vương Huyền Sách thầm ghi nhớ tám chữ này trong lòng, cúi người thi lễ với Huyền Trang: “Đệ tử nhớ rồi!”.

Huyền Trang tiễn hắn ra cửa chùa, lúc này phó sứ Tưởng Sư Nhân đã dẫn sứ đoàn chờ ngoài cửa. Huyền Trang dặn dò: “Sư đệ Na Thuận của ta cả đời thê lương, ngươi đến đó cố gắng giúp đỡ hắn. Nếu hắn có gì nguy hiểm, nhất định phải bảo vệ hắn”.

Vương Huyền Sách đồng ý, xoay người lên ngựa, dẫn sứ đoàn đi.

Huyền Trang nhìn theo bóng dáng mọi người đi xa, ánh mắt dường như xuyên thấu thế giới Đại Thiên, nhìn thấy nam nữ si tình, đế vương chết yểu ở đất Phạm Thiên.

Huyền Trang chắp tay vái về phía trời tây, lẩm bẩm nói: “Tu Bồ Đề, Như Lai nói có ngã ắt không phải có ngã mà người phàm phu cho là có ngã. Tu Bồ Đề, người phàm phu đó Như Lai nói tức không phải phàm phu, ấy gọi là phàm phu”.[176]

Đúng lúc này đột nhiên trong chùa Hoằng Phúc có tiếng ồn ào, mấy tăng nhân đứng trước sơn môn đang chỉ trỏ. Một tiểu sa di nói: “Lạ thật! Lạ thật! Đêm nay không nổi gió, tại sao ngọn cây này lại bị vặn lại như vậy?”.

Huyền Trang đứng xa xa nhìn, thấy trong mấy cây tùng trước cửa chùa Hoằng Phúc có một cây có cành quay về hướng đông.

Lúc này ngài nghe thấy Biện Cơ cười nói: “Đó là bởi vì sư phụ của ta về rồi”.

Chúng tăng hỏi: “Vì sao lại nói như vậy?”.

Biện Cơ nói: “Năm xưa sư phụ Tây du lấy kinh, từng nói với một người: Sau khi ta đi, hoặc dăm ba năm, hoặc sáu bảy năm, cứ nhìn cành cây tùng đó quay về hướng đông là ta đã về. Nếu không, nhất định không về được!”.

Huyền Trang ngẩn ra, nhìn lại kỹ hơn, thấy mấy cành chĩa về hướng khác của cây tùng đó đều đã bị chặt mất, chỉ còn lại một cành quay về hướng đông. Nội tâm vững như bàn thạch, tĩnh như giếng cạn đột nhiên như có sét đánh sấm rền, Huyền Trang ngây người nhìn cành cây chĩa về hướng đông, nước mắt lã chã rơi xuống ướt đẫm vạt áo bào.

[*] [177] Phạt Lạp Bì hay Valabhi là một vương quốc cổ nằm trên bờ biển phía đông của Gujerat, Ấn Độ, còn gọi là Bắc La.