← Quay lại trang sách

Chương 3 Cô đơn cùng cực: khủng hoảng tâm linh

Tâm linh thừa nhận và tôn vinh một sự thật – tất cả chúng ta đều kết nối với nhau thành một khối không thể tách rời bằng một sức mạnh nào đó lớn hơn sức mạnh của chúng ta, sự kết nối của chúng ta với sức mạnh đó và sự kết nối của chúng ta với nhau đều dựa trên cơ sở của tình yêu và lòng trắc ẩn.

Chuyện kể rằng từ khi còn bé, Bill Monroe thường trốn trong khu rừng cạnh đường ray tàu hỏa nằm ở vùng đất “trải dài, già cỗi, thẳng băng ở cuối Kentucky”. Bill thấy các cựu chiến binh của Thế chiến I bước dọc đường ray để trở về nhà sau trận chiến. Những người lính mỏi mệt, thỉnh thoảng hú lên một tiếng dài – những tiếng hú to, chói tai, lạnh đến tận xương tủy, mang theo nỗi đau và tự do cắt qua thinh không như tiếng rú gầm của còi báo động.

Mỗi khi John Hartford, nhạc sĩ kiêm nhà soạn nhạc nổi danh, kể câu chuyện này, ông lại tự hú một tiếng. Giây phút bạn nghe thấy tiếng hú đó, bạn liền nhận ra: Ồ, chính là nó. Đó là âm thanh nằm ở ranh giới giữa tiếng reo hò động viên tinh thần và tiếng kêu khóc đầy đau đớn. Đó là tiếng hú chất chứa cả nỗi buồn khổ lẫn sự chuộc tội. Một tiếng hú thuộc về vùng trời khác, khoảng thời gian khác. Bill Monroe sau này được biết đến là cha đẻ của dòng nhạc bluegrass11. Trong sự nghiệp lẫy lừng của mình, ông thường kể với mọi người rằng ông đã tập luyện tiếng hú đó và luôn cho rằng đó là điểm khởi đầu trong phong cách âm nhạc của mình. Ngày nay, chúng ta gọi âm thanh đó là high lonesome (tạm dịch: cô đơn cùng cực).

11 Thuộc dòng nhạc đồng quê của Mỹ.

High lonesome là một âm thanh hoặc một loại âm nhạc truyền thống của dòng nhạc bluegrass, khởi nguồn từ Bill Monroe, Roscoe Holcomb và vùng bluegrass ở Kentucky. Tôi cảm thấy bị lôi cuốn bởi thể loại âm nhạc này. Trĩu nặng. Và chất chứa đầy nỗi đau. Mỗi lần nghe Roscoe Holcomb hát bài “I’m a Man of Constant Sorrow” (tạm dịch: Người đàn ông của nỗi buồn dai dẳng) theo phong cách acappella, tựa như một mũi tên xé toạc thinh không, tôi luôn dựng tóc gáy; còn khi nghe bài “I’m Blue, I’m Lonesome” (tạm dịch: Tôi buồn, tôi cô đơn) của Bill Monroe, tôi có cảm giác nổi gai khắp người. Khi nghe tiếng hú trên nền đàn măng-đô-lin và đàn banjo, bạn có thể cảm nhận được sức nặng trong tiếng hú của những người lính, và thậm chí có thể mường tượng tiếng của đoàn tàu xa xa đang chạy xình xịch trên đường ray.

Nghệ thuật có sức mạnh truyền tải nỗi đau một cách đẹp đẽ, biến cô đơn thành trải nghiệm không của riêng ai và đưa nỗi tuyệt vọng trở thành niềm hy vọng. Chỉ có nghệ thuật mới có thể thẩm thấu được những nỗi niềm chất chứa trong tiếng hú của người lính hồi hương và biến nó thành một biểu tượng chung và sâu sắc, khiến ai cũng có thể cảm nhận được. Âm nhạc, cũng như mọi loại hình nghệ thuật khác, mang lại tiếng nói, ngôn ngữ, hình hài cho nỗi đau và những cảm xúc khắc cốt ghi tâm nhất của chúng ta, biến chúng từ vô hình chỉ có thể cảm nhận đến hữu hình có thể được nhìn thấy và sẻ chia. Sự kỳ diệu của âm thanh high lonesome cũng chính là sự diệu kỳ của mọi thể loại nghệ thuật: khả năng nắm bắt nỗi đau của chúng ta và cùng lúc truyền tải nỗi đau đó đến trái tim chúng ta.

Khi nghe ai đó hát về nỗi đau sắc cạnh trong tim hay nỗi thống khổ không bút nào tả xiết, chúng ta lập tức nhận ra mình không phải là người duy nhất đau đớn. Sức mạnh mang tính biến đổi của nghệ thuật nằm ở khả năng sẻ chia của nó. Nếu không có sự gắn kết mang tính tập thể thì những gì chúng ta nghe thấy chỉ đơn thuần là một bài hát chứa toàn nỗi đau và sự tuyệt vọng mà không hề có lối thoát. Sức mạnh sẻ chia của nghệ thuật thì thầm vào tai chúng ta rằng: “Bạn không cô đơn đâu.”

Đối với tôi hiện tại, tôi cảm thấy thế giới cô đơn cùng cực và thật đáng đau lòng. Chúng ta đang tự phân loại mình thành các bè phái dựa trên quan điểm chính trị hay hệ tư tưởng. Chúng ta quay lưng lại với nhau, đổ lỗi cho nhau và giận dữ với nhau. Chúng ta cô đơn và mất dần kết nối. Và chúng ta sợ hãi. Vô cùng sợ hãi.

Nhưng thay vì sát cánh bên nhau và chia sẻ trải nghiệm qua những bài hát, những câu chuyện, chúng ta lại hét vào vào mặt nhau và càng ngày càng cách xa nhau. Thay vì cùng nhau nhảy múa và cầu nguyện, chúng ta chạy trốn khỏi nhau. Thay vì đưa ra những ý tưởng mới mẻ, phá cách, điên rồ có thể thay đổi mọi thứ, chúng ta lại lặng im thu mình trong vùng an toàn và chỉ dám lớn tiếng trong căn buồng vang12 của mình.

12 Nguyên văn “echo chamber”: Tình trạng chỉ ở trong một cộng đồng khép kín và tiếp xúc với những người có cùng quan điểm, từ đó hình thành lối mòn tư duy không có sự thách thức và phản đối.

Khi nghiên cứu trên 200.000 dữ liệu mà tôi và đồng nghiệp đã thu thập trong hơn 15 năm qua, tôi chỉ có thể kết luận rằng thế giới này đang rơi vào khủng hoảng chung về tâm linh. Điều này càng trở nên đúng hơn nếu bạn xem lại cốt lõi của định nghĩa “tâm linh” trong cuốn Món quà của sự không hoàn hảo:

Tâm linh thừa nhận và tôn vinh một sự thật – tất cả chúng ta đều kết nối với nhau thành một khối không thể tách rời bằng một sức mạnh nào đó lớn hơn sức mạnh của chúng ta, sự kết nối của chúng ta với sức mạnh đó và sức mạnh kết nối chúng ta với nhau đều dựa trên cơ sở của tình yêu và lòng trắc ẩn.

Hiện tại, chúng ta không thừa nhận cũng chẳng tôn vinh sự kết nối này. Chúng ta chia tách nhau trên gần như mọi khía cạnh của cuộc sống. Chúng ta không đứng cạnh nhau trong tâm thế thừa nhận mối liên kết của mình. Chủ nghĩa hoài nghi đang bóp nghẹt trái tim chúng ta. Và thay vì tiếp tục hướng đến sứ mệnh duy trì sức mạnh chung giữa con người, chúng ta lại chứng kiến bước đi thụt lùi mà ở đó sức mạnh nằm trong tay những kẻ chuyên quyền áp đặt lên người khác.

Cần rất nhiều sự can đảm để đưa cuộc khủng hoảng này ra ánh sáng. Hiện tại, phần lớn chúng ta hoặc chọn bảo vệ mình khỏi những xung đột, sự thiếu an toàn và cảm giác tổn thương bằng cách im lặng, hoặc chọn phe phái cho mình và bắt đầu một quá trình chậm rãi và ngược đời – học theo hành vi của những người chúng ta phản đối. Dù chọn cách nào để bảo vệ bản thân và những gì mình tin tưởng, lựa chọn đó đều khiến chúng ta trở nên tách biệt, sợ hãi và cô đơn. Rất ít người đang nỗ lực kết nối với người khác bên ngoài ranh giới “phe phái của mình”. Để tìm thấy tình yêu và cảm giác thuộc về đích thực trong tính nhân đạo chung, chúng ta sẽ cần sự kiên trì rất lớn. Hy vọng rằng nghiên cứu này sẽ làm rõ lý do vì sao hành trình tìm kiếm cảm giác thuộc về đích thực lại đòi hỏi chúng ta phải thực sự nghiêm túc dấn thân vào hoang dã. Hãy tìm hiểu một số lý giải cho cuộc khủng hoảng mà chúng ta đang phải đối mặt, bắt đầu từ sự ra đời của các bè phái.

Hệ thống phân loại

Vì luôn tìm kiếm những thành phần xã hội mà mình thích, chúng ta chọn hội nhóm khiến bản thân cảm thấy thoải mái nhất nên đất nước ngày càng bị chia cắt một cách chính trị. Và lợi ích của việc lắng nghe những ý kiến khác nhau không đủ sức đối đầu với tính chính đáng – vỏ bọc hoàn hảo của các bè phái. Hậu quả là sự khác biệt văn hóa ngày càng rõ rệt giữa nước Mỹ với những cộng đồng khác. Từ đó dẫn đến sự khác biệt chính trị ngày càng trở nên khó chấp nhận, dẫn đến việc không thể đạt được sự đồng lòng tầm quốc gia. Chính trị bị phân cực đến nỗi Quốc hội không biết phải làm gì và bầu cử giờ đây không chỉ là cuộc chiến về chính sách mà còn là những lựa chọn khắc nghiệt về lối sống.

— Giám mục Bill

Đây là câu trích dẫn trong cuốn The Big Sort (tạm dịch: Hệ thống phân loại vĩ đại) của Giám mục Bill. Ông viết cuốn sách này vào năm 2009, nhưng căn cứ theo tình hình nước Mỹ sau cuộc bầu cử năm 2016 và tình hình chung của thế giới, ông có thể sẽ cần đặt tên cho phần tiếp theo của cuốn sách là The Biggest Sort EVER (tạm dịch: Hệ thống phân loại vĩ đại CHƯA TỪNG CÓ).

Cuốn sách của Giám mục kể về việc chúng ta tự phân loại mình theo vị trí địa lý, theo quan điểm chính trị và thậm chí là tự phân loại mình vào những hội nhóm có cùng một khuynh hướng. Trong đó, chúng ta chôn giấu sự bất đồng, ngày càng trở nên cực đoan trong tư tưởng, chỉ tiếp thu những sự thật ủng hộ niềm tin của mình và phớt lờ các bằng chứng cho thấy quan điểm của mình đã sai. Ông viết: “Hậu quả là giờ đây, chúng ta đang sống trong một vòng lặp khổng lồ, và thấy suy nghĩ về sự đúng-sai của chính chúng ta phản chiếu trở lại qua các chương trình ti-vi mà ta xem, sách báo mà ta đọc, trang blog mà ta ghé qua, bài giảng mà ta nghe và khu phố mà ta sống.”

Hành động phân loại này khiến chúng ta đưa ra giả định về những người xung quanh, từ đó càng làm gia tăng sự tách biệt. Gần đây, một người bạn của tôi (một người không quá hiểu tôi) bảo rằng tôi nên đọc cuốn Deer Hunting with Jesus (tạm dịch: Săn hươu với Chúa Jesus) của Joe Bageant. Khi tôi hỏi vì sao, anh ấy trả lời, với sự khinh thường hiển hiện trong giọng nói: “Để cô có thể hiểu rõ hơn về hình ảnh một nước Mỹ mà các giảng viên đại học chưa bao giờ nhận thấy và sẽ không bao giờ hiểu được.” Tôi thầm nghĩ: Anh chả biết cái quái gì về tôi, gia đình tôi hay nơi tôi sinh ra cả.

Chúng ta càng phân loại chính mình thì những người xung quanh cũng sẽ càng đua nhau phân loại chúng ta. Bởi bằng cách phân loại, họ mới biết phải làm gì và nói gì, đồng thời có thể quyết định vì sao nên tin hay không nên tin chúng ta. Người bạn của tôi mong rằng cuốn sách sẽ giúp tôi hiểu về nước Mỹ của anh ta. Nhưng hóa ra tôi đã biết về nước Mỹ đó rất rõ. Đó là nơi có những người tôi yêu quý. Nhưng, với tâm hồn đầy thành kiến, người bạn ấy cho đó là nước Mỹ mà tôi không hiểu, nói gì đến thuộc về.

Có thể phần nhiều độc giả của cuốn sách này cũng mang trong mình quan niệm sai lầm đó. Mọi thứ không đơn giản như vậy. Bởi chúng ta không đơn giản như vậy. Tôi là một giảng viên. Ông tôi từng lái xe tải, phụ trách vận hành xe nâng hàng ở một nhà máy bia. Steve là một bác sĩ nhi có bà là dân nhập cư từ Mexico, từng làm công nhân may mặc ở một nhà máy trung tâm San Antonio.

Việc phân loại mà chúng ta thực hiện với bản thân và với người khác nói một cách tích cực nhất là vô ý và mang tính phản xạ. Nhưng đứng ở góc độ tiêu cực nhất thì đó là sự rập khuôn khiến chúng ta mất đi nhân tính. Nghịch lý ở chỗ, tất cả chúng ta đều yêu thích hệ thống phân loại sẵn có này. Nó đặc biệt tiện dụng khi chúng ta muốn nhanh chóng định rõ đặc điểm của người khác, nhưng lại căm ghét nó nếu chúng ta là đối tượng bị phân loại.

Trong những tháng sau cuộc bầu cử năm 2016 và lễ nhậm chức Tổng thống vào tháng Một, hàng ngàn e-mail tới tấp bay đến từ những thành viên của cộng đồng chúng tôi, hỏi xin lời khuyên về cách đối mặt với sự phân rã đang càn quét không chỉ trên phạm vi toàn nước Mỹ mà còn qua từng ngôi nhà. Khác với hệ thống các nhóm đã được phân chia ở nước Mỹ, cộng đồng của tôi vẫn khá đa dạng, thế nên những e-mail tôi nhận được đến từ nhiều lập trường khác nhau. Đó là câu chuyện của những người không nói chuyện với bố mình suốt nhiều tuần, hoặc của những người kể với tôi rằng một cuộc tranh cãi về chính sách xã hội đã trực tiếp dẫn tới ý định ly hôn.

Tôi còn nhớ khoảng thời gian cao trào của những cuộc tranh luận, đó là dịp Lễ Tạ ơn, và chúng tôi thường đùa với nhau là phải mua dao dĩa nhựa để ăn tối nhằm tránh gây thương tích cho nhau trong suốt kỳ nghỉ lễ. Sự kiện này làm tôi liên tưởng đến cuốn tiểu thuyết phản địa đàng của Veronica Roth có tên pergent (tạm dịch: Dị biệt), trong đó, mọi người phải chọn môn phái cho mình dựa trên tính cách. Châm ngôn trong cuốn sách đó là: “Môn phái hơn tình thân. Hơn cả gia đình, môn phái là nơi chúng ta thuộc về.” Thế thì đáng sợ thật. Nhưng điều đáng sợ hơn là châm ngôn đó dường như đang dần rời khỏi cuốn tiểu thuyết phi hư cấu mà bước ra đời thực rồi.

Chúng ta rời xa những người mà mình quen biết và yêu thương để đồng tình và tìm cách gắn kết với những kẻ xa lạ mà mình không hẳn quen, gần như không tin tưởng và chẳng yêu thương gì – những kẻ chắc chắn sẽ không có mặt để lái xe đưa chúng ta đến bệnh viện hay nấu ăn cho chúng ta khi bọn trẻ bị ốm – đó là mặt trái của việc phân loại. Gia đình là nơi mà phần lớn chúng ta chọn giải quyết vấn đề bằng cách nhượng bộ thay vì “loại ra khỏi cuộc sống”. Kể cả khi hệ thống chính trị bị phân cực do các sự kiện xảy ra gần đây đã hé lộ một số khác biệt trong giá trị cốt lõi giữa chúng ta và những người chúng ta yêu quý, thì cắt đứt mối quan hệ đó vẫn được xem là giải pháp cuối cùng khi không còn lựa chọn nào khác – một kết quả chỉ xảy đến sau những cuộc nói chuyện gay gắt, gây ra nhiều tổn thương và sự tôn trọng đối với ranh giới của nhau đã bị sụp đổ hoàn toàn.

Trong 20 năm, tôi đã có vinh dự lớn lao được giảng dạy tại Đại học Houston – một trong những trường đại học tập trung nghiên cứu chuyên sâu về sự đa dạng chủng tộc và dân tộc trên nước Mỹ. Vài học kỳ trước, tôi hỏi một lớp gồm 60 sinh viên – một lớp học đại diện cho sự đa dạng tuyệt vời của cả trường về chủng tộc, xu hướng tính dục và bản dạng giới13, và nền tảng văn hóa – rằng niềm tin của họ có tương đồng với niềm tin chính trị, xã hội và văn hóa của ông bà họ hay không. Khoảng 15% sinh viên nói có hoặc gần tương đồng. 85% còn lại dao động ở mọi mức độ, từ xấu hổ cho đến cảm thấy bị xúc phạm khi nói đến quan điểm chính trị của các thành viên trong gia đình.

13 Là giới tính tự xác định, không nhất thiết dựa trên giới tính sinh học hoặc giới tính được người khác công nhận, cũng không phải thiên hướng tính dục.

Một sinh viên người Mỹ gốc Phi cho biết cậu luôn tán thành với ông bà trong hầu hết mọi vấn đề, ngoại trừ vấn đề quan trọng nhất với cậu – cậu không thể tiết lộ giới tính thật với ông bà mặc dù cả gia đình đều đã biết cậu là gay. Ông cậu là mục sư đã về hưu và rất bảo thủ về vấn đề đồng tính. Một sinh viên da trắng kể về thói quen của bố mình khi luôn gọi bồi bàn trong các quán ăn Mexico là “Hola, Pancho!14”. Cô có bạn trai là người La-tinh và nói rằng thói quen của ông bố khiến cô cảm thấy thật mất mặt. Nhưng khi tôi hỏi họ có ghét ông bà hay có sẵn sàng cắt đứt quan hệ với các thành viên gia đình do những khác biệt về chính trị xã hội không thì cả lớp đồng thanh nói “không”. Tất nhiên, mọi thứ phức tạp hơn thế.

14 Chào theo cách của người Mỹ La-tinh.

Câu hỏi quan trọng ở đây là: Bạn có nghĩ những hành động phân loại theo quan điểm chính trị và niềm tin mà chúng ta đang thực hiện có dẫn tới sự gia tăng về tương tác xã hội hay không? Nếu chúng ta dựa vào tư tưởng và vị trí địa lý để dựng một hàng rào xung quanh và chỉ sống trong đó cùng với những người có quan điểm giống mình, điều đó có đồng nghĩa với việc xung quanh chúng ta là những người bạn và những người chúng ta thân thiết một cách sâu sắc? Tôn chỉ “hoặc cùng chúng tôi, hoặc chống chúng tôi” có dẫn đến mối quan hệ khăng khít hơn giữa những người cùng quan điểm không? Câu trả lời dành cho những câu hỏi trên là một chữ Không rõ ràng đến mức đáng ngạc nhiên. Chúng ta càng tích cực phân loại bao nhiêu, sự cô đơn càng gia tăng bấy nhiêu.

Theo Giám mục Bill, vào năm 1976, chưa đến 25% dân số Mỹ sống ở những nơi có số phiếu bầu cử tổng thống áp đảo. Nói cách khác, ở thời điểm đó, chúng ta sống cạnh, đi học cùng và đi nhà thờ cùng những người có quan điểm khác với mình. Chúng ta đa dạng về mặt tư tưởng. Trái lại, trong năm 2016, ở 80% các hạt ở Mỹ, Donald Trump hoặc Hillary Clinton giành chiến thắng áp đảo. Phần lớn chúng ta không còn sống cạnh những người khác biệt về niềm tin chính trị và xã hội với mình nữa.

Hãy cùng so sánh những con số để xem điều gì đang xảy ra với sự cô đơn. Năm 1980, xấp xỉ 20% người dân Mỹ cho biết họ cảm thấy cô đơn. Ngày nay, con số đó tăng lên hơn gấp đôi. Và đây không còn là vấn đề trong phạm vi nước Mỹ nữa, nó đã trở thành vấn nạn toàn cầu.

Rõ ràng, việc lựa chọn ở bên những người “đồng quan điểm” và rời xa những người “khác biệt” không mang lại cảm giác thuộc về sâu sắc mà bản năng chúng ta mong muốn. Để hiểu về sự thật hiển nhiên này, chúng ta phải hiểu rõ hơn như thế nào là cô đơn và làm thế nào mà cô đơn lại lan truyền như một loại bệnh dịch cũng như ảnh hưởng đến cách chúng ta thể hiện trước mặt người khác.

Từ bên ngoài nhìn vào

Nhà nghiên cứu khoa học thần kinh John Cacioppo thuộc Đại học Chicago đã nghiên cứu về sự cô đơn trong hơn 20 năm. Ông định nghĩa cô đơn là “trạng thái cách ly xã hội một cách có ý thức”. Chúng ta thấy cô đơn khi cảm thấy lạc lõng. Có thể là do chúng ta bị đẩy ra khỏi một nhóm người mà mình trân quý hoặc có thể chúng ta thiếu cảm giác thuộc về đích thực. Cốt lõi của sự cô đơn là thiếu vắng tương tác xã hội có ý nghĩa – đó là những mối quan hệ thân tình, tình bạn, các buổi họp mặt gia đình hay thậm chí là sự kết nối với cộng đồng hoặc đồng nghiệp.

Cần lưu ý rằng cô đơn và một mình là hai khái niệm khác nhau. Trạng thái một mình là công cụ đầy sức mạnh có thể chữa lành vết thương. Là người hướng nội, tôi thực sự trân trọng những lúc ở một mình và những khi cảm thấy cô đơn nhất thường là lúc tôi ở cạnh người khác. Trong chính gia đình mình, chúng tôi gọi cảm giác mất kết nối giữa các thành viên với nhau là “cảm giác cô đơn”.

Tôi không thể nhớ bao nhiêu lần mình đã gọi cho Steve khi đang đi trên đường và bảo với anh rằng: “Em đang cảm thấy cô đơn.” Phương thuốc chữa trị thường là một cuộc tán gẫu ngắn với anh ấy và các con. Nghe thì có vẻ kỳ lạ nhưng sau đó Steve thường khuyên tôi: “Có thể em sẽ cần chút thời gian ở một mình trong phòng đấy.” Đó là phương thuốc tuyệt vời cho tôi. Với tôi, không gì cô đơn hơn việc ở bên cạnh người khác mà vẫn cảm thấy chỉ có một mình.

Gia đình tôi áp dụng cụm từ “cảm giác cô đơn” trong mọi hoàn cảnh. Chẳng có gì lạ khi Ellen hay Charlie bảo: “Con không thích nhà hàng đó. Nó làm con có cảm giác cô đơn” hay “Bạn con ngủ lại nhà mình đêm nay được không mẹ? Nhà bạn ấy làm con có cảm giác cô đơn.”

Khi cả bốn thành viên gia đình chúng tôi cố tìm hiểu xem “cảm giác cô đơn” có ý nghĩa gì với bản thân mỗi người, chúng tôi đều nhất trí rằng chúng tôi có cảm giác cô đơn ở những nơi không có sự gắn kết. Vì lý do đó, tôi cho rằng, không chỉ con người, bản thân địa điểm cũng có thể mang lại cảm giác thiếu gắn kết. Đôi khi, một nơi chốn nào đó có thể khiến người ta thấy cô đơn bởi các mối quan hệ ở đó thiếu cảm giác gắn kết. Ngoài ra, ở một địa điểm nhất định, nếu bạn không hình dung nổi cảm giác kết nối giữa mình và người khác thì không gian đó tự nó cũng mang lại cảm giác cô đơn.

Mặc dù những phát kiến trong nghiên cứu của tôi có sự liên kết sâu sắc với những gì Cacioppo đã tìm ra, nhưng mãi đến khi tự mình tìm hiểu công trình của ông, tôi mới hiểu rõ tầm quan trọng của sự cô đơn trong cuộc sống. Ông giải thích rằng, khi là thành viên của một giống loài mang tính xã hội, sức mạnh của chúng ta không đến từ cái tôi cá nhân gai góc mà từ khả năng tập thể trong việc lên kế hoạch, giao tiếp và làm việc với nhau. Các thành phần cơ bản cấu tạo nên hệ thần kinh như hoóc-môn và gen ưa sự tương thuộc hơn là sự độc lập. Ông giải thích: “Trưởng thành như một giống loài mang đặc tính xã hội, trong đó bao gồm con người, không phải là quá trình trở thành một cá thể độc lập và đơn lẻ, đó là quá trình trở thành một cá thể mà những cá thể khác có thể dựa dẫm. Dù chúng ta có nhận thức được điều đó hay không thì não bộ và hệ sinh học của chúng ta cũng được hình thành để ưu ái sự tương thuộc.” Tất nhiên chúng ta là một giống loài mang tính xã hội. Đó là lý do vì sao sự kết nối lại có vai trò quan trọng. Đó là lý do vì sao nỗi xấu hổ lại gây ra đau đớn và dễ làm chúng ta suy sụp đến thế. Đó là lý do vì sao chúng ta sinh ra đã muốn có cảm giác thuộc về.

Cacioppo cũng giải thích cách não bộ phát ra tín hiệu cảnh báo chúng ta khi sự sinh tồn bị đe dọa. Cơn đói là tín hiệu cảnh báo lượng đường huyết thấp và đã đến lúc cần phải ăn. Cơn khát cảnh báo cơ thể cần được bổ sung đủ nước để tránh mất nước. Cơn đau cảnh báo khả năng các tế bào sẽ bị hủy hoại. Và cô đơn cho ta biết chúng ta cần kết nối xã hội – một yếu tố có ý nghĩa quan trọng tới thể trạng của chúng ta không thua gì thức ăn và nước uống. Ông giải thích: “Thật vô nghĩa khi phủ nhận sự cô đơn đang bủa vây tâm hồn bạn, cũng giống như phủ nhận rằng bạn đang cảm thấy đói vậy.”

Tuy nhiên, chúng ta vẫn phủ nhận cảm giác cô đơn của chúng ta. Từng dành nhiều năm nghiên cứu về nỗi xấu hổ, tôi cảm thấy mình lại quay về với một lĩnh vực mà tôi biết rõ. Chúng ta cảm thấy xấu hổ khi cô đơn, như thể vì bản thân ta có vấn đề nên mới nảy sinh nỗi cô đơn. Chúng ta cảm thấy xấu hổ kể cả khi nỗi cô đơn của chúng ta là do nỗi sầu khổ, mất mát hay đau buồn gây ra. Cacioppo tin rằng nỗi xấu hổ khi thấy cô đơn đến từ cách chúng ta định nghĩa nó và nói về nó trong nhiều năm. Chúng ta từng định nghĩa cô đơn là “căn bệnh kinh niên giày vò không thể bù đắp”. Nó bị đánh đồng với cảm giác ngại ngùng, trầm cảm, phản xã hội hoặc thiếu hụt kỹ năng xã hội. Ông đưa ra một minh họa tuyệt vời cho điều này: “kẻ cô độc” là cái tên chúng ta gán cho những tên tội phạm hay kẻ xấu!

Cacioppo giải thích rằng cô đơn không chỉ là một tình trạng “đáng buồn” – nó còn mang tính chất nguy hiểm. Não bộ của giống loài mang tính xã hội tiến hóa để phản ứng với cảm giác bị đẩy ra khỏi vòng tròn xã hội – là một kẻ ngoài cuộc – bằng cách khởi động chế độ tự duy trì. Khi chúng ta thấy bị cô lập, thiếu kết nối và cô đơn, chúng ta cố gắng tìm cách tự vệ. Ở chế độ đó, chúng ta muốn kết nối, nhưng não bộ lại cố đè nén sự kết nối bằng cách tự vệ. Điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta ít đồng cảm với người khác hơn, có tính phòng vệ cao hơn, trạng thái tê liệt xảy ra nhiều hơn và ngủ ít hơn. Trong cuốn Vươn lên từ thất bại, tôi đã viết về cách thức hoạt động chế độ tự vệ của não bộ: nó thường tích lũy những câu chuyện chúng ta tự kể cho bản thân về những gì đang xảy ra, tạo nên những câu chuyện sai sự thật hay phóng đại nỗi sợ, nỗi bất an tệ hại nhất của mình. Cảm giác cô đơn do bị phớt lờ cộng với cảm giác cô đơn sẵn có sẽ càng khiến chúng ta thấy sợ kết nối với người khác.

Để đương đầu với cảm giác cô đơn, đầu tiên chúng ta phải học cách nhận diện nó và can đảm xem nó là một dấu hiệu cảnh báo. Chúng ta nên phản ứng với dấu hiệu cảnh báo đó bằng mong muốn tìm sự kết nối. Điều đó không nhất thiết phải là tham gia nhiều hội nhóm hay tụ tập với nhiều bạn bè. Nhiều nghiên cứu khẳng định rằng điều quan trọng không nằm ở số lượng bạn bè mà là chất lượng của một số ít mối quan hệ.

Nếu bạn giống tôi và đang tự hỏi liệu chết đói và cô đơn có nghiêm trọng như nhau không thì hãy để tôi chia sẻ một nghiên cứu thực sự đã giúp tôi xâu chuỗi vấn đề. Trong phần phân tích tổng hợp của một nghiên cứu về sự cô đơn, các nhà nghiên cứu Julianne Holt-Lunstad, Timothy B. Smith và J. Bradley Layton đã phát hiện như sau: sống trong không khí ô nhiễm sẽ tăng khả năng chết sớm lên 5%. Sống với bệnh béo phì là 20%. Uống rượu bia vô độ là 30%. Còn sống với nỗi cô đơn? Nó làm tăng nguy cơ chết sớm lên 45%.

Nỗi sợ đã dẫn lối chúng ta

Vậy bằng cách nào mà chúng ta lại tự phân loại mình và cảm thấy cô đơn? Chúng ta không thể cứ thế cho rằng việc phân loại bản thân là lý do khiến mình cảm thấy cô đơn hơn. Đó không phải là mục đích của những nghiên cứu này. Chúng ta không thể cứ thế cho qua được. Tuy nhiên, chúng ta có thể thừa nhận mình đang gặp khó khăn ở vài khía cạnh và cần hiểu tất cả các khía cạnh đó nếu muốn thay đổi.

Đáp án cho câu hỏi “Làm thế nào mà chúng ta rơi vào tình trạng ‘phân loại, bị phân loại và mất kết nối’ này?” chắc chắn sẽ rất phức tạp. Nhưng nếu phải xác định một biến cốt lõi thúc đẩy tình trạng đó, câu trả lời của tôi là nỗi sợ hãi. Sợ tổn thương. Sợ đau lòng. Sợ nỗi đau khi lạc lõng. Sợ chỉ trích và thất bại. Sợ xung đột. Sợ mình chưa đủ tốt. Nỗi sợ hãi.

Tôi bắt đầu nghiên cứu vào sáu tháng trước sự kiện ngày 11 tháng Chín15 và thời điểm xảy ra sự kiện đó, khi đặt bút viết, tôi đã chứng kiến cái cách mà nỗi sợ làm thay đổi chúng ta. Tôi chứng kiến nỗi sợ lấn át từng gia đình, tổ chức, cộng đồng. Các câu chuyện trên khắp nước Mỹ chỉ tập trung vào “Chúng ta nên sợ điều gì?” và “Chúng ta nên đổ lỗi cho ai?”

15 Sự kiện khủng bố tòa tháp đôi ở New York, Mỹ.

Tôi không phải là chuyên gia về chủ nghĩa khủng bố nhưng đã nghiên cứu nỗi sợ hãi trong hơn 15 năm và đây là điều mà tôi có thể nói với bạn: Chủ nghĩa khủng bố là nỗi sợ lớn dần theo thời gian. Mục đích cuối cùng của chủ nghĩa khủng bố cả trong nước Mỹ lẫn trên thế giới đều nhằm tấn công để đưa nỗi sợ hãi vào nơi sâu thẳm nhất của một cộng đồng, đến mức nỗi sợ đó trở thành một phần của cuộc sống. Cuộc sống mà nỗi sợ trở thành một phần tất yếu và hiển nhiên lại châm ngòi cho cơn giận dữ, sự trách cứ và không ngừng đổ lỗi cho nhau. Chủ nghĩa khủng bố sẽ đạt được mục tiêu đen tối nhất của nó khi chúng ta để nỗi sợ hãi ăn sâu vào nền văn hóa. Đến khi đó, không sớm thì muộn, chúng ta sẽ trở nên tách rời nhau, lạc lõng và luôn bị cảm giác đơn độc chi phối. Dù xu hướng phân loại con người và nhận thức về nỗi cô đơn đã xuất hiện trước sự kiện 11 tháng Chín nhưng dữ liệu cho thấy chúng đã tăng lên nhanh chóng trong vòng 15 năm qua.

Một cách bản năng, lúc mới bắt đầu, chấn thương và khủng hoảng bạo lực có thể gắn kết con người với nhau trong một khoảng thời gian tương đối ngắn. Nếu trong quãng thời gian gắn kết ban đầu đó, chúng ta có thể nói ra một cách cởi mở về nỗi đau và nỗi sợ chung mà mọi người đều cảm thấy, nếu chúng ta tìm đến nhau một cách vô tư và yêu thương, đồng thời vẫn tìm kiếm công lý và trách nhiệm thì đó có thể là khởi đầu của một quá trình chữa lành lâu dài. Trái lại, nếu kết nối với nhau bằng cảm giác thù hằn và sợ hãi, thứ mà cuối cùng biến thành chủ nghĩa đổ lỗi, thì chúng ta đang gặp vấn đề lớn. Nếu những nhà cầm quyền cũng vội vàng tạo ra một kẻ thù trái lý tưởng của mình để chúng ta có thể nhanh chóng đoàn kết lại thay vì cẩn thận xác định nguyên nhân thực sự, thì hậu quả là chúng ta đang đi chệch hướng khỏi cuộc truy tìm bản chất sự việc – một vấn đề đang diễn ra ngay trong các gia đình và cộng đồng.

Cờ hoa đang bay phấp phới trên từng hiên nhà và ảnh chế trên mạng xã hội đang là xu hướng trong khi nỗi sợ hãi ăn dần ăn mòn và di căn khắp nơi. Những gì chúng ta tưởng là phong trào đoàn kết thực chất chỉ là lớp vỏ bọc cho nỗi sợ hãi khi nó đang bắt đầu lan ra khắp nơi và len lỏi qua từng kẽ nứt trong hệ thống của nước Mỹ. Khi nỗi sợ tăng lên, nó ngày càng phát tán, làm suy yếu các công cụ bảo vệ chúng ta và ngày càng chia rẽ con người. Nó len lỏi vào từng khoảng cách và làm sụp đổ nền tảng xã hội vốn đã suy yếu bởi những kẽ nứt bé nhỏ.

Không chỉ chủ nghĩa khủng bố toàn cầu mới đưa nỗi sợ dấn sâu vào văn hóa của chúng ta. Những vụ xả súng bừa bãi khắp nơi, các cuộc tấn công có hệ thống chống lại những nhóm người nhất định và cả những lời đả kích nhau nhan nhản trên các phương tiện xã hội – tất cả đều mang nỗi sợ, giống như nham thạch, chảy trào khắp nơi trong cộng đồng, lấp kín mọi lỗ hổng và cuối cùng phá hủy những nơi vốn đã mong manh và đổ vỡ.

Với trường hợp của nước Mỹ, ba rạn nứt lớn nhất của chúng ta – đang lớn dần và ngày càng sâu hơn do sự cố tình thờ ơ và sự thiếu can đảm chung của cộng đồng – là chủng tộc, giới tính và giai cấp. Nỗi sợ hãi và sự bất trắc bắt nguồn từ đủ các chấn thương tập thể đã khiến những chia cắt trong lòng nước Mỹ ngày càng sâu sắc và trầm trọng.

Những cuộc đối thoại về các rạn nứt đó cần phải được nói ra, dù kéo theo đó là cảm giác không thoải mái. Dù vậy, cũng phải thừa nhận rằng việc lảng tránh, trốn chạy khỏi những cuộc đối thoại cứng rắn và cởi mở đã thúc đẩy chúng ta tự phân loại chính mình và tách xa người khác.

Có cách nào để quay về với bản thân và với người khác trong khi vẫn đấu tranh cho những gì mình tin tưởng không? Không và có. Không vì không phải ai cũng có thể làm được cả hai, đơn giản bởi một số người sẽ tiếp tục tin rằng đấu tranh cho những gì mình tin tưởng đồng nghĩa với việc phải phủ nhận nhân tính của người khác. Điều đó khiến việc kết nối với những người “khác” chúng ta trở thành điều không thể. Tuy nhiên, tôi tin rằng, hầu hết mọi người vẫn kết nối được với nhau dù khác biệt và đấu tranh cho những niềm tin khác nhau nếu mỗi người đều sẵn sàng lắng nghe và không ngại tổn thương. Trong trường hợp may mắn, nếu có một số người có thể làm được điều này, sức mạnh thay đổi mọi thứ sẽ được lan tỏa. Nhưng nếu ngay cả việc thử mà chúng ta còn không dám làm, thì giá trị của những gì chúng ta đang đấu tranh để bảo vệ sẽ ngày càng suy giảm.

Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng cảm giác thuộc về đích thực là đáp án cho câu hỏi vì sao chúng ta tự phân chia mình về đúng nhóm nhưng vẫn cảm thấy cô đơn, từ đó hé mở những phương pháp giúp lấy lại sự chân thật và kết nối. Đã có cảm giác thuộc về đích thực tức là không còn rào cản nào nữa. Chúng ta phải bước ra khỏi sự bủa vây của bản năng tự vệ và dấn bước vào thế giới hoang dã.

Khi núp bóng phía sau những rào cản, chúng ta không phải lo lắng về việc phải chịu tổn thương, phải can đảm hay phải tin tưởng người khác. Chúng ta chỉ phải tuân theo các quy tắc sẵn có. Và điều này thực sự vô ích. Rào cản về tư tưởng có thể bảo vệ chúng ta khỏi mọi thứ, nhưng không thể giúp ta tránh né cảm giác cô đơn và lạc lõng. Nói cách khác, nó không thể giúp chúng ta thoát khỏi những nỗi thống khổ lớn nhất.

Phần còn lại của cuốn sách sẽ nói về các phương pháp tìm lại sự kết nối của con người để chiến thắng nỗi sợ hãi và đạt được cảm giác thuộc về đích thực. Nếu đã đọc các tác phẩm trước của tôi, bạn sẽ biết làm được điều này không hề dễ. Bạn cần phải trải qua tổn thương và phải chọn dũng cảm thay vì an toàn. Chúng ta phải vượt qua, hay thậm chí tốt hơn nữa, phải học cách trở thành một phần của thế giới hoang dã.

Cô đơn cùng cực có thể là một cảm giác vừa đẹp đẽ, vừa mạnh mẽ nếu chúng ta làm chủ được nỗi đau và chia sẻ nó thay vì bắt người khác hứng chịu. Và nếu tìm được cách cảm nhận nỗi đau thay vì lan truyền nó, chúng ta có thể tạo ra thay đổi. Tôi tin rằng trong một thế giới mà chúng ta có thể tạo ra, chia sẻ nghệ thuật và ngôn từ, mọi người đều có thể tìm cách kết nối với nhau. Thay vì chỉ trích và từ chối giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, hãy can đảm đứng lên vì nhau. Như một câu hát của Townes Van Zandt trong “If I Needed You” (tạm dịch: Nếu tôi đã cần có bạn) - một bài high lonesome yêu thích của tôi:

Tôi sẽ đến bên bạn,

Tôi sẽ vượt biển khơi, để xoa dịu nỗi đau của bạn.