Chương 5 Lên tiếng trước lời nhảm nhí. Vẫn giữ thái độ văn minh
Tôi muốn mình như một tấm kính vừa đủ mờ để không bị người khác nhìn thấu và tấn công, vừa đủ trong để bộc lộ bản sắc của mình.
☆☆☆
Một người nói dối và một người nói thật ở hai phía đối lập cùng chơi một trò chơi. Mỗi người sẽ bày tỏ quan điểm về sự việc theo cách họ hiểu, mặc dù lời nói của một người sẽ được sức mạnh của sự thật dẫn dắt còn lời nói của người còn lại sẽ bất chấp và từ chối sức mạnh đó. Còn người nói lời nhảm nhí sẽ phớt lờ tất cả những điều đó. Anh ta không chối từ sức mạnh của sự thật và đặt mình vào thế đối chọi với sự thật như người nói dối. Anh ta không mảy may quan tâm đến sự thật. Bởi vậy, lời nhảm nhí là kẻ thù lớn hơn của sự thật, hơn cả lời nói dối.
— Harry G. Frankfurt
Thật may, Carl Jung đã nhắc chúng ta nhớ rằng nghịch lý là một trong những tài sản tinh thần quý giá nhất. Nếu không có lời nhắc đó, có lẽ tôi đã rất bực mình về một điều liên quan đến cảm giác thuộc về đích thực. Tôi ủng hộ việc lên tiếng trước lời nhảm nhí và tin vào thái độ văn minh, nhưng tôi cho rằng thật khó để kết hợp cả hai. Trong chương này, chúng ta sẽ tìm hiểu những lời nhảm nhí được hình thành từ đâu, được thể hiện như thế nào và làm cách nào để chúng ta vẫn giữ thái độ văn minh khi phải nghe những lời nhảm nhí mỗi ngày.
Lời nhảm nhí
Harry Frankfurt là Giáo sư danh dự ngành Triết học của Đại học Princeton. Ông đã dành cả sự nghiệp để giảng dạy ở Đại học Yale, Rockefeller và Ohio State. Năm 2005, ông ra mắt cuốn On bullshit (tạm dịch: Bàn về lời nhảm nhí). Đó là một cuốn sách ngắn bàn về bản chất của lời nhảm nhí, sự khác nhau giữa nó với lời nói dối và tại sao có những lúc chúng ta đều bị buộc phải nói ra những lời nhảm nhí.
Có ba điểm Frankfurt chỉ ra trong cuốn sách khiến tôi cảm thấy thu hút và những điểm này cũng đã phản ánh chính xác những gì tôi rút ra từ những người tham gia nghiên cứu, khi họ nói về nỗ lực giữ vững sự chân thật và chính trực của bản thân trong những cuộc tranh biện bị chi phối bởi cảm xúc nhiều hơn là mong muốn chia sẻ hiểu biết. Sự khác biệt đầu tiên giữa nói dối và nói nhảm nhí là: có thể xem nói dối là không tuân theo sự thật còn nói nhảm nhí là giũ bỏ hoàn toàn sự thật.
Thứ hai, chúng ta nên nhận ra sự thật là khi buộc phải nói về những điều mình không hiểu, chúng ta thường dùng lời nhảm nhí để thay thế. Frankfurt giải thích việc nhiều người tin rằng mình cần đưa ra phát ngôn về mọi vấn đề xảy ra trên toàn cầu đã làm gia tăng số lời nói nhảm nhí. Tôi thấy thật điên rồ khi quá nhiều người cho rằng cần phải đưa ra ý kiến về mọi chuyện, từ những sự kiện xảy ra ở Sudan, Việt Nam đến ảnh hưởng của biến đổi khí hậu ở Hà Lan cho tới chính sách nhập cư ở California.
Nhắc đến điều này, tôi cũng có chút xấu hổ. Không ít lần, người ta tìm gặp tôi và hỏi ý kiến của tôi về một vấn đề không liên quan đến tôi lắm. Thế nhưng, kể cả khi chưa hiểu đủ về vấn đề đó ở mức am tường hay thậm chí là chỉ ở mức đủ để thảo luận, tôi vẫn chọn tham gia những cuộc tranh cãi tư tưởng dựa trên những gì tôi đoán là “người ở phía tôi” sẽ nghĩ. Tôi cũng không thể nhớ được trong năm vừa rồi, liệu có lần nào khi tôi hỏi ai đó về một vấn đề và người ta trả lời: “Tôi thực sự không biết nhiều về chuyện đang xảy ra, hãy kể cho tôi nghe với.”
Chúng ta thậm chí còn không màng tìm hiểu thêm về sự việc, bởi ở đâu đó ngoài kia sẽ luôn có một người “đứng về phía chúng ta”. Trong một nền văn hóa mà người ta luôn cố thích nghi, ở nhà, ở chỗ làm hay ở các cộng đồng lớn thì sự khao khát tìm hiểu được xem là yếu đuối và đưa ra câu hỏi tức là chống đối thay vì được trân trọng như là tinh thần học hỏi.
Cuối cùng, Frankfurt cho rằng sự tràn lan lời nhảm nhí hiện nay còn có nguồn gốc sâu xa hơn: thái độ nghi ngờ và phủ nhận rằng chúng ta có thể nắm được bản chất của mọi việc. Ông cho rằng khi không còn tin mình có thể hiểu và chia sẻ sự thật, chúng ta đã từ bỏ việc tìm hiểu nó một cách khách quan. Giống như thể chúng ta đều chỉ nhún vai rồi nói: “Sao cũng được. Tìm hiểu sự thật quá khó nên nếu tôi bảo điều gì đó là đúng thì cũng chẳng sao cả.”
Cái nhìn sắc sảo của Frankfurt về những gì đang dẫn dắt chúng ta mang tính dự báo trong năm 2017. Ông cho rằng một khi phủ nhận ý nghĩa của việc nói đúng sự thật, chúng ta đơn thuần sẽ chọn cách nói ra những gì mình nghĩ. Với tôi, điều này đã sinh ra một trong những vấn đề nhảm nhí nhất hiện nay: cuộc tranh luận “hoặc là bạn đứng về phía chúng tôi hoặc là chống lại chúng tôi.”
Bạn đứng về phía tôi hoặc trở thành kẻ thù của tôi
Như đã đề cập ở trên, căn nguyên của thực trạng chính là sự phát triển của tư tưởng “hoặc là bạn đứng về phía chúng tôi hoặc là chống lại chúng tôi”. Đây là câu nói mang nặng cảm tính mà chúng ta có thể nghe thấy ở hầu hết mọi kiểu người, từ chính trị gia đến những anh hùng và kẻ phản diện trên màn ảnh, thường được nói ra với tần suất thường xuyên. Đây là một trong những cách phân loại mang tính chính trị hiệu quả nhất và khoảng 95% thời điểm câu nói này được nói ra, nó thường là một câu nhảm nhí đầy cảm tính và chứa đựng cảm xúc mãnh liệt. Dù có chủ ý hay không.
Benito Mussolini rất hay sử dụng câu “O con noi o contro di noi” (“hoặc là bạn đứng về phía chúng tôi hoặc là chống lại chúng tôi”). Những tuần sau sự kiện 11 tháng Chín, cả George W. Bush lẫn Hillary Clinton đều bảo với người dân toàn cầu rằng họ “hoặc đứng về phía chúng tôi trong cuộc chiến chống khủng bố hoặc chống lại chúng tôi”. Bush thậm chí còn nhấn mạnh hơn: “Mọi quốc gia, ở mọi khu vực, giờ đây phải đưa ra quyết định. Hoặc là các bạn đứng về phía chúng tôi hoặc các bạn đứng về phe khủng bố.” Và nó cũng nằm trong cả những câu chuyện. Trong bộ phim Star Wars: Revenge of the Sith (Chiến tranh giữa các vì sao: Sự trả thù của Sith), nhân vật Darth Vader đã nói với Obi-Wan Kenobi: “Nếu ông không đứng về phía tôi thì ông là kẻ thù của tôi.”
Thường chúng ta sử dụng cụm từ “đứng về phía tôi hoặc chống lại tôi” trong lúc phải chịu áp lực lớn về cảm xúc. Chúng ta có thể không cố ý chi phối người khác, có điều bị đẩy đến một hoàn cảnh mà ở đó trung lập là vị thế nguy hiểm. Tôi hoàn toàn đồng ý với điểm này. Một trong những câu nói mà tôi tâm đắc đến từ Elie Wiesel: “Chúng ta luôn luôn phải chọn phe phái. Trung lập chỉ có lợi cho những kẻ đàn áp chứ không bao giờ có lợi cho người bị đàn áp. Im lặng là cổ vũ cho những kẻ tra tấn chứ không bao giờ cổ vũ cho những người bị tra tấn.” Do lựa chọn phe phái mang nặng cảm tính, không dựa trên tính khách quan của sự kiện, chúng ta thường bị ám ảnh bởi nỗi sợ không thuộc về đâu, hoặc sợ bị người khác xem là sai trái. Chúng ta cần đặt ra nghi vấn về sự hình thành của các phe phái. Thật sự là chỉ có hai lựa chọn thôi sao? Đây là cấu trúc chuẩn xác cho cuộc tranh luận này hay là lời nhảm nhí?
Trong triết học, “hoặc là bạn đứng về phía chúng tôi hoặc là chống lại chúng tôi” được xem là lối phân tách sai (false dichotomy) hay song đề sai (false dilemma). Đó là cách buộc người khác phải chọn phe phái. Nếu có những lựa chọn khác (và gần như lúc nào cũng có), câu nói trên sẽ không còn đúng nữa. Nó biến một phương thức cảm tính trở thành cảm giác thuộc về được vũ trang hóa. Nó luôn mang lại lợi ích cho những kẻ khiêu khích hai bên và tung ra những lựa chọn sai lầm mang tính ép buộc đó.
Cách tư duy để thoát khỏi những tình huống kiểu này thuộc nền tảng của tư duy phản biện, và để thoát ra được, chúng ta buộc phải dũng cảm. Sự hiếu kỳ và khao khát được hỏi và tìm hiểu nằm ngay bên ngoài rào cản của sự chắc chắn mà chúng ta dựng nên. Với hầu hết mọi người, kể cả khi cảm thấy câu nói “đứng về phía tôi hoặc chống lại tôi” là một lời nhảm nhí quá rõ ràng thì lựa chọn một phe vẫn dễ dàng và an toàn hơn. Các cuộc tranh luận luôn được xây dựng theo hướng chỉ có một lựa chọn đích thực. Nếu chọn giữ im lặng, chúng ta sẽ mặc nhiên bị biến thành “kẻ ngoài cuộc”.
Lựa chọn đúng đắn duy nhất là từ chối giới hạn “chỉ một trong hai” bằng cách thách thức cấu trúc hai phe của cuộc tranh luận. Nhưng đừng nhầm lẫn; mục đích của hành động này là hướng đến vùng hoang dã. Lý do? Bởi những cuộc tranh luận hai phe kiểu này được dựng lên nhằm mục đích làm tiếng nói bất đồng biến mất và vẽ ra những ranh giới ngăn chặn tranh cãi, thảo luận và đưa ra câu hỏi – những quá trình mà chúng ta đều biết sẽ giúp giải quyết vấn đề hiệu quả.
Tuy nhiên, sự im lặng của chúng ta sẽ đi kèm với một cái giá rất đắt cả chung lẫn riêng. Ở khía cạnh cá nhân, chúng ta phải trả giá bằng sự chính trực của mình. Ở khía cạnh tập thể, chúng ta sẽ bị chia tách và thậm chí tệ hơn, bỏ lỡ cách giải quyết vấn đề hiệu quả. Những giải pháp có động cơ xuất phát từ cảm xúc thay vì sự kiện khách quan thường hiếm khi mang lại hiệu quả và tính chiến lược cho những vấn đề nhạy cảm. Thông thường, lối song đề sai thường được đưa ra khi chúng ta bị bủa vây bởi nỗi sợ hãi, cảm xúc cực đoan và sự thiếu hiểu biết. Đáng tiếc thay, chúng lại là điều kiện hoàn hảo để phát sinh những hành vi kém văn minh. Đó là lý do tại sao vòng xoáy lời nhảm nhí/thái độ thiếu văn minh lại trở nên vô hạn.
Thái độ văn minh
Khi đối mặt với những lời nói dối, chúng ta dễ giữ được thái độ văn minh hơn là khi lên tiếng trước lời nhảm nhí. Khi nói lời nhảm nhí, chúng ta không xem sự thật là điểm khởi đầu chung. Điều này khiến sự tranh cãi trở nên khó giải quyết và khiến chúng ta dễ bắt chước những hành vi nhảm nhí, cụ thể là: sự thật không quan trọng, tôi nghĩ gì mới quan trọng. Một trong những giải pháp là ghi nhớ Quy tắc bất đối xứng trong lời nhảm nhí của Alberto Brandolini hay còn được biết đến với cái tên Quy luật của Brandolini: “Lượng năng lượng cần có để phản bác lời nhảm nhí còn lớn hơn cả lượng năng lượng cần có để nghĩ và nói ra chúng.”
Đôi khi việc chỉ ra lời nào nhảm nhí là không cần thiết bởi người ta thường thích những lời đường mật, chẳng hạn như lời khen lịch sự quá đà hay trường hợp ở quê hương Texas yêu quý của tôi là câu chuyện phóng đại về việc leo đồi đi học rồi leo xuống, trong khi tuyết đang rơi và tay dắt theo một con lừa. Nhưng trong tình huống quan trọng, khi phải lên tiếng trước những lời nhảm nhí, tôi thấy có hai phương pháp rèn luyện có thể làm tăng hiệu quả.
Đầu tiên, hãy tiếp cận những lời nhảm nhí với thái độ rộng lượng nhất có thể. Đừng cho rằng người đời lẽ ra phải hiểu biết hơn thế và những lời này là minh chứng cho sự xấu tính của họ. Trong các buổi tranh luận, chúng ta có thể cảm thấy xấu hổ vì không có những ý kiến sâu sắc và cảm giác “không đủ” này có thể dẫn đến việc nói ra những lời nhảm nhí trong suốt cuộc hội thoại, những lời ta cứ tưởng là thật mà hóa ra toàn vô căn cứ. Ngoài ra, chúng ta còn bị mắc kẹt trong nỗi đau và nỗi sợ không được thấu hiểu và đồng thuận, đến nỗi sự thật chỉ đóng vai trò thứ yếu. Rộng lượng, thông cảm và hiếu kỳ (chẳng hạn: “Anh đọc được điều này hoặc nghe được điều này từ đâu vậy?”) có thể hỗ trợ cho nỗ lực đặt câu hỏi về những gì chúng ta đang nghe và từ đó giúp ta tìm ra sự thật.
Cách thứ hai là rèn luyện thái độ văn minh. Tôi tìm thấy một định nghĩa về thái độ văn minh từ Viện Văn minh học của Chính phủ Mỹ phản ánh rất rõ những gì người tham gia nghiên cứu của tôi nói về thái độ văn minh. Đồng sáng lập của tổ chức này, Cassandra Dahnke và Tomas Spath viết:
Thái độ văn minh là khẳng định và quan tâm tới bản sắc, nhu cầu và niềm tin của một người mà không hạ thấp bản sắc, nhu cầu và niềm tin của người khác... Văn minh là không tán thành nhưng vẫn tôn trọng, là tìm kiếm một nền tảng chung đóng vai trò xuất phát điểm cho cuộc đối thoại xoay quanh sự khác biệt của nhau, lắng nghe mà không đưa ra định kiến và giúp người khác hành động tương tự. Thái độ văn minh là nỗ lực tập trung vào hiện tại, thậm chí với những người mà chúng ta có bất đồng sâu sắc và kịch liệt. Nó mang tính chính trị bởi nó là điều kiện tiên quyết để thực hiện những hành động văn minh. Nhưng nó cũng mang tính chính trị do nó còn xoay quanh việc thương lượng giữa các cá nhân với nhau để ai cũng được lắng nghe và không ai bị phớt lờ.
Với những gì đã khám phá về lời nhảm nhí, lối song đề sai và thái độ văn minh, hãy cùng xem hai câu chuyện có thật sau. Câu chuyện thứ nhất là trải nghiệm của tôi khi rơi vào tình huống “hoặc đứng về phía tôi hoặc chống lại tôi” xoay quanh một vấn đề gây nhiều tranh cãi mà tôi phải nỗ lực giữ thái độ văn minh khi xung quanh mình toàn những lời nhảm nhí. Câu chuyện thứ hai là một bài học, khi tôi là nạn nhân của chính những lời nhảm nhí của mình và vô tình đẩy đồng nghiệp vào tình thế “hoặc đứng về phía tôi hoặc chống lại tôi”. Những gì học hỏi được từ hai trải nghiệm trên đã thay đổi tôi.
Bít tất chạy bằng pin
Tôi biết chính xác món quà mình muốn cho sinh nhật lần thứ 14 là gì. Không còn những chiếc áo len hiệu Bobbie Brooks, những viên đá trang trí, áp phích của Leif Garrett hay bít tất xỏ ngón. Tôi đã sẵn sàng cho những món quà tuổi teen thực thụ. Danh sách của tôi bao gồm máy tạo kiểu tóc hãng Clairol (loại bọc nhựa có thể gập lại mang đi du lịch), album Some Girls của nhóm Rolling Stones (tôi đã cho một người bạn mượn album đó và anh trai cô ấy đã bán nó lấy tiền uống bia), một chiếc quần jeans giống Gloria Vanderbilt và một đôi giày hiệu Candie (loại gót cao nghiêng mà tất cả những đứa con gái chất chơi đều mặc).
Tôi đã được tặng máy tạo kiểu tóc, một chiếc quần jeans của Lee và album của Rolling Stones. Bố mẹ tôi đề nghị rằng nếu muốn mua quần jeans kiểu Gloria Vanderbilt hay Jordache thì tôi phải tìm được việc làm, còn nếu muốn đi giày Candie trước 20 tuổi thì phải tìm bố mẹ mới. Trước khi tôi quay về phòng và mở bài “Beast of Burden20”, bố mẹ khiến tôi bất ngờ bằng một món quà khác. Nhìn chiếc hộp, tôi biết đó không phải là giày Candie, nhưng thấy bố phấn khích, tôi cũng phấn khích theo nên háo hức mở gói quà ra.
20 Một bài hát của nhóm The Rolling Stones.
Tất chạy bằng pin. Cặp tất len màu xám, chạy bằng pin. Tôi hẳn phải trông bối rối lắm bởi bố tôi bảo: “Nào cô gái! Để dành cho lúc mình tới chỗ nhà săn hươu đấy! Để chân con không bị lạnh nữa.”
Tôi thấy thật tệ hại. Tôi biết rất rõ là mình không cần đôi tất này nhưng không biết phải nói sao với bố. Tôi không còn tham gia các cuộc đi săn nữa. Trong tất cả các chuyến đi của chúng tôi, tôi chưa bao giờ bắn một con hươu nào. Chỉ đơn giản là tôi không thể làm thế. Tôi có thể bắn một con chim bồ câu hay chim cút nhưng không bao giờ bắn nổi một con hươu. Vậy nên, với tôi, những chuyến đi săn chỉ là những ngày dài đi săn lạnh cóng và những đêm giá buốt trong túi ngủ bên những người anh em họ của mình.
Tôi không bao giờ đi săn nữa và không bao giờ sử dụng đôi tất đó, nhưng tới hôm nay, tôi mới nhận ra việc đi săn đã trở thành một phần quan trọng thế nào trong quãng thời gian trưởng thành của tôi. Kể cả sau khi ngừng đi săn, tôi vẫn cảm nhận được niềm phấn khích và sự mong đợi của cả gia đình khi mùa săn bắn đến. Những ngày đó là một phần nhịp điệu cuộc sống của gia đình tôi, giống như sinh nhật hay kỳ nghỉ lễ. Và luôn có những gia đình khác hay bạn bè tới thăm chúng tôi với những bữa tiệc tuyệt ngon.
Bố tôi rất nghiêm túc với mọi thứ liên quan đến đi săn. Bạn chỉ có thể bắn những gì được cho phép trong giấy cấp phép săn bắn và không được phép bắn những thứ bạn không ăn. Đó là những quy tắc bất biến trong nhà tôi, được khắc trên bia đá. Bố tôi không có nhu cầu thu thập chiến tích săn bắn hay điều gì đó tương tự.
Đổi lại, nhà chúng tôi chẳng khác gì nhà hàng Bubba Gump phiên bản thịt thú rừng, với bò bít tết, xúc xích, thịt hầm, thịt khô, bánh burger. Không gì tuyệt hơn khi mọi người trở về từ cuộc đi săn rồi cùng tụ tập ở nhà tôi hoặc nhà dì tôi để xẻ thịt hươu, làm bánh tamale21, kể chuyện và cười đùa. Bố tôi là con út trong sáu người con của ông bà tôi và tôi có 24 anh chị họ. Có nhiều miệng ăn trong nhà nên săn bắn và câu cá còn mang giá trị lương thực chứ không đơn thuần là niềm vui.
21 Một loại bánh nổi tiếng của Mexico.
Chúng tôi đều có súng. Chúng tôi được trang bị súng BB khi học lớp hai hay lớp ba và súng săn khi học lớp năm, đó là thời điểm hầu hết chúng tôi đều đã bắt đầu đi săn. An toàn khi dùng súng hoàn toàn không phải là chuyện đùa. Chúng tôi không được phép sử dụng những khẩu súng mà mình không thể tháo ra, lau chùi và lắp lại.
Khi lớn lên cùng những cuộc săn bắn, bạn sẽ có hiểu biết rất khác về súng ống. Nó không phải là trò chơi video – bạn phải biết và cảm nhận chính xác nó có thể làm được những gì. Quan điểm của bố tôi và những người đi săn cùng chúng tôi đối với các loại vũ khí tự động và các khẩu súng lớn mà giờ đây người ta xem như đồ chơi, rất đơn giản: “Bạn muốn bắn những loại súng như vậy hả? Được lắm! Thế thì vào quân đội đi nhé!”
Giờ khi đã là mẹ, tôi ngẫm lại và thấy một điều khác có tác động to lớn không kém đó là sự kết hợp giữa quy tắc gia đình về đi săn và súng ống với việc chúng tôi không được phép xem bất kỳ chương trình ti-vi bạo lực nào. Tôi không được phép xem bộ phim nào gắn nhãn PG22 cho đến năm 15 tuổi. Chúng tôi không thể hiểu nổi vì sao người ta lại lãng mạn hóa bạo lực. Hồi đó chúng tôi không có trò chơi bạo lực trên video, nhưng tôi có thể tưởng tượng bố tôi cảm thấy thế nào về nó.
22 Parental Guidance Suggested: Nên có sự hướng dẫn của cha mẹ.
Tôi yêu và tự hào về điểm này của gia đình mình. Và giống như hầu hết những đứa trẻ khác, tôi cho rằng những ai lớn lên trong văn hóa đi săn và súng ống cũng được dạy bảo quy tắc tương tự. Nhưng khi lớn hơn một chút, tôi nhận ra điều đó không phải là sự thật. Do luật sở hữu súng ngày càng mang tính chính trị và phân cực, nên tôi ngày càng nghi ngờ về các cuộc vận động hành lang cho quyền sử dụng súng. Tôi chứng kiến NRA23 biến đổi từ một tổ chức mà tôi luôn gắn với hình ảnh của chương trình an toàn, huy hiệu tặng thưởng và các giải đấu bắn chim bồ câu bằng đất sét vì mục đích từ thiện cho đến một hình ảnh tôi không thể nhận ra. Tại sao họ lại xem mình là người đại diện cho các gia đình như chúng tôi trong khi không hề đặt ra giới hạn nào cho việc sở hữu súng có trách nhiệm?
23 National Riffle Association: Hiệp hội Súng trường Quốc gia.
Dù tôi thấy thế nào thì gia đình tôi cũng bắt đầu ủng hộ cuộc vận động hành lang sử dụng súng trong khi nhiều bạn bè và đồng nghiệp của tôi lại phỉ báng quyền sở hữu súng. Tôi nhanh chóng nhận ra mình không có chung tư tưởng với gia đình hay cộng đồng về vấn đề này. Lúc đó, tôi chưa biết sử dụng từ “vùng hoang dã” để diễn tả cảm giác đơn độc của mình nhưng đó chắc chắn chính là vùng hoang dã.
Cuối năm ngoái, tại một sự kiện, lúc đang nói chuyện với một nhóm người, tôi đề cập đến chuyện bố con tôi đang háo hức muốn dạy con trai tôi cách bắn chim bồ câu bằng đạn đất sét. Một người phụ nữ có vẻ kinh sợ và bảo: “Tôi rất ngạc nhiên khi biết chị là người yêu thích súng đấy. Tôi cứ ngỡ chị ở phe đối lập với NRA.” Nếu bạn đang đọc bình luận của cô ấy với giọng công kích và châm chọc thì tức là tôi đã truyền tải đúng tinh thần rồi. Biểu cảm trên khuôn mặt cô ấy lúc đó là xem thường và ghê tởm.
Tôi trả lời: “Tôi không chắc ý chị là gì trong từ ‘yêu thích súng’ hay ‘phe đối lập với NRA’?” Cô ấy ngồi nhổm dậy: “Nếu chị định dạy con mình cách bắn súng thì tôi cho rằng chị ủng hộ quyền sử dụng súng và NRA.”
Chính nó. Lối song đề sai.
Nếu tôi ủng hộ quyền sử dụng súng tức là tôi ủng hộ NRA. Không đời nào. Tôi không đồng ý.
Trong tất cả các tổ chức vận động hành lang mà tôi từng nghiên cứu trong 20 năm qua, không ai lợi dụng nỗi sợ và lối song đề sai giỏi hơn NRA. Các câu nói của NRA sử dụng từ “bọn họ” theo nghĩa xấu xí và lặp đi lặp lại những ngôn từ mang ý nghĩa “chúng ta với bọn họ”. Hãy cho phép mọi người mua bất kỳ loại súng đạn nào, bất kỳ lúc nào và ở bất kỳ đâu mà họ muốn, nếu không, họ sẽ phá cửa nhà bạn, lấy súng của bạn, nghiền nát tự do của bạn, giết những người mà bạn yêu quý và đặt dấu chấm hết cho nước Mỹ. Họ đang săn đuổi chúng ta. Họ đang tới. Đó là những lời nhảm nhí nhất mà tôi từng nghe kể từ khi có người bảo tôi: “Nếu bạn sở hữu súng – bất kỳ loại súng nào – bạn sẽ rất có khả năng trở thành kẻ bóp cò trong những vụ xả súng kinh hoàng.” Không đúng, hoàn toàn không.
Tôi đã hít một hơi thật sâu và tự nhủ “đừng cáu đừng cáu”, mỉm cười và nói: “Đó là một giả định không chính xác. Tôi quả thật ủng hộ quyền sở hữu súng. Nhưng tôi không ủng hộ NRA, chỉ bởi điều tôi ủng hộ là quyền sở hữu súng có trách nhiệm.”
Cô ấy có vẻ bực mình và khó hiểu. “Nhưng trước các vụ xả súng tại trường học như thế, tôi không hiểu sao cô không ủng hộ kiểm soát sử dụng súng.”
Thôi nào, chị gái.
“Tôi hoàn toàn ủng hộ luật kiểm soát súng hợp lý. Tôi tin rằng cần phải kiểm tra thân thế và áp dụng thời gian chờ từ thời điểm mua súng đến lúc nhận súng. Tôi không ủng hộ việc hợp pháp hóa sự mua bán vũ khí tự động, vũ khí hạng nặng hay đạn xuyên thép. Tôi không cho rằng việc mang súng vào khuôn viên trường học là được phép. Tôi...”
Nghe đến đó, cô ấy vô cùng tức giận và nói thẳng không kiêng nể: “Cô, hoặc là ủng hộ dùng súng, hoặc là phản đối.”
Lúc đó, tôi vẫn đang trong quá trình viết sách. Tôi cố gắng trở nên cảm thông nhất có thể và nói: “Tôi biết đây là một vấn đề khó nói và đau lòng, nhưng tôi không cho là cô hiểu điều tôi nói. Tôi sẽ không tham gia vào một cuộc tranh luận mà vấn đề chỉ gói gọn trong Bạn hoặc ủng hộ dùng súng hoặc phản đối. Đây là một vấn đề quan trọng. Nếu cô muốn nói chuyện lâu hơn về vấn đề này, tôi rất sẵn lòng. Và tôi sẽ không ngạc nhiên nếu có những vấn đề tương tự khiến chúng ta thấy bất mãn và hoảng sợ.”
Cô ấy xin phép và đi nhanh ra khỏi đó. Có lẽ cô ấy ghét tôi. Nhóm nhỏ những người đứng xung quanh chúng tôi có lẽ ghét tôi. Bạn có thể cũng ghét tôi. Ai mà biết được? Không phải bộ phim nào cũng kết thúc có hậu, nhưng tôi sẽ chấp nhận nếu đó là sự thật.
Tại sao tôi lại phải nhận kết cục như vậy? Tôi biết chính xác tôi đáng ra nên nói gì trong giây phút đó, nếu muốn biến mình thành người đáng mến trong mắt mọi người. Tôi đã có thể phản bội niềm tin thực sự của mình và ngay lập tức biến thành anh hùng. Tôi đã có thể tránh hoàn toàn việc tranh cãi với người khác. Bạn không cần phải là Sherlock Holmes để biết rằng tất cả mọi người trong phòng đều chọn phản đối súng ống, hay chí ít là không nói chuyện nhạy cảm về súng ống. Tôi cũng đã có thể chọn cách im lặng. Hoặc tôi cũng đã có thể nổi đóa lên. Nhưng thay vào đó, tôi thuộc về chính tôi. Tôi cố hết sức có thể để phá vỡ khuôn khổ chỉ-có-hai-lựa-chọn của cuộc tranh luận. Tôi chọn bộc lộ bản thân một cách cởi mở, vượt ra khỏi sự an toàn của rào cản tư tưởng bao quanh căn phòng. Và tôi cư xử lịch sự. Tôi tôn trọng cô ấy và tôn trọng bản thân.
Tôi cảm thấy đơn độc trong hoang dã, nhưng tôi vẫn ổn. Tôi có thể không được người khác yêu thích và điều đó thì chẳng hay chút nào, nhưng tôi giữ được tính chính trực của mình. Và nhóm người đó có thể cảm thấy bị phản bội bởi câu trả lời của tôi hay thái độ không ngần ngại tranh luận những vấn đề nhạy cảm của tôi, nhưng dù sao thì điều quan trọng nhất vẫn là tôi không phản bội bản thân. Biết rằng bạn có thể tự lèo lái trong hoang dã, biết rằng bạn có thể giữ vững niềm tin, tin tưởng bản thân và vượt qua mọi chuyện – đó chính là cảm giác thuộc về đích thực.
Tham mưu trưởng
Phần lớn mọi người đều ngạc nhiên khi biết ngoài nghiên cứu, tôi còn điều hành bốn công ty và làm việc với một đội khoảng 25 người. Đó là các công ty Brave Leaders Inc, The Daring Way, The Marble Jar Stone và công ty bảo trợ Brené Brown Education and Research Group. Có một đội ngũ chuyên quản lý các sự kiện diễn thuyết của tôi, một đội ngũ khác điều hành The Daring Way (chương trình hỗ trợ đào tạo các chuyên gia), một đội ngũ điều phối các tình nguyện viên và công tác vì cộng đồng, một đội quản lý cửa hàng, các quản lý giám sát chương trình thực tập công việc xã hội, đội chuyên về trải nghiệm khách hàng, nghiên cứu viên, đội phát triển và sáng tạo nội dung công nghệ số và một đội trung tâm phụ trách mọi việc liên quan tới sứ mệnh của tổ chức và công tác vận hành.
Sứ mệnh của chúng tôi là “biến thế giới trở nên dũng cảm hơn bằng cách làm những việc chúng ta thích với những người chúng ta yêu quý, đồng thời phù hợp với giá trị của chúng ta.” Mỗi lần bước vào văn phòng, tôi tự thấy mình thật may mắn khi có một đội ngũ thật sự tin tưởng vào công việc lẫn đồng nghiệp. Tôi dành phần lớn thời gian làm việc với đội Round-Up bao gồm Charles (Giám đốc Tài chính), Murdoch (quản lý của tôi) và Suzanne (Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành).
Khoảng hơn một năm trước, tôi bị quá tải với áp lực viết sách, đi khắp nơi diễn thuyết, dạy học, điều hành hoạt động thường ngày của các công ty và nghiên cứu đến mức đội Round-Up đã mở một cuộc họp khẩn bên ngoài ở Galveston để tìm giải pháp cho tình trạng này. Tôi quá tải đến nỗi Steve phải xin nghỉ làm để tham gia buổi họp của chúng tôi. Anh muốn biết giải pháp thực sự là gì và anh biết việc ủy quyền và đặt trách nhiệm lên người khác là vô cùng khó khăn với tôi. Cảm giác như năm phút trước tôi là người chỉ viết một cuốn sách và có một trang blog, rồi bỗng nhiên trở thành Tổng Giám đốc Điều hành và Chủ tịch. Mọi thứ diễn ra quá nhiều, quá nhanh và tôi bị lạc lối.
Chúng tôi có 12 người ở Galveston, bao gồm bốn thành viên của đội Round-Up. Nội dung họp bao gồm ba mục chính:
Lập danh sách chi tiết mọi việc tôi đang làm để mọi người có thể hiểu rõ hơn, từ đó xác định việc nào có thể phân bổ cho người khác.
Lên chiến lược giúp tôi không bị quá tải.
Vạch tất cả các ý tưởng, kế hoạch và chiến lược trong đầu tôi ra giấy để đánh giá cái nào quan trọng và cái nào không.
Hai tiếng sau khi bắt đầu buổi họp, ai đó đề xuất một giải pháp có thể xử lý mọi vấn đề, đó là để một người đảm nhiệm vai trò kiểu như “tham mưu trưởng”. Tất nhiên, khi nghe đến “tham mưu trưởng”, những gì tôi nghĩ đến là nhân vật của Leo McGarry, tham mưu trưởng của Tổng thống Bartlet trong phim The West Wing. Đầu tiên, tôi bật cười nhưng sau vài phút, mọi người đều hào hứng với ý tưởng và tôi bắt đầu cảm thấy nó khả thi. Nửa giờ sau, một thành viên trong đội tình nguyện đảm nhiệm vị trí đó và đây là lần tôi cảm thấy nhẹ nhõm và phấn khích nhất sau hơn một năm đầy căng thẳng. Tôi thậm chí còn thấy cay cay khóe mắt. Tôi hoàn toàn ủng hộ ý kiến này và những lúc như vậy, mọi người xung quanh đều tự nhiên cảm nhận được.
Tôi là người nhiệt huyết và mãnh liệt. Và mặc dù tôi thích sự hài hước và hay cười sảng khoái nhưng phần lớn những người quen đều nhận xét tôi là người khá nghiêm túc. Lần đầu nghe người khác bảo mình nghiêm túc, tôi cảm thấy tổn thương. Tôi luôn nghĩ mình là người sôi nổi và tùy hứng, giống như Meg Ryan trong phim French Kiss. Khi tôi nhờ Steve chứng thực tính cách của mình, anh đã xác nhận: “Tốt bụng và hài hước? Có. Sôi nổi và tùy hứng? Không. Nghiêm túc? Gần như luôn luôn.”
Đội của tôi phản hồi rằng đôi lúc khi tôi say mê và nồng nhiệt về một ý tưởng, tôi sẽ biến thành “cối xay gió Brené”. Họ bảo rằng đến đứng vững còn khó nữa là cho ý kiến. Vị trí tham mưu trưởng này như phao cứu sinh với tôi và giờ tôi sẽ là người bảo hộ tuyệt vời nhất cho vị trí đó. Cối xay gió được khởi động. Tôi nhìn mọi người và nói: “Vị trí này sẽ thay đổi mọi thứ. Theo tôi, chúng ta nên bắt đầu ngay lập tức. Không có lúc nào tốt hơn bây giờ đâu!”
Tôi thấy vẻ lo lắng đâu đó hiện lên trên nét mặt của đội Round-Up, nhưng nỗi hân hoan bởi vừa tạm thời được cứu vớt khỏi tuyệt vọng khiến tôi không quá quan tâm đến những gì quan sát được. Tôi thở hắt và nói: “Hoặc chúng ta thử nghiệm ý tưởng này ngay bây giờ hoặc sẽ giả vờ mọi thứ sẽ khác sau hôm nay dù chúng ta biết sẽ không có chuyện đó.”
Căn phòng yên lặng trong vài giây. Tôi lật một trang mới trong sổ và viết từ “Tham mưu trưởng” ở đầu trang rồi bắt đầu lên danh sách nhiệm vụ sẽ giao phó cho nhân sự mới này để tôi ít nhất có thể tìm lại cuộc sống của mình. Khi nhìn lên trong một thoáng, tôi thấy cánh tay của Suzanne giơ lên.
Tôi mỉm cười bởi tôi thấy khá buồn cười khi thấy cô ấy đang giơ tay mà không nói gì cả. Tôi nhìn cô và nói: “Sao thế Suzanne?”
Gương mặt cô đỏ bừng nhưng ánh mắt và giọng nói hết sức kiên định. “Tôi muốn nhắc mọi người trong phòng này, đặc biệt là đội Round-Up rằng chúng ta đã quyết định là sẽ không bao giờ thuê ai hay tái phân bổ vị trí trong cơ cấu của nhóm. Chúng ta đã đưa ra cam kết là sẽ giảm tiến độ công việc và trao đổi với nhau trong một tập thể nhỏ trước khi đưa ra những quyết định như thế này.”
Hy vọng và viễn cảnh mà tôi vừa hình dung bỗng tan biến ngay lập tức. Steve sau đó đã nói với tôi rằng trong đời anh chưa từng thấy ai thể hiện nỗi thất vọng một cách rõ ràng như thế. Tôi cứ nhìn chằm chằm vào Suzanne. Nỗi thất vọng nhanh chóng biến thành giận dữ. Trước khi tôi có thể thốt ra điều gì, Suzanne nói: “Tôi nghĩ, hoặc đưa ra quyết định ngay lập tức hoặc giả vờ như mọi thứ sẽ khác đi sau hôm nay dù chúng ta biết là sẽ không có chuyện đó đều không phải là phương án của chúng ta. Chúng ta sẽ tập trung vào vấn đề này cho đến khi tìm ra cách giải quyết. Nhưng tôi tin vào cam kết mà chúng ta đã hứa là sẽ không đưa ra quyết định trong những trường hợp như thế này.”
Chúng tôi tạm nghỉ, tôi đi vào nhà vệ sinh và khóc. Tôi quá mệt mỏi. Quá tuyệt vọng tìm kiếm sự giúp đỡ và hỗ trợ. Sau năm phút khóc lóc là cảm giác biết ơn sâu sắc tới Suzanne. Cô ấy nói đúng. Tôi ghét phải từ bỏ một giải pháp cứu chữa cấp tốc dù biết nó thực sự nhảm nhí. Những lúc tuyệt vọng sẽ khiến chúng ta nảy ra các giải pháp tuyệt vọng, và giải pháp tuyệt vọng thường nhảm nhí.
Khi bước ra khỏi nhà vệ sinh, tôi thấy Suzanne đang đợi. Tôi cảm ơn cô ấy vì đã rất dũng cảm và cô ấy trấn an tôi rằng cô biết tình hình hiện tại tồi tệ với tôi, với công việc của chúng tôi, với tất cả mọi người và nó cần phải được thay đổi. Cô ấy hứa rằng chúng tôi có thể cùng nhau tìm ra một giải pháp thực sự hiệu quả.
Suzanne vẫn xem đó là một trong những khoảnh khắc khó khăn nhất trong thời gian làm việc của chúng tôi. Đối với cô ấy, việc chất vấn quyết định của tôi chính là một phần của nơi hoang dã. Cô ấy cảm thấy đơn độc, tổn thương và sợ hãi. Và thật sự, cô ấy hoàn toàn đơn độc khi giơ tay trong buổi họp. Từ góc nhìn của tôi, đó là ngày tôi nhận ra mình có thể tin tưởng cô ấy vô điều kiện. Suzanne được thăng chức, trở thành Chủ tịch của Brené Brown Education and Research Group. Giờ đây, cô ấy chịu trách nhiệm vận hành hoạt động kinh doanh mỗi ngày. Và cô ấy thực sự làm rất tốt.
Trải nghiệm này cũng đánh dấu thời điểm đội chúng tôi bắt đầu hiểu tầm quan trọng của việc xây dựng văn hóa thúc đẩy cảm giác thuộc về đích thực. Nếu người lãnh đạo thực sự muốn mọi người ra mặt, lên tiếng, nắm lấy cơ hội và đổi mới thì chúng ta phải tạo ra một nền văn hóa mà ở đó mọi người cảm thấy an toàn, nơi cảm giác thuộc về của họ không bị đe dọa khi cất tiếng nói và họ được ủng hộ khi quyết định đương đầu với hoang dã, đứng một mình và lên tiếng trước điều nhảm nhí.
Chúng ta thường dễ đánh giá thấp tầm quan trọng của hành vi văn minh ở nơi làm việc nhưng nghiên cứu mới cho thấy thiếu văn minh có thể khiến các bộ phận, tổ chức tổn thất lớn như thế nào. Christine Porath, Phó Giáo sư quản trị học thuộc Đại học Georgetown đã viết: “Thiếu văn minh có thể gây chia rẽ, từ đó phá hủy tinh thần hợp tác, bẻ gãy cảm giác an toàn tâm lý của các thành viên và cản trở tính hiệu quả tập thể. Những bình luận xem thường và hạ nhục, những lời xúc phạm và các hành vi thô lỗ khác có thể làm mất đi sự tự tin, đánh mất niềm tin và làm giảm mong muốn giúp đỡ người khác, thậm chí với những người không phải là đối tượng mà những hành động này hướng đến.” Từ nghiên cứu của bản thân và các nguồn tham khảo khác, bà đã chỉ ra rằng việc đưa ra tiêu chuẩn văn minh và thực hiện chúng có thể dẫn đến hiệu suất làm việc cao hơn và tập thể sẽ vận hành tốt hơn.
Tôi từng có cơ hội phỏng vấn huấn luyện viên NFL24 Pete Carroll của đội Seattle Seahawks để phục vụ nghiên cứu này. Khi tôi hỏi về những thử thách trong quá trình xây dựng văn hóa thúc đẩy cảm giác thuộc về đích thực trong tập thể, ông đã đưa ra cái nhìn sâu sắc về chủ đề tinh thần lãnh đạo can đảm:
24 National Football League: Giải bóng bầu dục quốc gia.
Rõ ràng là nếu quản lý theo văn hóa “thích nghi” thì mọi thứ sẽ dễ dàng hơn. Bạn chỉ cần đặt ra tiêu chuẩn và quy tắc. Bạn lãnh đạo theo phong cách “theo hoặc nghỉ”. Nhưng bạn lại bỏ lỡ những cơ hội thực sự – đặc biệt là cơ hội giúp thành viên trong đội tìm thấy mục đích của họ. Khi thúc đẩy văn hóa “thích nghi”, bạn bỏ lỡ cơ hội giúp người khác tìm ra động lực bên trong của họ – điều xuất phát từ trái tim họ. Cách lãnh đạo hướng đến cảm giác thuộc về đích thực là tạo ra văn hóa tôn vinh cá tính riêng của mỗi người. Điều giúp ích nhất cho lãnh đạo là thấu hiểu những nỗ lực tuyệt vời nhất của các cầu thủ. Công việc của tôi trong vai trò người dẫn dắt là tìm ra tài năng độc đáo nhất hoặc cống hiến mang tính cá nhân nhất của họ. Một lãnh đạo giỏi sẽ dẫn dắt cầu thủ tới niềm tin sâu sắc vào bản thân.
Ngôn từ là vũ khí
Đôi khi văn minh được biểu hiện thông qua sự tôn trọng và tấm lòng rộng lượng. Gần đây, tôi có tham gia giảng dạy một lớp trực tuyến với Tiến sĩ Harriet Lerner về cách đưa ra lời xin lỗi thật lòng và cách chấp nhận lời xin lỗi. Tôi hoàn toàn bị cuốn hút. Tôi nghĩ chúng ta nên phát sóng những bài học về xin lỗi này trên một số kênh truyền hình để mọi người dân có thể học những kỹ năng này. Chúng ta cần những kỹ năng đó!
Khi Harriet bảo tôi luyện tập lắng nghe và xin lỗi mà không chối bỏ hay phản đối, tôi nhận ra rằng với thái độ phòng thủ, tôi sẽ muốn được công nhận là mình đúng hơn là muốn kết nối và nuôi dưỡng các mối quan hệ. Tôi muốn giành phần thắng. Tôi thích được công nhận là đúng.
Nhu cầu được công nhận là đúng càng sâu sắc khi chúng ta cảm thấy bản thân đang đứng trong lãnh thổ của kẻ thù và bị tấn công. Một ví dụ mang tính văn hóa chính là tính đúng đắn chính trị. Lịch sử của khái niệm này cũng dữ đội và sóng gió như những cuộc tranh luận về nó. Cho đến thời điểm này, thuật ngữ trên đã trở nên gây tranh cãi đến nỗi tôi nghĩ sẽ hợp lý hơn nếu dùng từ ngôn ngữ bao hợp (inclusive language).
Dựa trên những gì chúng ta biết về vô nhân tính hóa, tôi tin rằng ngôn ngữ bao hợp vô cùng quan trọng, hoàn toàn xứng đáng được sử dụng và đóng vai trò sứ giả văn minh. Chúng ta thường chọn phe phái khi nói đến những tranh cãi lớn mang tính chính trị mà bỏ qua những vấn đề thường nhật đang ngày càng bị xem nhẹ. Chẳng hạn, giả sử bạn bị chẩn đoán mắc chứng rối loạn lo âu và con bạn mắc chứng rối loạn giảm chú ý. Bạn sẽ cảm thấy thế nào nếu nghe lén được bác sỹ nói rằng: “Ừ. Tôi có một ca rối loạn lo âu lúc 2 giờ rồi sẽ xem bệnh cho một đứa bé rối loạn giảm chú ý trước khi về nhà.” Người nghĩ ra ngôn ngữ bao hợp sẽ nói rằng bạn không phải là căn bệnh rối loạn lo âu, bạn chỉ là một người bị mắc chứng rối loạn lo âu. Điều đó quan trọng với tất cả chúng ta. Không ai muốn bị xem nhẹ cả.
Nhưng thách thức của phong trào ngôn ngữ bao hợp đó là khi người ta biến việc sử dụng ngôn từ chuẩn xác trở thành vũ khí để hạ nhục hay xem thường người khác. Điều này được phát hiện nhiều lần trong các nghiên cứu. Thậm chí công cụ văn minh cũng có thể bị vũ khí hóa nếu có người muốn như thế. Tôi sẽ chia sẻ với các bạn một số câu chuyện minh họa như sau.
Một thanh niên gần 20 tuổi đã chia sẻ câu chuyện về chuyến xe về thăm bố mẹ ở Newport Beach từ Los Angeles. Anh kể với tôi rằng trong lúc lái xe, anh đã hạ quyết tâm sẽ kiên nhẫn hơn và bao dung hơn với bố mình. Họ từng có thời gian không hòa hợp với nhau.
Buổi chiều, khi tới nơi, anh đứng trong bếp, trò chuyện với bố rồi hỏi: “Hàng xóm mới của bố mẹ thế nào ạ?”
Bố anh trả lời: “Bố mẹ rất quý họ. Bố mẹ đã mời họ qua ăn tối vài lần và kết bạn với họ. Họ sẽ mời bố mẹ qua ăn tối vào tuần sau. Họ là người phương Đông và sẽ làm món há cảo đặc biệt, thế nên, mẹ con rất mong chờ tới hôm đó.”
Chàng thanh niên kể với tôi rằng anh đã mắng thẳng vào mặt bố anh: “Người phương Đông? Lạy Chúa, bố ơi! Bố đang đùa con đấy à? Bố phân biệt chủng tộc đến thế sao?”
Trước khi bố anh kịp phản ứng, anh tiếp tục trách móc: “Từ ‘Người phương Đông’ mang tính phân biệt chủng tộc vô cùng! Bố thậm chí có biết là họ đến từ đâu không đấy? Không có đất nước nào gọi là ‘phương Đông’ hết. Thật xấu hổ làm sao!”
Anh kể rằng thay vì phản bác, bố anh đứng trong bếp, cúi đầu. Cuối cùng, ông cũng ngẩng mặt lên nhìn con trai với đôi mắt đỏ hoe: “Bố xin lỗi, con trai. Bố không chắc là bố đã làm hay không làm gì mà khiến con giận dữ đến vậy. Đúng là bố chẳng làm được gì nên hồn. Giờ bố nói gì hay làm gì cũng chẳng thể bù đắp được cho con cả.”
Im lặng bao trùm.
Sau đó, bố anh nói: “Bố sẽ ở đây và nghe con nói về việc bố là kẻ khốn nạn như thế nào, nhưng giờ bố phải đưa người hàng xóm mà theo con nói là bố ghét bỏ đi đón chồng cô ấy vừa phẫu thuật đục thủy tinh thể. Cô ấy không biết lái xe và sáng nay chồng cô ấy đã phải bắt taxi đến bệnh viện.”
Trong suốt buổi phỏng vấn, chàng trai trẻ bảo tôi rằng anh không biết phải làm gì hay nói gì nên chỉ quay đi trước khi bố anh rời căn bếp.
Câu chuyện thứ hai xảy ra với chính tôi. Tôi đang dạy một khóa học nửa ngày về lý thuyết SRT25 (ôi, đáng mỉa mai thay) và có khoảng 200 người trong khán phòng. Trong lúc nghỉ giữa giờ, khi tôi đang đọc lại bài giảng thì một phụ nữ bước tới chỗ tôi và nói: “Tôi không thể diễn tả được nỗi đau mà bài giảng của chị đã mang đến cho tôi trong sáng nay.”
25 Shame Resilience Theory (tạm dịch: Lý thuyết về sức bật trước nỗi hổ thẹn): Một lý thuyết được phát triển bởi chính tác giả, bao gồm định nghĩa, tác động của nỗi xấu hổ, cách con người phản ứng với nó và cách vượt qua nó.
Tôi sững sờ. Thời gian bắt đầu trôi chậm lại và tôi bị rơi vào hiện tượng tầm nhìn đường hầm26 – phản ứng thường có của tôi khi hổ thẹn. Trước khi tôi kịp lên tiếng thì cô ấy bảo: “Công trình nghiên cứu của chị đã thay đổi cuộc đời tôi, cứu lấy hôn nhân của tôi và giúp tôi định hướng cho con cái. Tôi tới đây hôm nay bởi chị là người thầy quan trọng trong cuộc đời tôi. Và rồi 15 phút sau khi bắt đầu, tôi nhận ra chị là người phản đối người Xê-mít27. Tôi đã tin tưởng chị và chị vừa chứng minh cho tôi thấy đó quả là một sai lầm.”
26 Hiện tượng mắt chỉ tập trung vào hình ảnh trung tâm mà bỏ qua hình ảnh ngoại biên.
27 Nhóm người gồm người Ả-rập và Do Thái.
Nỗi hổ thẹn cuồn cuộn như bão trong lòng tôi. Ác mộng đã biến thành sự thật.
Tất cả những gì tôi có thể nói lúc đó là: “Tôi không hiểu.”
Cô ấy bảo: “Chị nói rằng trong cả câu chuyện chị cảm thấy ‘vô cùng đau khổ’ (really gypped).”
Tôi vẫn chưa hiểu. Tôi lại nói tiếp: “Tôi vẫn không hiểu.”
Cô ấy lớn tiếng hơn: “Đau khổ. Đau khổ. Đau khổ! Chị không biết à? Thế chị đánh vần ‘đau khổ’ như thế nào?”
Đó là một câu hỏi kỳ lạ nhưng nỗi hổ thẹn đang bủa vây khiến tôi không thể nói ra câu gì đó để xoa dịu tình hình: “Tôi hiểu là chị đang rất tức giận, hãy cùng nói về vấn đề đó nhé.” Tôi ngừng lại trong một giây để hình dung từ ấy trong đầu và tìm từ nào tương tự để có thể đánh vần. Điều duy nhất tôi có thể nghĩ đến là bơ đậu phộng hiệu Jif (tất nhiên). “Ừm… J-I-P-P-E-D.”
Cô ấy hét toáng lên: “Không! Trên đời này làm gì có từ nào đánh vần là J-I-P-P-E-D. Từ đó được đánh vần là G-Y-P-P-E-D. Giống như ‘gypsy’ (người Di-gan). Đó là từ thể hiện sự phản đối với người Xê-mít và lăng mạ người Di-gan.”
Tôi không hay biết điều đó. Tôi bắt đầu lục lại tâm trí mình. Phải chăng tôi đang chìm vào ác mộng khi thốt ra những lời nói thật mà tôi không thể kiểm soát? Tôi thật sự ghét người Di-gan ư? Bên ngoài vỏ bọc rất dày của một công dân luôn tuân thủ sự đúng đắn chính trị lại ẩn chứa một tâm hồn thù ghét người Di-gan ư?
Không. Chỉ do tôi không biết thôi. Tôi không hề biết.
Có lẽ biểu hiện trên khuôn mặt tôi lúc đó đã khẳng định tôi không nói dối, bởi cô ấy bảo: “Ôi Chúa ơi. Chị không biết. Chị không cố ý làm như vậy đúng không?”
Tới lúc đó, mắt tôi ướt nhòe.
“Tôi rất xin lỗi. Tôi không biết. Xin lỗi chị.” Tôi giải thích.
Cô ấy ôm tôi và chúng tôi nói về chủ đề đó trong vài phút. Khi cả lớp quay trở lại, tôi giải thích về điều tôi vừa nhận ra và xin lỗi cả lớp vì đã sử dụng ngôn ngữ đó. Nhưng thật lòng, sự tổn thương trong buổi chiều hôm đó sẽ chẳng bao giờ được chữa lành trong tôi.
Đối với cậu con trai về thăm bố, mọi việc có lẽ sẽ dễ dàng hơn nếu anh ấy nói: “Bố à, người ta bây giờ không dùng từ ‘người phương Đông’ nữa đâu. Ngôn từ bây giờ thay đổi nhanh đến chóng mặt, để con chỉ cho bố nhé.” Và để thể hiện sự cảm thông hơn nữa, anh ấy có thể nói thêm: “Con cũng đang phải học mỗi ngày đây.”
Nếu nghiên cứu của tôi thực sự có ý nghĩa lớn lao với người phụ nữ ở buổi học thì cô ấy đã có thể bắt đầu câu chuyện một cách rộng lượng hơn như: “Tôi không biết chị có biết điều này không nhưng ‘gypped’ là từ mang tính nhục mạ và kỳ thị đáng đau lòng đối với người Di-gan.” Nếu cô ấy nói như thế, tôi đã có thể cảm thấy biết ơn thay vì hổ thẹn.
Không rõ bạn như thế nào, nhưng tôi luôn cẩn thận về ngôn từ bởi tôi thật sự ý thức được tầm quan trọng của chúng. Điều này có gây ra khó xử không? Có. Có bực mình không khi phải chỉ cho người khác vì sao ngôn từ của họ lại làm bạn tổn thương? Có. Nói về những vấn đề này có đòi hỏi bạn phải dấn bước vào hoang dã không? Có. Nhưng nó cũng đòi hỏi chúng ta phải có khả năng chịu tổn thương, và thật khó để làm được điều đó khi chúng ta biến ngôn từ thành vũ khí.
Dấn thân
Lên tiếng trước lời nhảm nhí và thể hiện thái độ văn minh đều bắt đầu từ việc hiểu: hiểu rõ bản thân mình và hiểu rõ những hành vi cũng như vấn đề nào có thể đẩy chúng ta vào hoàn cảnh phải nói lời nhảm nhí hay ngăn cản chúng ta hành xử văn minh. Nếu chúng ta quay lại phần DẤN THÂN (BRAVING) và xem danh mục những điều cần làm để tạo lòng tin, thì những tình huống trên đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn sắc sảo trong:
Giới hạn (Boudaries) – Trong một cuộc đối thoại, điều gì chấp nhận được và điều gì không chấp nhận được? Bạn sẽ đặt ra ranh giới thế nào khi nhận ra xung quanh mình tràn ngập những lời nhảm nhí?
Tin cậy (Reliability) – Nói lời nhảm nhí tức là từ bỏ sự tin cậy. Thật khó để tin tưởng người khác hoặc được người khác tin tưởng khi chúng ta thường xuyên nói lời nhảm nhí.
Trách nhiệm (Accountability) – Chúng ta chịu trách nhiệm về bản thân và người khác như thế nào để có thể giảm bớt số lời nhảm nhí và có những cuộc tranh luận thực chất hơn? Để tiết chế cảm xúc và thể hiện thái độ văn minh hơn?
Kín kẽ (Vault) – Văn minh tức là tôn trọng tính bảo mật. Lời nhảm nhí phớt lờ sự thật và tạo cơ hội cho những sai phạm về bảo mật.
Chính trực (Integrity) – Làm thế nào để có thể giữ lòng chính trực của mình khi phải đối mặt với những lời nhảm nhí và làm thế nào để kịp thức tỉnh giữa giây phút dâng trào cảm xúc và nói: “Tôi không chắc cuộc đối thoại này sẽ hiệu quả” hay “Tôi cần phải tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này”?
Không phán xét (Nonjudgment) – Làm thế nào để ngừng phán xét lẫn nhau trong khi điều cần nói nên là: “Tôi thực sự không am hiểu về vấn đề này. Hãy chia sẻ với tôi những gì bạn biết và lý do vì sao nó lại quan trọng với bạn?” Làm thế nào để không rơi vào tư tưởng “kẻ thắng/người thua”? Làm thế nào để nhận thấy cơ hội kết nối với người khác khi người đó bảo rằng: “Tôi không am hiểu về vấn đề này.”
Phóng khoáng (Generosity) – Chúng ta có thể đưa ra giả định nào phóng khoáng nhất đối với những người xung quanh? Những giới hạn nào cần được đặt ra để chúng ta có thể trở nên tử tế và bao dung hơn?
Chống lại những lời nhảm nhí mà vẫn giữ thái độ văn minh có vẻ khá nghịch lý, nhưng cả hai đều là những thành phần vô cùng quan trọng đối với cảm giác thuộc về đích thực. Carl Jung đã viết: “Chỉ có nghịch lý mới giúp chúng ta gần như hiểu được trọn vẹn cuộc sống.” Chúng ta là những cá thể phức tạp thức dậy mỗi ngày và đấu tranh chống lại việc bị phân loại và bị hạ thấp giá trị thông qua những thiên kiến và đặc điểm hóa không phản ánh trọn vẹn con người chúng ta. Tuy vậy, khi chúng ta không dám đứng lên và nói ra, khi các lựa chọn bày ra trước mắt đẩy chúng ta vào những phân hạng mà mình không muốn cũng chính là lúc chúng ta đang tiếp tục gia tăng sự xa cách và cô đơn của bản thân. Khi sẵn sàng mạo hiểm dấn thân vào hoang dã, chúng ta đã bắt đầu cảm nhận kết nối sâu sắc nhất với bản thân và với những điều quan trọng nhất.