Chương 6 Cùng nắm tay. Với người lạ
Tôi cảm thấy đơn độc trong hoang dã, nhưng tôi vẫn ổn. Tôi có thể không được người khác yêu thích và điều đó thì chẳng hay chút nào, nhưng tôi giữ được tính chính trực của mình.
☆☆☆
Chúng ta đang rơi vào cuộc khủng hoảng tâm linh, và chìa khóa để xây dựng cảm giác thuộc về đích thực là tiếp tục tin vào mối liên kết không thể tách rời của con người. Mối liên kết đó – tinh thần giữa người với người trên thế giới – không phải là thứ có thể bị phá vỡ; tuy nhiên, niềm tin của chúng ta vào mối liên kết đó lại thường bị thử thách và liên tục đứt gãy. Khi niềm tin vào thứ gì đó lớn lao hơn chính chúng ta – điều xuất phát từ tình yêu và cảm thông – bị đứt gãy thì chúng ta sẽ dễ lùi về hố sâu tư tưởng của mình, ghét bỏ người khác từ xa, chịu đựng lời nhảm nhí, vô nhân tính hóa người khác và trớ trêu thay, tránh xa khỏi vùng hoang dã.
Tuy phản trực giác nhưng niềm tin vào mối liên hệ không thể tách rời giữa người với người là một trong những nguồn động lực không bao giờ cạn có thể tiếp thêm can đảm trong vùng hoang dã. Tôi có thể can đảm bảo vệ niềm tin của mình, khi biết rằng bất chấp rào cản và chỉ trích, tôi vẫn kết nối với bản thân và với người khác bằng một sợi dây không thể nào đứt. Nếu mất niềm tin vào liên kết này, sự cô lập của thế giới hoang dã sẽ trở nên đáng sợ đến mức chúng ta chỉ dám quanh quẩn trong vòng an toàn của mình mà thôi.
Trong bối cảnh rối ren của thế giới hiện nay, không chỉ nền văn hóa phân cực mới làm giảm niềm tin vào mối liên kết không thể tách rời của con người và những cam kết về tâm linh mà chúng ta dành cho nhau. Đó còn là việc phải lèo lái những nhu cầu trong cuộc sống mỗi ngày. Con người thật tuyệt vời. Và đôi khi cũng thật rắc rối. Nhân vật Linus trong bộ phim hoạt hình Peanuts yêu thích của tôi đã than rằng: “Tôi yêu nhân loại nhưng không thể chịu đựng nổi con người!” Cuộc sống mỗi ngày có thể vô cùng vất vả và chính những người xung quanh có thể đẩy chúng ta tới giới hạn cuối cùng của sự bình tĩnh và văn minh.
Phủ chân bằng tấm da
Tôi rất thích bài giảng “Lousy World” (tạm dịch: Thế giới tồi tệ) của Pema Chödrön về chủ đề này. Trong bài giảng đó, Chödrön vận dụng bài học của Tôn giả Tịch Thiên người Ấn Độ để đưa ra một phép so sánh rất thuyết phục nhằm minh họa cho việc sống trong thế giới này có thể khiến ta phẫn uất và thất vọng như thế nào. Bài giảng thực hiện dưới hình thức video nên tôi đã ghi lại lời bài giảng và chỉnh sửa để chúng ta dễ đọc hơn. Hãy mở rộng lòng mình. Bạn sẽ thấy điều này đúng đắn một cách vừa quen thuộc vừa khó chịu.
Chödrön bắt đầu với:
Thế giới tồi tệ này, những con người tồi tệ này, chính phủ tồi tệ này, mọi thứ tồi tệ này... thời tiết tồi tệ này... Chúng ta phát cáu. Trời ở đây sao mà nóng thế. Sao mà lạnh thế. Tôi không thích mùi này. Người đứng phía trước quá cao, người bên cạnh quá béo. Người vừa kia xịt nước hoa và tôi bị dị ứng với nó... và... hừ!
Cảm giác giống như bạn đang bước đi trên bãi cát nóng rực, trên những mảnh thủy tinh vỡ hay trên một cánh đồng đầy gai bằng đôi chân trần. Chân bạn trần trụi và bạn nói: “Thật khó khăn. Đau lắm, thật kinh khủng, nó quá sắc, quá đau, quá nóng.” Nhưng rồi bạn nảy ra một ý tưởng tuyệt vời. Bạn sẽ phủ mọi nơi mình đi bằng những tấm da. Và bạn sẽ không bị đau chân nữa.
Trải tấm da ở mọi nơi đi qua để có thể tránh khỏi nỗi đau đớn cũng tựa như nói rằng: “Tôi sẽ tránh xa cô ấy, tránh xa anh ta. Tôi sẽ điều chỉnh nhiệt độ phù hợp và ban lệnh cấm sử dụng nước hoa trên thế giới rồi sẽ không có gì làm tôi bận tâm ở bất kỳ đâu nữa. Tôi sẽ tránh xa mọi thứ khiến tôi thấy phiền phức, kể cả muỗi, và sau đó tôi sẽ trở nên vui vẻ, hạnh phúc.”
[Bà ngừng lại]
Chúng ta đang bật cười nhưng đó là những gì chúng ta đều làm. Đó là cách chúng ta tiếp cận mọi thứ. Chúng ta nghĩ rằng, nếu có thể tránh xa mọi thứ hay phủ một tấm da lên nó thì nỗi đau đớn sẽ biến mất. Tất nhiên rồi, vì nó sẽ không khiến chân chúng ta bị thương nữa. Nghe logic phải không? Nhưng thật sự lại chẳng hợp lý chút nào. Ngài Tịch Thiên đã nói: “Nó chỉ có tác dụng khi bạn choàng tấm da quanh chân mình mà thôi.” Nói cách khác, nếu đi giày vào thì bạn có thể băng qua bãi cát nóng chảy, những mảnh thủy tinh vỡ và những chiếc gai nhọn. Chúng sẽ không khiến bạn bận tâm nữa. Vậy điểm tương đồng chính là nếu bạn tác động tới tư duy thay vì cố thay đổi ngoại cảnh, bạn có thể kiểm soát cơn giận của mình.
Nhưng thật khó để che đi mọi thứ mà chúng ta không thích bằng tấm da. Vậy phải nuôi dưỡng và phát triển niềm tin bên trong vào mối liên kết không thể tách rời của con người bằng cách nào? Câu trả lời rút ra từ nghiên cứu đã khiến tôi ngạc nhiên. Hãy tham gia vào những giây phút vui vẻ và đau buồn của tập thể rồi cuối cùng chúng ta sẽ thấy kết nối không thể tách rời của con người là như thế nào. Mọi người, với cảm giác thuộc về chân thực mạnh mẽ nhất, luôn giữ niềm tin vào mối liên kết không thể tách rời giữa con người bằng cách tham gia vào những giây phút vui vẻ và đau khổ với người lạ. Chúng ta phải chứng kiến con người kết nối với nhau, vui vẻ với nhau đủ nhiều để tin rằng điều đó là sự thật và có thể xảy ra với tất cả mọi người.
Mặc dù đây là một khái niệm nghiên cứu xa lạ với tôi nhưng tôi thực sự cảm thấy thích thú khi đi sâu tìm hiểu ý nghĩa của mối liên kết này. Và khi cố tìm hiểu bản chất của nó, tôi nhận ra rằng mình khá giỏi trong việc tham gia vào những khoảnh khắc như vậy. Trước nghiên cứu này, tôi không biết tại sao mình lại đánh giá cao những khoảnh khắc mang tính tập thể như thế. Tại sao tôi lại tự nguyện đi tới nhà thờ nơi tôi có thể ăn cùng, chào hỏi và hát cùng những người có đức tin khác với tôi và với những người mà tôi thường phải kiềm chế việc gây gổ. Tại sao tôi lại khóc trong lần đầu đưa các con đi xem buổi hòa nhạc của U2 và tại sao cả hai đứa lại với tay ra để nắm tay tôi khi nhóm đang trình diễn những bài hát yêu thích của tôi. Tại sao bài hát cổ vũ đội bóng bầu dục của Đại học Texas luôn khiến tôi vui vẻ và muốn ra dấu tay truyền thống của trường28. Hay tại sao tôi lại dạy con rằng đi viếng người đã khuất là một nghĩa cử thiêng liêng. Bạn là một phần của giây phút đó. Mỗi bài hát. Mỗi lời cầu nguyện – kể cả khi đó là loại ngôn ngữ bạn không hiểu hay đó là đức tin mà bạn không thực sự đặt trong tim.
28 Hình ngón trỏ và ngón út chĩa lên.
Tôi luôn biết những giây phút như thế có ý nghĩa với mình. Tôi biết chúng liên kết với phần tâm linh của tôi và giúp tôi giữ vững tình yêu với nhân loại trong quá trình nghiên cứu – một công việc có thể gây mệt mỏi và khó khăn. Tôi chỉ không biết lý do vì sao. Và giờ tôi đã hiểu. Hãy cùng tìm hiểu về bản chất của những trải nghiệm vui vẻ và đau buồn tập thể.
“You’ll never walk alone”
Vài năm trước, tôi nhấp chuột vào một dòng tweet của Chris Anderson, Giám đốc kiêm người chủ trì TED:
Khi bóng đá = tôn giáo. Phần trình bày bài hát You’ll Never Walk Alone vô cùng xúc động của khán giả nước Úc.
Đường dẫn là link một video dài hai phút trên YouTube, về khung cảnh 95.000 người hâm mộ của câu lạc bộ bóng đá Liverpool đang có mặt tại sân vận động Melbourne Cricket Ground ở Úc để xem một trận bóng đá. Một sân vận động chật kín cổ động viên của Liverpool đang lắc lư cùng nhau hát bài ca nổi tiếng của câu lạc bộ, tay giơ cao khăn đỏ trên đầu và nước mắt tuôn rơi.
Tôi ngạc nhiên khi thấy mình đang cố kìm những giọt nước mắt rơi xuống. Với video sáu triệu lượt xem này, bạn có thể chắc chắn rằng không chỉ cổ động viên Liverpool nói riêng mà cả cổ động viên bóng đá nói chung đều thấy xúc động và rơm rớm nước mắt. Thật ra, bình luận đầu tiên trên Youtube đến từ một tài khoản có tên “Chủ tịch câu lạc bộ người hâm mộ Manchester United” – Manchester United là một trong những đối thủ lớn nhất của Liverpool. Bình luận chỉ đơn giản là: NGẢ MŨ.
Dù chúng ta ủng hộ câu lạc bộ nào thì sức mạnh đến từ niềm vui tập thể cũng có thể xóa nhòa khoảng cách.
Ngày hôm sau, Steve và tôi hứa với nhau sẽ dành nhiều thời gian xem bóng bầu dục (của các đội ở Texas), hòa nhạc và kịch. Trong thời đại YouTube lên ngôi, tôi đã bắt đầu quên những giây phút đó là như thế nào. Và tự mình có mặt ở đó sẽ mang lại cảm xúc mãnh liệt hơn rất nhiều.
“Callin’ Baton Rouge”
Nếu hơn kém tôi tầm 10 tuổi và lớn lên ở Texas thì hai cái tên sau sẽ khiến bạn mỉm cười khi ký ức dội về: George Strait và Garth Brooks. Khi hai em gái tôi, Ashley và Barrett, cùng tôi hồi tưởng quãng thời gian thơ ấu – những cậu bạn trai cũ, những giây phút đáng nhớ nhất, những khoảnh khắc tồi tệ nhất, những chiếc quần jeans bó đến nỗi phải dùng kìm để kéo khóa lên và những bộ tóc vuốt ngược lên trời – thì Garth Brooks và George Strait là những người hát những bản nhạc nền cho quãng thời gian đó. Mỗi câu chuyện có một bài hát và mỗi bài hát có một câu chuyện.
Năm ngoái, Steve, Ashley, Barrett, Frankie (chồng của Barrett) và tôi đã gặp những người bạn là Rondal và Miles ở San Antonio để xem buổi hòa nhạc của Garth Brooks và Trisha Yearwood. Điều tuyệt vời hơn nữa là Rondal đã làm việc với Garth trong nhiều năm nên chúng tôi được gặp Garth và Trisha trước buổi hòa nhạc, những con người thật sự ấm áp và dung dị. Buổi hòa nhạc tuyệt vời – chúng tôi thuộc từng lời hát trong mỗi bản nhạc và bất kỳ ai đã từng thấy Garth trong buổi hòa nhạc đều sẽ bảo với bạn rằng anh ấy là một nghệ sĩ vô cùng đáng ngưỡng mộ. Giây phút tuyệt vời nhất của chúng tôi là khi anh ấy hát bài mà chúng tôi đều yêu thích “Callin’ Baton Rouge”. Rondal đã quay lại toàn bộ khoảnh khắc đó. Giờ đây, mỗi lần xem lại tôi đều khóc.
Mấy tháng sau, lúc đang ngồi trên xe với hai em gái và các cháu, tôi quay sang Barrett và bảo: “Nghe bài ‘Baton Rouge’ đi!”
Gabi, cô con gái sáu tuổi của Barrett nói: “Không! Con muốn nghe bài ‘Number 1’! Con muốn nghe bài mà chúng ta đều hát theo mỗi ngày cơ.”
Barrett bật cười: “’Baton Rouge’ chính là ‘Number 1’ đó.”
Trước buổi hòa nhạc, cả ba chúng tôi đều có một chiếc đĩa CD chứa bài hát đó, nhưng chỉ sau khoảnh khắc tràn ngập niềm vui và gắn kết đó thì cả ba chị em chúng tôi mới bắt đầu nghe đi nghe lại ba lần mỗi ngày. Vì sao vậy? Vì bài hát đã đưa chúng tôi quay lại khoảnh khắc đó. Nếu bạn xem trong video của Rondal thì đó là khoảnh khắc mà bạn chỉ có thể diễn tả bằng từ tình yêu thuần khiết: tình yêu dành cho âm nhạc, cho quá khứ của chúng tôi và cho nhau. Cả ba chúng tôi đều ôm nhau, nắm tay nhau và đồng thanh hát hết mình:
Operator, won’t you put me on through
I gotta send my love down to Baton Rouge.
(Hỡi người trực tổng đài, xin hãy nối máy cho tôi
Cho tôi gửi tình yêu đến vùng đất Baton Rouge.)
Giơ cao đũa phép
Tôi là một người hâm mộ cuồng nhiệt của Harry Potter. Con gái Ellen của tôi lớn lên với bộ truyện và chúng tôi luôn là những người xếp hàng đầu tiên khi sách và phim ra mắt. Năm 2009, chúng tôi tham gia buổi chiếu mở màn của Harry Potter và Hoàng tử lai. Khắp nơi ngập tràn những chiếc khăn Gryffindor, những vết sẹo trên trán vẽ bằng kẻ mắt và những chiếc áo phông ghi dòng chữ KEEP CALM AND CARRY A WAND (Hãy bình tĩnh và cầm đũa phép).
Buồn thay, đến cuối phim, người chỉ đường sáng suốt và nhà lãnh đạo tận tụy của chúng ta, Dumbledore đã bị giết. Trong tập đó, có một cảnh Harry gập người khóc nức nở. Dumbledore là hiệu trưởng của trường Hogwarts và là hình tượng người cha, người dẫn dắt, người bảo hộ của Harry. Kể cả khi chưa bao giờ đọc cuốn sách hay xem bộ phim đó thì bạn chắc cũng biết đến cảnh khi nhân vật chính, thường còn trẻ, mất đi hình tượng người cha hay người mẹ đồng thời là người dẫn dắt. Đó là yếu tố cần thiết trong nhiều câu chuyện vĩ đại và là một phần không thể thiếu của cái mà Joseph Campbell gọi là Hành trình của vị anh hùng.
Khi đám đông học sinh và giáo viên tụ họp xung quanh thi thể của cụ Dumbledore, một khuôn mặt gian ác xuất hiện trên nền trời tăm tối. Đó là khuôn mặt của Voldermort, kẻ gây ra cái chết của cụ Dumbledore. Khi Harry đặt tay lên ngực cụ Dumbledore và tiếp tục khóc nức nở thì người bạn thân nhất và là đồng nghiệp của Dumbledore, Giáo sư McGonagall được thể hiện xuất sắc bởi diễn viên Dame Maggie Smith, đã giơ cây đũa phép của cô lên trời. Từ đầu cây đũa phát ra một tia sáng. Lần lượt từng người một, mỗi học sinh và giáo viên đều giơ cây đũa phép lên và tạo thành một chòm sao ánh sáng lấn át sự tối tăm và đe dọa trên bầu trời.
Vào khoảnh khắc đó, trong rạp chiếu phim ở Houston, một vũ trụ khác với trường Phù thủy và Pháp sư Hogwarts, tôi nhìn xung quanh và thấy 200 người lạ, hầu hết đều đang rơi nước mắt, giơ tay lên cao, chĩa chiếc đũa phép trong tưởng tượng lên bầu trời. Vì sao? Bởi vì chúng ta tin vào ánh sáng. Đúng vậy, chúng ta biết Harry Potter không có thật nhưng chúng ta biết ánh sáng chung là có thật. Hãy trở nên mạnh mẽ. Và khi phải đối mặt với thù ghét, phân biệt, độc ác và những gì mà bầu trời tăm tối tượng trưng, sát cánh bên nhau, chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ hơn.
Những con người trên đường FM 1960
Tôi biết chính xác mình ở đâu vào ngày 28 tháng 1 năm 1986. Tôi ở Houston và đang lái xe trên đường FM 1960, một con đường bốn làn lớn gần ngoại ô Klein nơi tôi từng sống khi học cấp ba. Tôi nhớ khi đang lái xe qua phần đường giao nhau, tôi thấy những chiếc xe đột nhiên tấp vào lề đường. Một vài xe còn dừng ngay ở giữa làn. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là một chiếc xe cứu hỏa hoặc cứu thương hẳn đang chạy phía sau. Tôi giảm dần tốc độ nhưng thậm chí sau khi kiểm tra nhiều lần ở gương hai bên, gương chiếu hậu, ngoái đầu lại để nhìn phía sau, tôi vẫn không thấy ánh đèn cứu hộ nào cả.
Khi chạy chầm chậm ngang qua một chiếc bán tải đang tấp bên lề đường, tôi nhìn vào bên trong và thấy một người đàn ông đang tựa vào vô lăng và úp mặt vào tay. Tôi ngay lập tức nghĩ Chiến tranh đến rồi. Tôi tấp xe vào trước xe anh ấy và mở radio lên vừa kịp lúc nghe phát thanh viên nói: “Xin nhắc lại, tàu con thoi Challenger đã phát nổ.”
Không. Không. Không. Không. Tôi bắt đầu bật khóc. Tôi thấy càng nhiều người tấp vào lề. Một số người thậm chí còn ra khỏi xe. Giống như thể người ta tuyệt vọng muốn cùng người khác chứng kiến thảm kịch này thay vì phải chứng kiến một mình.
Đối với chúng tôi ở Houston, NASA không chỉ là ngọn đèn soi sáng cho công cuộc khám phá không gian mà đó còn là nơi bạn bè, hàng xóm của chúng tôi làm việc. Đó là đồng bào của chúng tôi. Christa McAuliffe là vị giáo viên đầu tiên trong không gian. Giáo viên ở mọi nơi đều là đồng bào của chúng tôi.
Sau vài phút, mọi người bắt đầu lái xe trở lại. Nhưng giờ đây, khi chầm chậm quay lại nhịp giao thông bình thường, họ bật đèn pha lên. Không ai trên radio bảo rằng: “Hãy bật đèn pha nếu bạn đang lái xe.” Bằng cách nào đó, trực giác chúng tôi mách bảo rằng mình là một phần của buổi đưa tiễn đau thương này. Tôi không quen họ hay thậm chí nói chuyện với họ, nhưng nếu bạn hỏi tôi đã ở đâu khi thảm họa Challenger xảy ra thì tôi sẽ nói: “Tôi đã ở cùng đồng bào của tôi – những người trên đường FM 1960 khi thảm kịch xảy ra.”
Chúng tôi chọn tình yêu
Con chúng tôi vào lớp một. Con của họ vào lớp một. Thật quá khó để đong đếm được nỗi đau, sự kinh hoàng và nỗi sợ hãi. Chúng tôi tụ họp lại chỉ với mục đích duy nhất là được ở bên nhau. Chúng tôi không đến với nhau để hiểu điều gì đã xảy ra ở một ngôi trường cách rất xa trường của con em mình bởi chúng tôi không bao giờ muốn hiểu. Chúng tôi ngồi khóc trong im lặng, một nhóm nhỏ gồm các bà mẹ trong khu phố, một vài người bạn và một vài người lạ, những người cảm thấy cần phải ở bên cạnh nhau. Đó là ngày 15 tháng 12 năm 2012, một ngày sau khi Adam Lanza, sát nhân 20 tuổi xả súng giết chết 20 trẻ em từ 6 đến 7 tuổi cùng sáu giáo viên ở trường tiểu học Sandy Hook, thị trấn Newtown, Connecticut.
Tôi còn nhớ mình đã nghĩ: Chắc hẳn nếu tất cả bà mẹ trên thế giới gắng gượng lê tấm thân tới chỗ những bậc phụ huynh ở Newtown, chúng ta có thể giúp họ vơi bớt nỗi đau. Chúng ta có thể chia sẻ nỗi đau của họ tới trái tim của tất cả chúng ta. Mình tình nguyện làm như vậy. Chúng ta có thể tìm cách nào đó gánh vác nỗi đau cho họ được không? Mình sẵn sàng chia sẻ. Kể cả khi điều đó mang thêm nỗi buồn tới cuộc sống của mình.
Tôi và những người bạn của mình không nhanh chóng bắt tay gây quỹ vào hôm đó. Chúng tôi không nhào đến phòng hiệu trưởng ở trường của con cái mình để yêu cầu tăng thêm biện pháp an ninh. Chúng tôi không kêu gọi chính trị gia hay đăng lên Facebook. Chúng tôi sẽ làm những điều đó trong những ngày sắp tới. Còn vào ngày ngay sau khi vụ nổ súng diễn ra, chúng tôi chỉ ngồi cạnh nhau không nói gì, chỉ có âm thanh của tiếng khóc nấc thi thoảng cắt ngang im lặng. Việc tiến gần đến nỗi đau chung và nỗi sợ hãi đã giúp chúng tôi cảm thấy được an ủi.
Ở một mình trong thời điểm tang thương, không ngừng xem tin tức 24 giờ hay đọc vô số bài báo trên Internet là những cách nhanh nhất để nỗi bất an và sợ hãi len lỏi rồi cắm những chiếc rễ của một chấn thương thứ hai vào sâu trái tim bạn. Vào ngày sau vụ xả súng, tôi đã chọn khóc cùng bạn bè, sau đó, tôi tới nhà thờ và khóc cùng những người lạ.
Lúc đó, tôi không ngờ vào năm 2017, tôi sẽ nói chuyện với người tổ chức quỹ cho Trung tâm Resiliency ở Newtown và dành thời gian ngồi cùng nhóm phụ huynh có con là nạn nhân của vụ xả súng Sandy Hook. Những điều tôi rút ra trong suốt quá trình nghiên cứu và những gì lắng nghe được trong đêm đó ở Newtown đã chứng minh rằng: quá ít người trong số chúng ta biết cách ngồi cùng người khác khi trải qua đau đớn. Tệ hơn, sự không thoải mái mà chúng ta thể hiện ra có thể làm tổn thương người khác và càng khiến họ tách xa chúng ta. Tôi đã bắt đầu tin rằng khóc cùng người lạ có thể cứu rỗi thế giới này.
Giờ đây, ở Newtown có một tấm biển chào mừng ghi dòng chữ: CHÚNG TÔI LÀ SANDAY HOOK. CHÚNG TÔI CHỌN TÌNH YÊU. Ngày hôm đó, khi tôi ngồi trong căn phòng cùng những bà mẹ khác trong khu phố và khóc cùng nhau, tôi không chắc chúng tôi đang làm gì và tại sao lại làm vậy. Đến bây giờ, tôi khá chắc chắn rằng lúc đó chúng tôi đang chọn tình yêu, theo cách riêng nhỏ bé của mình.
Liên kết không thể tách rời
Tất cả những ví dụ minh họa trên về niềm vui và nỗi đau chung đều là những trải nghiệm thiêng liêng. Đó là những trải nghiệm mang đậm chất con người đến nỗi chúng phá tan những khác biệt và chạm đến bản năng vốn có của chúng ta. Những trải nghiệm đó cho chúng ta thấy tinh thần đồng loại giữa người với người là có thật và sở hữu một sức mạnh phi thường. Chúng ta cần khoảnh khắc kết nối với người lạ để nhớ rằng dù ta có ghét một ai đó trên Facebook hay ngoài đời thật như thế nào thì chúng ta vẫn có một mối liên kết không thể tách rời với người đó. Đó không cần phải là một giây phút trọng đại với sự tham gia của hàng nghìn người, mà đôi khi chỉ là cuộc nói chuyện hai giờ ngắn ngủi với một người ngồi cạnh trong chuyến bay.
Vấn đề là chúng ta không sẵn sàng để trải nghiệm đủ. Rõ ràng là chúng ta cần những trải nghiệm đó. Nhưng chúng ta sẽ phải đối mặt với tổn thương trước những niềm vui và nỗi đau chung đó. Chúng ta tự tạo áo giáp cho mình. Chúng ta cho tay vào túi trong buổi hòa nhạc hay đảo mắt trước một điệu nhảy hoặc đeo tai nghe lên thay vì làm quen với một người ngồi cùng chuyến tàu.
Đây là lý do vì sao chúng ta cần phải nắm bắt những khoảnh khắc mang tính con người và cảm thấy biết ơn chúng: hãy bước vào đường pitch29 ở Melbourne rồi yêu cầu khán giả ngừng hát bài hát truyền thống của Liverpool và bắt đầu nói về Brexit, bạn sẽ gặp rắc rối. Bật đèn trong rạp chiếu phim và yêu cầu người hâm mộ Harry Potter và bố mẹ họ bàn về ưu – nhược điểm của trường công so với trường tư và rồi với việc dạy học ở nhà, bạn sẽ thấy Voldermort trông còn thân thiện chán.
29 Phần vạch bao quanh sân cỏ của sân vận động.
Nếu bạn tập hợp những người đàn ông và phụ nữ trên đường FM 1960 vào một căn phòng cách xa thời điểm và bối cảnh bi kịch Challenger xảy ra rồi hỏi họ liệu Chính phủ Mỹ có nên rót nhiều tiền hơn vào chi phí quốc phòng, chính sách phúc lợi xã hội hay khám phá không gian hay không, bạn có nghĩ là mình sẽ thấy những cái ôm và vỗ về lẫn nhau? Thử biến buổi hòa nhạc của Garth Brooks thành một buổi biểu tình chính trị và khả năng cao là bạn sẽ thấy những tiếng hát biến thành những tiếng hét. Tất cả những kịch bản đó rất có thể sẽ làm tăng sự thiếu gắn kết và củng cố những giả định hoàn toàn trái với bản chất của chúng ta.
Ngược lại, chúng ta càng sẵn sàng tìm kiếm khoảnh khắc của niềm vui chung và tham gia trải nghiệm nỗi đau chung – ở ngoài đời thật, không phải trên mạng – thì sẽ càng khó phủ nhận mối liên kết của con người, thậm chí với những người chúng ta bất đồng quan điểm. Những khoảnh khắc thuộc về cảm xúc tập thể không chỉ nhắc chúng ta sự tồn tại của một mối liên kết thiêng liêng mà còn nhắc chúng ta nhớ về sự chân thực của tinh thần con người.
Chúng ta bẩm sinh đã cần kết nối. Nhưng vấn đề là, trong mọi khoảnh khắc, nó phải chân thật.
Cảm giác thiêng liêng
Nhà hoạt động xã hội người Pháp, Émile Durkheim đã đưa ra thuật ngữ collective effervescence (tạm dịch: hiện tượng hưởng ứng tập thể) trong cuốn sách ra mắt năm 1912 có tên The Elementary Forms of the Religious Life (tạm dịch: Những hình thức cơ bản của đời sống tôn giáo). Durkheim nghiên cứu về cái mà ông mô tả là một loại ảo thuật ông chứng kiến trong các buổi lễ tôn giáo. Durkheim giải thích rằng hưởng ứng tập thể là một trải nghiệm của kết nối, cảm xúc chung và “cảm giác thiêng liêng” – xảy đến khi chúng ta thuộc về một cái gì đó lớn lao hơn chính bản thân mình. Durkheim cũng cho rằng trong những trải nghiệm hưởng ứng tập thể đó, chúng ta chuyển sự tập trung từ cái riêng sang cái chung.
Gần đây, các nhà nghiên cứu Shira Gabriel, Jennifer Valenti, Kristin Naragon-Gainey và Ariana Young đã phát triển và thử nghiệm một công cụ đo mức độ ảnh hưởng của trải nghiệm tập thể tập hợp (họ dùng thuật ngữ này cho những trải nghiệm đó) lên chúng ta. Họ nhận ra rằng những trải nghiệm này góp phần tạo nên một cuộc sống với “cảm giác có ý nghĩa, tăng ảnh hưởng tích cực, tăng cảm giác kết nối xã hội và giảm cô đơn – tất cả đều là những yếu tố cần thiết cho một cuộc sống lành mạnh và hạnh phúc.”
Trong nghiên cứu công bố năm 2017, họ cho biết: “Nghiên cứu của chúng tôi nhất quán với quan niệm cho rằng tập thể tập hợp không chỉ xoay quanh những con người tụ họp để giải khuây bằng cách xem một trận đấu, buổi hòa nhạc hay vở kịch – đó còn là cơ hội để cảm thấy kết nối với một thứ lớn lao hơn bản thân họ; đó là cơ hội để cảm nhận niềm vui, kết nối xã hội, ý nghĩa và sự tĩnh tâm. Hoạt động tập thể từ lâu đã là một phần của trải nghiệm con người và nghiên cứu hiện tại đang bắt đầu tập trung lượng hóa lợi ích quan trọng về mặt tâm lý của nó.” Trong nhóm lợi ích đó, có một lợi ích gọi là hiệu ứng đọng lại – chúng ta vẫn có cảm giác kết nối xã hội ngay cả sau khi sự kiện thực diễn ra.
Tôi cảm thấy thật thú vị khi phát hiện ra rằng trưởng nhóm nghiên cứu Shira Gabriel lần đầu tiên biết về hiện tượng hưởng ứng tập thể là qua những trải nghiệm của chính cô trong thời gian hâm mộ nhóm nhạc Phish trong suốt thời trung học. Em trai tôi là người hâm mộ nhóm Grateful Dead và cũng rất thích Phish, vậy nên tôi hoàn toàn đồng cảm với câu chuyện của cô ấy. Gabriel và nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu vì sao phong tục, những cuộc hành hương và lễ hội lại đóng vai trò quan trọng đến thế trong nền văn hóa tôn giáo cổ xưa và tại sao đến ngày nay chúng ta vẫn muốn tụ họp ở các buổi biểu tình, sự kiện thể thao và hòa nhạc. Chúng ta luôn mong muốn một cuộc sống đầy ý nghĩa và kết nối.
Trong buổi phỏng vấn với những người tham gia nghiên cứu của chúng tôi, âm nhạc xuất hiện như một trong những yếu tố mạnh mẽ nhất có khả năng khơi dậy niềm vui và nỗi đau tập thể. Âm nhạc thường là yếu tố quan trọng trong các buổi tụ họp tâm linh, buổi lễ chúc mừng, tang lễ và phong trào biểu tình. Kể từ năm 2012, khi tôi chủ trì một sự kiện gồm hàng nghìn người tại Hội nghị đỉnh cao thế giới ở Portland hát theo những bài hát của ban nhạc Journey, tôi chưa bao giờ ngừng tin vào sức mạnh của âm nhạc – hình thức thể hiện niềm vui tập thể mạnh mẽ nhất. Tôi vẫn nhận được e-mail từ những người tham dự sự kiện hôm đó. Một trong những e-mail gần đây kể về cảm xúc mà phần lớn những người liên lạc với tôi sau sự kiện đều cảm thấy: “Diễn tả cảm giác lúc đó bằng lời là điều tôi thật sự không thể. Trải nghiệm đó là một điều kỳ diệu.”
Sứ mệnh thiêng liêng của sự hiện diện
Giờ đây chỉ có thần thánh mới khiến người ta lắng nghe. Và sản phẩm của thánh thần không phải là sự hoàn hảo hay sự tử tế mà là cảm giác thuộc về, cảm giác hiện diện ở thực tại và cảm giác thuộc về đó còn tạo ra thỏi nam châm thu hút những người khác hiện diện ở thực tại... Đó không phải một cách khiên cưỡng để tạo nên mối liên hệ với Chúa ở nơi xa xôi mà là nhận ra chúng ta đã là một phần của Chúa.
— John O’Donohue
Gần đây, tôi đã tới một khán phòng rộng của nhà thờ tại một thị trấn nhỏ ở Texas. Tôi tới đó để tham dự lễ tang của bố Laura, một người bạn tốt của tôi. Không có dàn hợp xướng hay chiếc piano nào trong khán phòng, chỉ có vài trăm người ngồi trên ghế xem bài điếu văn được chiếu trên màn hình qua máy chiếu. Khi chúng tôi được yêu cầu đứng dậy và hát một trong những bài thánh ca yêu thích của ông ấy (và của tôi) có tên “How Great Thou Art”, tôi không chắc làm cách nào mà khoảng 200 người lạ có thể cùng nhau hát một bài thánh ca cổ theo phong cách acappella trong khán phòng. Nhưng chúng tôi đã làm được, và đó là một trải nghiệm thiêng liêng.
Bố của Laura là người hùng của một thị trấn nhỏ và ông chưa bao giờ tiếp xúc với người lạ nào ngoài thị trấn. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ trong giây phút đó là Ông hẳn sẽ yêu lắm giọng hát hỗn loạn và trái tim ngân vang của chúng tôi. Nhà thần kinh học Oliver Sacks đã viết: “Âm nhạc, độc nhất trong các thể loại nghệ thuật vừa hoàn toàn trừu tượng vừa mang lại cảm xúc sâu sắc... Âm nhạc có thể chạm ngay đến trái tim mà không cần qua bất kỳ phương tiện trung gian nào.”
Tang lễ thật ra là một trong những ví dụ điển hình nhất của nỗi đau tập thể. Nó chứng minh cho một phát hiện đáng ngạc nhiên trong nghiên cứu về niềm tin của tôi. Khi tôi yêu cầu người tham gia nghiên cứu xác định 3 đến 5 hành vi cụ thể mà bạn bè, gia đình và đồng nghiệp của họ có thể khiến niềm tin của họ tăng lên thì hành động tham dự tang lễ luôn nằm trong nhóm ba hành động phổ biến nhất. Tang lễ không chỉ quan trọng với những người đau buồn mà còn quan trọng với những ai hiện diện ở đó. Nỗi đau tập thể (và đôi khi là niềm vui) mà chúng ta trải nghiệm khi tụ họp để kỷ niệm sự kết thúc của một cuộc đời có lẽ là một trong những trải nghiệm mạnh mẽ nhất của liên kết không thể tách rời. Cái chết, mất mát và đau buồn là những gì chúng ta phải đánh đổi.
Trong thời gian tôi viết cuốn sách này, dì Betty của tôi đã qua đời. Khi nhớ đến dì, tôi lại nghĩ về những tiếng cười, những lần đi cắm trại, tắm sông Nueces, lái xe tới nông trại của dì ở Hondo, Texas và sự ngầm thống nhất giữa chúng tôi rằng sẽ không bao giờ bàn về chuyện chính trị. Tôi cũng nhớ năm lên bảy tuổi, tôi xin dì cho tôi vào “phòng chơi bài” nơi bố mẹ, ông bà và các anh chị họ la hét, cười đùa, chửi rủa, hút thuốc và chơi Rook (trò chơi bài yêu thích của gia đình tôi). Tôi chỉ được chơi trong “phòng trẻ con” chán ngắt. Dì đã véo má tôi và nói: “Dì không thể cho con vào đó được. Tin dì đi, con sẽ không muốn thấy những gì xảy ra trong đó đâu. Không đẹp đẽ gì đâu con ạ.”
Thay vì tổ chức tang lễ, di nguyện của dì Betty là muốn chúng tôi cùng tham gia bữa thịt nướng tổ chức ở sân sau nhà anh họ Danny của tôi. Dì chỉ muốn chúng tôi cười nói và ở bên nhau. Danny là người dẫn dắt lúc cầu nguyện, chúng tôi kể những câu chuyện vui vẻ và Nathan chơi ghi-ta khi Diana hát bài “Ave Maria”. Lúc đó nhiệt độ ngoài trời là 32 độ ở vùng Texas Hill Country và bạn gần như không thể nghe thấy những câu chuyện và tiếng nhạc trong lúc ve kêu râm ran. Tôi đã nghĩ: Đây chính là ý nghĩa của con người.
Tính nhân văn có thể vượt lên trên tất cả những khác biệt đã chia tách chúng ta. Trong cuốn sách ra mắt năm 2017 về nỗi đau và lòng dũng cảm của Sheryl Sandberg và Adam Grant có tên Option B (tạm dịch: Lựa chọn thứ hai), Sandberg đã kể một câu chuyện chân thật và đau xé lòng về nỗi đau tập thể. Chồng cô, Dave, đột ngột qua đời trong một kỳ nghỉ. Các con của họ đang lần lượt học lớp hai và lớp bốn. Cô ấy viết: “Khi chúng tôi tới nghĩa trang, con tôi ra khỏi xe và gục xuống đất. Tôi nằm lên cỏ, ôm lấy bọn trẻ khi chúng kêu khóc. Anh em họ của chúng tới và nằm xuống với chúng tôi, tất cả chúng nằm lên nhau với những tiếng khóc than trong khi người lớn dang tay trong vô vọng để bảo vệ chúng khỏi nỗi đau.”
Sandberg bảo với bọn trẻ: “Đây là giây phút tồi tệ thứ hai trong cuộc đời của chúng ta. Chúng ta đã vượt qua lần đầu và chúng ta cũng sẽ vượt qua lần này. Kể từ đây, mọi chuyện chỉ được phép tốt lên thôi.” Cô ấy bắt đầu hát một bài hát thuở ấu thơ có tên “Oseh Shalom”, một bài cầu nguyện cho sự bình yên. Cô ấy viết: “Tôi không nhớ lý do vì sao mình chọn bài hát này. Sau này, tôi nhận ra rằng chính câu hát cuối cùng bài Kaddish – bài cầu nguyện buổi sáng của người Do Thái – có thể là lý do vì sao bài hát nảy ra trong đầu tôi. Sau đó, tất cả người lớn đều cùng hát, rồi đến bọn trẻ và tiếng than khóc ngừng lại.”
Một trải nghiệm về nỗi đau chung không chỉ truyền tải nỗi đau hay nỗi buồn cho chúng ta, nó còn đánh dấu sứ mệnh thiêng liêng của sự hiện diện. Những giây phút đó nhắc nhở rằng chúng ta không cô độc trong màn đêm và trái tim tan vỡ của chúng ta được kết nối với những trái tim ngay từ đầu đã biết đến nỗi đau.
Thân thiết do cùng chung kẻ thù
Tôi nhớ đã từng cười vang khi lần đầu nhìn thấy chiếc gối đặt trên ghế xô-pha của bạn tôi có ghi dòng chữ “Nếu bạn không nói được điều gì tử tế thì hãy đến ngồi bên cạnh tôi.” Tôi sẽ rũ bỏ hình ảnh nhà-nghiên-cứu-cố-làm-người-tử-tế một lúc và hỏi một số câu hỏi thật lòng như sau: Để làm bạn với người lạ, có cách nào nhanh và dễ hơn là nói xấu một người mà cả hai đều biết không? Có cảm giác nào thích thú hơn cảm giác buông người xuống ngồi bên một người và chỉ trích, đàm tiếu, đánh giá người khác không? Thường thì cảm giác sau đó sẽ vô cùng tệ hại nhưng thành thật mà nói, cảm giác ngay lúc đó luôn rất tuyệt. Đó là một cách dễ dàng, đầy cám dỗ và chắc chắn hiệu quả khi muốn kết nối với bất kỳ ai. Và thật tồi tệ, nó còn là cách rất vui nữa.
Nhưng hãy nhìn vào mặt trái của vấn đề. Kết nối được tạo ra bằng cách đánh giá và trêu chọc người khác không phải là kết nối thực sự, giống như những ví dụ mà tôi đưa ra ở trên. Tuy nhiên, đáng buồn thay, nỗi đau mà nó mang đến, lại là nỗi đau thực. Một mối liên kết được xây dựng trên lời đàm tiếu cũng chỉ có giá trị bằng chính lời đàm tiếu đó – không hơn.
Khi tôi phỏng vấn những người tham gia nghiên cứu về nỗi hổ thẹn, nhiều người đã nói về nỗi đau khi vô tình nghe thấy người khác nói về họ hay cảm giác hổ thẹn khi nhận ra người khác “buôn” gì về mình. Nó đau lòng đến nỗi tôi bắt đầu áp dụng nguyên tắc không đàm tiếu. Lúc đầu, tôi cô đơn thật sự. Nhưng nó quả thật là một trải nghiệm mang tính giáo dục cao. Chỉ mất mấy tuần sau, tôi nhận ra rằng nhiều mối liên kết của tôi, những cái mà tôi xem là tình bạn thật sự, hoàn toàn được xây dựng dựa trên lời nói về người khác. Khi chủ đề đó biến mất, chúng tôi không có điểm nào chung và không biết phải nói gì với nhau.
Nhìn một cách bao quát, tôi cho rằng những người cùng chúng ta đàm tiếu, chỉ trích người khác thường không có kết nối sâu sắc hay tinh thần cộng đồng sâu đậm với chúng ta. Chúng ta chỉ đơn thuần chơi với những người cùng ghét người mà chúng ta không thích. Đó không phải là kết nối. Đó là lối sống “hoặc đứng về phía tôi hoặc chống lại tôi”. Đó là mối quan hệ được xây dựng do cùng chung kẻ thù. Tôi không thật sự hiểu bạn và tôi cũng chẳng đầu tư tâm sức vào mối quan hệ của chúng ta nhưng tôi thích việc đối tượng chúng ta ghét và tư tưởng chúng ta xem thường là giống nhau.
Mối quan hệ dựa trên kẻ thù chung là mối liên kết giả tạo và là sự trái ngược của cảm giác thuộc về đích thực. Nếu liên kết chúng ta chia sẻ với người khác chỉ đơn thuần là do ghét bỏ cùng một người thì cảm giác thân thiết mà chúng ta cảm nhận thường mang đặc điểm gay gắt, dễ thỏa mãn và là cách thuận tiện để trút bỏ sự phẫn nộ và nỗi đau. Tuy nhiên, nó không tạo nên kết nối thực sự. Những gì nó tạo ra luôn mãnh liệt, chóng qua và để lại mớ cảm xúc tiêu cực. Và nếu chúng ta có khả năng tự nhận thức thì mối quan hệ đó có thể để lại những nuối tiếc sâu sắc trong chúng ta về tính chính trực. Mình thật sự tham gia mấy trò đó sao? Đó là điều giúp mối quan hệ của chúng mình đi lên ư? Có phải mình đang thực hiện, nói một cách chính xác, hành vi mà mình thấy ghê tởm khi thấy người khác làm?
Tôi hiểu cảm giác đó. Thường thì những lúc cảm thấy hoang mang và bị đe dọa, tôi thường muốn trốn tránh và tìm kiếm sự an toàn bên cạnh người khác. Nhưng cách này không hề hiệu quả. Dù có thể cùng nhau đứng phía sau một rào chắn của niềm tin, tư tưởng chính trị hay xã hội thì chúng ta vẫn cảm thấy cô độc. Và thậm chí tệ hơn, chúng ta thường xuyên cảnh giác với chính mình. Nỗi sợ bị phản đối nếu dám bộc lộ quan điểm bất đồng với những người cùng đứng sau một rào cản sẽ luôn khiến chúng ta bất an. Khi tất cả những gì gắn kết chúng ta là điều chúng ta tin chứ không phải con người thật của chúng ta thì việc thay đổi ý kiến hay thách thức hệ tư tưởng chung là hành động mạo hiểm.
Khi một nhóm người hoặc cộng đồng không chấp nhận ý kiến trái chiều hay bất đồng tức là nhóm người hoặc cộng đồng đó đã bỏ qua mọi trải nghiệm của liên kết không thể tách rời. Không có cảm giác thuộc về chân thật nào, chỉ có hiệp ước ngầm cùng ghét bỏ một đối tượng. Điều đó châm ngòi cho cuộc khủng hoảng chia rẽ về mặt tâm linh của chúng ta.
Những trải nghiệm tập thể dù có chạm tới trái tim chúng ta sâu sắc đến nhường nào thì rõ ràng không phải trải nghiệm nào cũng giống nhau. Khi một trải nghiệm tập thể sinh ra bởi một sự đánh đổi – chẳng hạn, để thân thiết với một người tức là ta phải hạ thấp hoặc sỉ nhục người khác hay một nhóm người khác – thì nó không thể cứu vãn cuộc khủng hoảng chia rẽ tâm linh của chúng ta. Thật tình, nó còn làm điều ngược lại khi là tác nhân gây ra cuộc khủng hoảng đó. Niềm vui và nỗi đau chung thực sự không phải là thứ được đánh đổi bằng nỗi đau của người khác. Khi người hâm mộ bóng đá la hét, chửi bới, kỳ thị chủng tộc các cầu thủ hay khi người ta tụ họp với nhau để ghét bỏ dù vì bất kỳ lý do gì, cảm giác thuộc về đích thực và liên kết không thể tách rời giữa con người sẽ ngay lập tức cạn kiệt hoặc biến mất.
Khi tôi hỏi người tham gia nghiên cứu về những cuộc diễu hành, tụ tập biểu tình xem liệu đó có phải là trải nghiệm niềm vui và/hoặc nỗi đau chung hay không, câu trả lời giống với khi tôi hỏi về các hoạt động tôn giáo: “Còn tùy vào tính chất của trải nghiệm đó.” Khi tìm hiểu sâu hơn về cách đánh giá tính đúng sai của trải nghiệm, một ranh giới phân định, cũng là ranh giới ở mối quan hệ dựa trên kẻ thù chung, đã xuất hiện: vô nhân tính hóa và phủ nhận sự xuất hiện của niềm vui và nỗi đau chung. Một người phụ nữ tầm 45 tuổi giải thích: “Tôi có thể tới nhà thờ và có trải nghiệm tuyệt vời nhất về kết nối tâm linh. Tôi cảm thấy mình là một phần của cái gì đó có thể vượt trên cả khác biệt cá nhân. Tôi cũng có thể tới nhà thờ và cảm thấy phẫn nộ khi linh mục sử dụng bài thuyết pháp như một công cụ để nói về chính trị và quảng bá cho ứng viên tranh cử. Những trải nghiệm đó đang diễn ra thường xuyên hơn. Đến một lúc nào đó, nơi đó sẽ không còn xứng đáng để tôi quay lại nữa.”
Tôi và con gái từng tham gia Cuộc diễu hành vì Phụ nữ vào năm 2017 ở Washington D.C. Lần đó, tôi đã được trải nghiệm một số khoảnh khắc mang lại niềm vui và nỗi đau chung thực sự nhưng những khoảnh khắc khác lại đi quá xa. Do tài xế Uber xuống nhầm chỗ nên chúng tôi bị mắc kẹt ở một khu đáng sợ: các công trình công cộng bị phá nát và đầy rẫy những hoạt động chống đối cảnh sát. Sau đó rất nhanh, hai gã thanh niên đội mũ in hình Tổng thống Trump hét lên: “Lũ bỏ phiếu ngu ngốc!” vào một nhóm cô gái trẻ chỉ đang đi trên đường và mặc áo phông có họa tiết cổ vũ nữ quyền.
Lúc đó, tôi nhận ra những kẻ cực đoan của cả hai phe phái chính trị ngày càng giống nhau hơn là giống với đa số mọi người đến từ khu vực bỏ phiếu của chính họ. Điểm tương đồng giữa họ là tận dụng mọi cơ hội để xả nỗi đau ngày một tồi tệ mà họ chối bỏ cùng cảm giác nhỏ bé và bất lực. Xin nhắc lại một lần nữa, chúng ta sẽ không thể chối bỏ những cảm xúc đó và khi trút chúng lên người khác, điều đó vô cùng nguy hiểm.
Phần lớn phát ngôn viên ở buổi diễu hành đã mang chúng tôi xích lại gần nhau trong những giây phút đồng lòng. Nhưng một số ít người hành động như những kẻ cực đoan kia, như đưa ra bình luận vô nhân tính hóa về các chính trị gia. Điều tôi thấy thú vị là cách bạn có thể cảm nhận trực tiếp nguồn năng lượng chuyển đổi từ đám đông sang phát ngôn viên trong khoảnh khắc từ “Đây là điều có thể!” và “Đây là điều chúng ta tin!” sang “Đây là cái, là người chúng ta ghét.” Năng lượng chuyển dịch từ sức mạnh của đám đông sang màn thể hiện của phát ngôn viên.
Hoạt động tập thể giúp đáp ứng mong muốn nguyên thủy của con người về trải nghiệm xã hội chung. Tuy nhiên, chúng ta cần thận trọng về cách thức và thời điểm những mong muốn đó có thể bị lợi dụng hoặc thao túng cho những mục đích kết nối giả tạo. Một hoạt động tập thể có thể là khởi đầu cho quá trình chữa lành vết thương của một cộng đồng đang đau buồn nhưng vẫn là cộng đồng đó, một hoạt động khác có thể khởi nguồn cho nỗi đau. Khi chúng ta xích lại gần nhau để chia sẻ niềm vui, hy vọng và nỗi đau thật sự, chúng ta đã đập tan những hoài nghi bủa vây thường che đậy bản chất con người tốt đẹp của mình. Khi chúng ta tụ họp với nhau dưới ngọn cờ giả dối của sự thân thiết dựa trên kẻ thù chung, chúng ta làm tăng sự hoài nghi và giảm giá trị tập thể.
Sử dụng phương tiện truyền thông xã hội
Trong nỗ lực tạo cơ hội cho niềm vui và nỗi đau chung, phương tiện truyền thông xã hội có thể đóng vai trò tích cực không, hay chúng chỉ là nơi dành cho sự ghét bỏ và ảnh chó mèo? Truyền thông xã hội có thể giúp chúng ta phát triển quan hệ thật lòng và cảm giác thuộc về đích thực không hay luôn cản trở điều đó? Đó là những câu hỏi mà tất cả chúng ta ngày nay đang vật lộn tìm câu trả lời.
Có những ngày tôi yêu mọi thứ thuộc về truyền thông xã hội, từ sức mạnh công lý nhanh chóng mà chúng có thể truyền tải tới vô vàn bức ảnh bánh cupcake được trang trí hệt như những cây xương rồng. Và rồi cũng có những ngày tôi chắc chắn rằng Facebook, Twitter và Instagram tồn tại chỉ để khiến tôi phát điên, làm tổn thương tôi, nhắc tôi nhớ về thiếu sót của mình và là công cụ đắc lực cho những kẻ có ý đồ xấu.
Tôi rút ra kết luận rằng cách chúng ta tham gia vào phương tiện truyền thông xã hội cũng giống như chơi với lửa – bạn có thể dùng nó để sưởi ấm hoặc thiêu rụi mọi thứ. Tất cả phụ thuộc vào ý định, kỳ vọng và kỹ năng phân biệt thật giả của bạn.
Khi bắt đầu tìm hiểu sâu, tôi nhận ra rõ ràng kết nối trực tiếp đóng vai trò thiết yếu với cảm giác thuộc về đích thực của chúng ta. Không chỉ dữ liệu từ những người tham gia nghiên cứu của tôi mới chứng minh tầm quan trọng của tiếp xúc trực tiếp mà các nghiên cứu trên khắp thế giới cũng xác nhận kết luận này. Truyền thông xã hội chỉ hỗ trợ nuôi dưỡng kết nối khi nó được sử dụng để tạo nên cộng đồng thật có cấu trúc, mục tiêu, ý nghĩa và tương tác trực tiếp.
Một trong những nhà nghiên cứu được nể trọng nhất trong lĩnh vực này là Susan Pinker. Trong cuốn The Village Effect: How Face-to-Face Contact Can Make Us Healthier and Happier (tạm dịch: Hiệu ứng xóm làng: Tương tác trực tiếp giúp chúng ta khỏe mạnh hơn và hạnh phúc hơn), Pinker viết: “Trong quãng thời gian tiến hóa ngắn ngủi, chúng ta đã biến đổi từ loài linh trưởng sống bầy đàn giỏi giải mã hành vi và ý muốn của cá thể khác sang một loài độc lập với mỗi cá thể bận bịu với một màn hình riêng.” Dựa trên nghiên cứu về nhiều lĩnh vực khác nhau, Pinker kết luận rằng không gì có thể thay thế được tương tác trực tiếp giữa người với người. Nó được chứng minh có thể tăng hệ miễn dịch của chúng ta, chuyển hoóc-môn tích cực tới hệ tuần hoàn máu và não bộ, giúp chúng ta sống lâu hơn. Pinker bổ sung: “Tôi gọi hoạt động này là xây dựng ngôi làng của bạn và việc xây dựng nó mang tính sống còn.”
Cô ấy không hề đùa khi dùng từ “sống còn”. Hóa ra mọi thứ cô ấy rút ra đều bổ trợ cho những gì chúng ta đã đọc về nỗi cô đơn: tương tác xã hội giúp chúng ta sống lâu hơn và khỏe mạnh hơn. Rất nhiều. Pinker viết: “Quả thật, lơ là việc duy trì tương tác thân thiết với những người quan trọng gây nguy hiểm tới sức khỏe của bạn, ít nhất giống như thói quen hút một bao thuốc mỗi ngày, cao huyết áp hay béo phì.”
Tin vui là tương tác này không cần phải lâu dài và gần gũi, dù nếu được thế thì tốt. Giao tiếp bằng ánh mắt, bắt tay hay đập tay đều giúp giảm lượng cortisone và tiết dopamine, giúp bạn ít căng thẳng hơn và tăng sự phấn thích. Pinker viết: “Nghiên cứu cho thấy chơi bài mỗi tuần một lần hoặc gặp bạn bè mỗi tối thứ Tư ở quán Starbucks có thể kéo dài nhiều năm tuổi thọ tương tự như uống thuốc ức chế beta hay bỏ hút một bao thuốc mỗi ngày.”
Truyền thông xã hội là công cụ tuyệt vời để phát triển tính cộng đồng nhưng cảm giác thuộc về đích thực, kết nối thực và cảm thông thực sự đòi hỏi phải gặp gỡ người thật trong không gian thật ở thời gian thật. Đây là một ví dụ minh họa từ chính cuộc đời tôi.
Facebook và tình cảm chân thật đầu tiên của tôi
Bạn còn nhớ Eleanor ở Chương 1, bạn thân nhất của tôi trong quãng thời gian gia đình tôi ở New Orleans chứ? Cô ấy từng là bạn thân nhất đời của tôi. Chúng tôi gặp nhau hồi năm tuổi. Những người bạn thân đầu tiên thật sự là những tình cảm chân thật. Cô ấy là bạn của tôi và tôi là bạn của cô ấy. Chúng tôi như hình với bóng trong nhiều năm liền. Suốt năm học, mỗi ngày chúng tôi đều đạp xe qua khuôn viên Đại học Tulane đến trường và từ trường về nhà, đôi khi dừng lại mua kem hay lẻn vào quán Der Rathskeller ở khu vực dành cho học sinh để uống một lon soda.
Chúng tôi có hẳn một bài vũ đạo và hát nhép theo bài “Band on the Run” của Paul McCartney và Wings. Chúng tôi nghịch ngợm trong giờ thực hiện nghi thức Công giáo và tự hào vì không bao giờ bị bắt. Một ngày nọ, chúng tôi lẻn ra sau Trung tâm Newman nơi chúng tôi thường lui tới và gọi một cách thân thương là “nhà thờ hippie” rồi cùng ăn bánh thánh. Chúng tôi chắc rằng mình sẽ gặp rắc rối lớn nhưng ít nhất chúng tôi có nhau. Chúng tôi đều lớn lên trong những gia đình đông người nên thật thú vị khi được trốn khỏi cuộc cãi lộn trong nhà bằng cách lấy xe đạp chạy ra ngoài và bày trò nghịch ngợm.
Như tôi đã đề cập, năm tôi học lớp bốn, bố tôi bị điều chuyển từ New Orleans đến Houston. Eleanor và tôi đều buồn kinh khủng. Nhưng chúng tôi hứa với nhau là sẽ cố hết sức để liên lạc và thăm nhau khi có thể. Trước khi chuyển nhà, bố mẹ cho tôi nghỉ học trước một tuần và đưa anh chị em tôi tới nhà bà ở San Antonio khi họ đang đi tìm nhà ở Houston. Lúc đó tôi chín tuổi, Jason năm tuổi và hai đứa em gái sinh đôi một tuổi.
Sau hơn một ngày ở nhà bà, lần lượt hai đứa sinh đôi bị đau bụng, đến tôi, rồi em trai tôi cũng cùng bị ốm. Khi bố mẹ tôi gọi điện từ Houston, bà xua tay và khăng khăng rằng bà vẫn có thể lo được. Hai ngày, năm chuyến tới tiệm giặt là công cộng và gần bốn lít súp, ai cũng dần khỏe lên ngoài tôi. Tôi ốm ngày càng nặng. Cuối cùng, tôi ốm nặng đến nỗi bà phải bảo bố mẹ tôi quay về.
Tôi phải phẫu thuật gấp vì viêm ruột thừa. Bà tôi đã không đủ kinh nghiệm để nhận ra các dấu hiệu ban đầu tình trạng của tôi lúc đó. Sau ca phẫu thuật, thật không may cho tôi, những biến chứng hậu phẫu nhanh chóng trở nên trầm trọng đến nỗi bố mẹ tôi nghi ngờ sự tỉnh táo của bác sĩ lúc phẫu thuật cho tôi. Cuối cùng, bố mẹ đã đưa tôi đi trong đêm “trái với lời khuyên của bác sĩ” để tới bệnh viện khác nơi tôi mất hai tuần để hồi phục. Sau đó, bố mẹ để tôi ở Texas với bà và quay lại thu dọn đồ đạc chuyển nhà.
Tôi không bao giờ gặp lại Eleanor nữa.
Nhưng vào đầu năm 2009, tôi thấy Eleanor trên Facebook. Tôi chủ động liên hệ và chỉ trong vài phút, chúng tôi đã nói chuyện với nhau (cảm ơn Facebook!). Kể từ đó, gia đình chúng tôi dành thời gian cho nhau. Tôi thân thiết với con cô ấy, cô ấy cũng thân với con tôi và chồng chúng tôi là bạn bè. Đó quả là một trong những niềm vui bất ngờ nhất trong đời tôi. Lần đầu tiên gặp lại, chúng tôi dành hàng giờ chia sẻ với nhau mọi thứ, từ nỗi đau và nỗi mất mát mà chúng tôi đã trải qua trong những năm qua tới những giây phút hạnh phúc nhất. Đó là cuộc nói chuyện không bao giờ có thể xảy ra trên mạng. Đó là cuộc nói chuyện cần đến một chiếc ghế bành, giữa đêm khuya, với những tách trà và bộ quần áo ngủ.
Điều tôi muốn nói ở đây là niềm vui không đến từ việc chúng tôi tìm thấy nhau trên Facebook. Nó đã và đang đến từ những lần cùng nhau đi dạo, những lần cả hai gia đình chơi bóng bàn với nhau và cùng nhau xem phim. Facebook là chất xúc tác. Gặp mặt trực tiếp mới là kết nối.
Lòng dũng cảm và tính tập thể
Một trong những điều tôi thích làm khi dạy về khái niệm tổn thương là cho học viên xem video về những màn nhảy flash mob và những khoảnh khắc của niềm vui tập thể. Những gì bạn thấy trong tất cả các video đó là hình ảnh những đứa trẻ trong độ tuổi đến trường đang vô cùng nhiệt huyết và hết mình tham gia vào trải nghiệm. Người lớn thì sao? Một số có và một số không hẳn. Thanh thiếu niên? Rất hiếm. Bọn trẻ dễ cảm thấy xấu hổ hơn. Cả niềm vui và nỗi đau đều là những trải nghiệm tổn thương mà chúng ta có thể tự cảm nhận, thậm chí còn cảm thấy sâu sắc hơn khi thực hiện cùng người lạ.
Nền tảng của dũng cảm là tổn thương – khả năng đưa bản thân đi qua sự không chắc chắn, những nguy cơ và sự bộc lộ cảm xúc. Để mở lòng với niềm vui cần có lòng dũng cảm. Cũng như những gì tôi đã viết trong các cuốn sách khác, tôi tin rằng niềm vui chắc hẳn là cảm xúc dễ bị tổn thương nhất. Chúng ta sợ rằng nếu cho phép bản thân cảm nhận niềm vui thì chúng ta sẽ mất cảnh giác với khủng hoảng hay thất vọng. Đó là lý do vì sao chúng ta thường lo lắng về những điều tồi tệ ngay trong khoảnh khắc vui vẻ nhất. Chúng ta thấy con mình tham dự dạ hội của trường và tất cả những gì chúng ta nghĩ đến là “tai nạn xe”. Chúng ta phấn khích với kỳ nghỉ sắp tới rồi bắt đầu nghĩ đến “những cơn bão”. Chúng ta cố khuất phục tổn thương bằng cách tưởng tượng ra những gì tệ nhất có thể xảy ra hay ngăn mình không cảm thấy gì với hy vọng rằng “mình sẽ không bị bất ngờ nếu có chuyện gì xảy ra”. Tôi gọi nó là niềm vui mang điềm dữ (foreboding joy).
Cách duy nhất để chống lại niềm vui mang điềm dữ là lòng biết ơn. Trong nhiều năm, những người có thể cảm thấy niềm vui trọn vẹn nhất là những người có lòng biết ơn. Trong những giây phút vô tư tận hưởng niềm vui dù riêng hay chung thì chúng ta cũng cần thể hiện lòng biết ơn.
Nỗi đau cũng là một cảm xúc gây tổn thương. Cần lòng can đảm thật sự mới có thể cho phép bản thân cảm nhận nỗi đau. Khi chúng ta gặp chuyện, nhiều người giỏi gây ra nỗi đau hơn là cảm nhận nỗi đau. Chúng ta phát tán nỗi đau thay vì cảm nhận nó bằng tim mình.
Vậy nên, để tìm kiếm giây phút của niềm vui chung và đắm mình trong giây phút của nỗi đau chung, chúng ta cần can đảm. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải cho phép mình tổn thương. Trong nghiên cứu trên hơn 200.000 dữ liệu của tôi, tôi không thể tìm thấy một ví dụ nào về lòng can đảm mà không đòi hỏi tổn thương. Bạn có thể kể ra một ví dụ nào đó trong cuộc đời mình không? Bạn có thể nghĩ đến một khoảnh khắc nào đó của lòng dũng cảm mà không cần đến sự liều lĩnh, không chắc chắn và bộc lộ cảm xúc? Tôi biết câu trả lời là không vì tôi đã hỏi quá nhiều người câu hỏi này, bao gồm cả những binh sĩ thực hiện nhiệm vụ đặc biệt. Không tổn thương thì không có lòng can đảm. Chúng ta phải bước ra và mở lòng. Khi một bài hát cất lên và một bài nhảy được thể hiện, điều ít nhất chúng ta cần làm là nhịp chân và nhẩm theo. Khi nước mắt rơi và câu chuyện khó nói được giãi bày, chúng ta phải đứng ra và ở bên cạnh nỗi đau.
Bất chấp những khác biệt, bất chấp những khi phải dấn thân vào thế giới hoang dã, chúng ta luôn muốn tin rằng không phải lúc nào chúng ta cũng phải một mình tiến bước.