← Quay lại trang sách

Chương 11 LẦN RA MANH MỐI-1

Uynxơn Hôoát lao vào xe ôtô, được một khoản tiền bảo hiểm và một khoản tiền bồi thường, rồi dùng số tiền này để cho con trai là Giôni tới Nhật Bản. Trong lòng Ken Sutan đã khẳng định được điều phán đoán này của mình, nhất định Uynxơn có một lý do bức thiết nào đó cần phải đưa con trai tới Nhật Bản.

Vì sao lại như vậy?

Đối với điều này, Ken bỗng dưng thấy hứng thú. Tại sao Ken lại như thế? Thoạt đầu, do mệnh lệnh bắt buộc của cấp trên, Ken mới miễn cưỡng bắt đầu điều tra.

- Nhật Bản à...

Tầm mắt của Ken bỗng nhiên mở rộng. Đối với Ken, Nhật Bản đâu phải là quốc gia không có quan hệ gì với mình. Không, không chỉ có quan hệ, hơn nữa nơi đó vẫn còn lưu lại dấu chân làm điều xằng bậy trong tuổi thanh xuân của Ken. Nếu có tiền, Ken cũng muốn trở lại thăm nơi cũ. Trong ký ức của Ken, Nhật Bản vẫn là một mbà tang hoang tàn đổ nát sau chiến tranh, nhưng Ken cảm thấy ở đất nước đó, vẫn giữ được tình cảm yêu đương trong lòng người mà không thể nhìn thấy ở nước Mỹ hiện tại.

Nhật Bản hiện tại so sánh với thời đó có gì khác? Ken còn chưa được tận mắt nhìn thấy. Nhật Bản mà Ken đã từng dừng lại mấy năm sau chiến tranh, ngày nay đã bước lên cảnh phồn vinh giàu mạnh. Người Nhật Bản có tinh thần cần cù phấn đấu và sức quật cường dân tộc có thể gọi là quốc tính, khiến cho đất nước đó có thể trong một thời gian rất ngắn, từ trong mảnh đất đổ nát hoang tàn sau chiến bại có thể nhanh chóng quật khởi, khiến cho toàn thế giới phải bàng hoàng kinh ngạc.

Sự lớn mạnh và đáng sợ của người Nhật Bản, chính ở chỗ Nhật Bản là một quốc gia dân tộc đơn nhất, chỉ có một dân tộc Taiwa, cho nên người người đều có “ý thức như người chủ gia đình” và có tinh thần dân tộc chủ nghĩa. Chỉ cần là người Nhật Bản, nói chung xuất thân đều rất trong sạch. Nói tóm lại, trong bè bạn của người Nhật Bản không tồn tại “giống hoang dại từ đâu tới”. Còn Mỹ thì không như vậy, Mỹ là một quốc gia nhiều dân tộc, nhiều chủng tộc, có người gọi là “quốc gia tạp chủng”, người ở các nơi trên thế giới đều có, đa số người đều không cùng huyết thống.

Ở trong một quốc gia như vậy, giữa con người và con người rất dễ dàng sản sinh ra cảm giác không tin tưởng, con người tin vật chất hơn tin con người. Nước Mỹ là một quốc gia phát đạt nhất về các loại máy bán hàng tự động ở trên thế giới, từ việc mua thức ăn thức uống, tạp chí, vé xe... đến các nhu yếu phẩm trong đời sống, đều sử dụng máy bán hàng tự động cả.

Vì máy bán hàng tự động giản đơn, tiện lợi, độ tin cậy cao, vô luận ở đâu cũng đều có thể mua được những đồ dùng như nhau, cho nên mọi người dùng rất dễ dàng thoải mái. Đây chính là một loại cơ giới luận cực đoan, loài người chỉ tín nhiệm vật chất.

Trước khi máy bán hàng tự động tiết kiệm nhân lực, tiết kiệm tiêu phí ra đời, đồng tiền đã trở thành vật thể môi giới liên kết loài người lại với nhau. Khi đó còn chưa có máy bán hàng tự động, thế nhưng ở những nơi đông người, tiêu tiền nhiều như nhà ga xe lửa, sân bóng, rạp hát, ngân hàng, khách sạn, bãi đỗ ô tô, nhà khách... con người đã không cần dùng tiền để tiến hành giao dịch trực tiếp với nhau, thoạt đầu cũng có nơi chỉ dùng tay ra hiệu là có thể giao dịch được.

Nước Mỹ vốn dĩ không phải là một quốc gia được kết thành bởi một dân tộc đơn nhất sinh ra và lớn lên ở quê nhà, những người tới nơi đây đại đa số đều là để tìm kiếm cơ hội thành công, hoặc không có cách gì sống nổi ở nước mình, cho nên giữa con người đã có sự cạnh tranh kịch liệt, ở nước Mỹ, đồng thời với sự ra đời của quốc gia này đã ấp ủ chuẩn bị cơ sở vật chất chi phối tinh thần.

Thế nhưng Nhật Bản thì không như vậy. Những con người ở trên đất nước này đều sinh ra và lớn lên ở quê hương, do đó vô luận là vật chất tràn ngập như thế nào đều không thể chi phối con người được.

Ken nghĩ tới Nhật Bản mà mình đã từng ở qua, vì quan hệ nghề nghiệp, anh thực sự cảm thấy sự sa đọa trên mặt tinh thần của Niu Yoóc.

Quốc gia nào cũng đều có kẻ phạm tội, Nhật Bản có, Liên Xô, Trung Quốc với thể chế kinh tế khác nhau, cũng có.

Thế nhưng tính chất phạm tội của nước Mỹ thì khác hẳn. Chỉ nói tới những vụ án giết người mang tính độc ác nhất, trong số tội phạm, ở Niu Yoóc thường phát sinh ra một số vụ án đổ máu xuất quỷ nhập thần, chẳng hề có động cơ gì. Sau khi chặn đường cướp của lại giết người, kẻ cướp lập tức trở thành tội phạm giết người, sau khi cưỡng hiếp phụ nữ, lại tàn nhẫn giết hại phụ nữ đó, hơn nữa lại còn gây tai họa đến những người đi đường bất ngờ đi qua.

Nghe nói, khi đi bộ Niu Yoóc cần phải hết sức cố gắng đi sát bên cạnh đường, nếu đi sát cạnh nhà thì sẽ có khả năng bị kéo vào trong ngõ hẻm, lột mất hết quần áo.

Chính mấy hôm trước tại công viên Trung Tâm có một lưu học sinh Nhật Bản bị một bọn lưu manh vây quanh tay đánh chân đá. Lưu học sinh đó liều mình hướng về những người ở gần kêu cứu, nhưng mọi người qua đường vẫn mải miết đi, tựa như không nghe thấy, cuối cùng may mắn được viên cảnh sát tuần tra đi qua cứu thoát. Vừa tới nhập học, anh ta liền hốt hoảng bỏ học, trở về Nhật Bản.

Hoàn toàn không quan tâm tới việc sống hay chết của những người không liên quan tới mình, chỉ cần cuộc sống của mình được yên ổn, có bảo đảm là được, cho nên, dù những sự việc chỉ hơi có chút uy hiếp là họ đều hết sức né tránh. Chiến đấu cho chính nghĩa chỉ là công việc sau khi sự an toàn của bản thân được bảo đảm.

Điều khiến cho người ta kinh ngạc là, nếp suy nghĩ “người hiểu đạo lý phải biết giữ mình, không dính vào việc nguy hiểm đến bản thân” cũng đã thẩm thấu vào trong giới cảnh sát. Chỉ lúc trực ban họ mới phụ trách việc bảo đảm quyền lợi và tự do cho con người, bảo đảm an toàn và trật tự công cộng, còn sau khi hết giờ làm việc họ đã trở thành một người bình thường.

Có khi, cho dù trước mắt có người sa vào trạng thái nguy nan, nếu cứu người này có khả năng uy hiếp tới sự an toàn của bản thân thì họ sẽ phớt lờ, nhìn mà không thấy.

Ken cũng quyết không ngoại lệ. Nếu đã phát sinh ra vụ án giết người, Ken có thể vì bản thân nghề nghiệp mà đuổi bắt. Thế nhưng hễ được giải thoát ra từ trong công việc căng thẳng, thời gian kéo dài, bước trên con đường trở về nhà, cho dù có gặp những sự việc kiểu như dân thành phố bị bọn lưu manh quấy rầy, Ken cũng chỉ làm như không nhìn thấy.

Cảnh sát cũng là con người, ngoài thời gian làm việc ra cũng có quyền lợi được nghỉ ngơi. Tuy đối với loại ý thức này Ken không có ác cảm gì, thế nhưng trong lòng cũng cảm thấy không phải là điều thú vị.

- Vô hình chung ta cũng đã trúng phải độc tố của Niu Yoóc rồi.

Và như vậy, trong ký ức xa xôi mơ hồ không rõ ràng của Ken, Nhật Bản là một “Vương quốc an cư của nhân loại”. Uynxơn Hôoát đã không tiếc tính mạng của mình để cho con trai đi Nhật Bản, cuối cùng là vì cái gì?

2

Ken lần nữa tới ngôi nhà chung cư mà cha con Hôoát ở. Tình hình ở đây không hề có sự biến đổi gì, vẫn là giấy vụn bay khắp nơi, mùi hôi thối xông đầy trời, chỗ nào cũng nhìn thấy những con quỷ rượu.

Điều khiến cho Ken giật mình kinh sợ là những thứ nhìn thấy trong lần này và lần trước hoàn toàn giống như nhau, vẫn là mảnh đất này, vẫn là những con người này. Uynxơn Hôoát cũng đã từng là một thành viên trong số họ.

Trên con đường ở gần ngôi nhà chung cư mà người cha Hôoát từng sống qua, có mấy người đàn ông ủ rũ đứng ở đó, trên những khuôn mặt đỏ rực vì uống quá nhiều rượu có chút ẩm ướt, bóng sáng, thì ra họ đang khóc.

- Đã xảy ra sự gì vậy? - Ken bước lại hỏi một người.

- Thưa ngài cảnh sát, ngài nhìn đây, thật là đáng thương!

Người đó dùng tay chỉ một gã đàn ông lang thang, gục mặt trên đầu gối, trước mặt hắn bày la liệt mấy chai rượu uýchky rẻ tiền, bên trong vẫn còn rượu. Ken lập tức biết đã xảy ra chuyện gì, trước đây Ken cũng đã từng gặp qua tình hình tương tự như vậy.

- Phát hiện ra khi nào?

- Sáng sớm hôm nay tới đây toàn thân Sanđi đã lạnh cóng. Sanđi đã đi trước chúng tôi một bước. Sandi, sao mày lại đi như thế này? - Người đàn ông vừa nói, nước mắt tràn đầy mặt.

- Đã thông báo vào thành phố chưa?

- Rồi, xe lượm xác sắp tới!

Đây là một nghi thức cáo biệt vô cùng thê lương. Một người đàn ông lang thang uống rượu, trúng gió, rồi chết ở đầu phố, anh ta chịu đựng hết mọi trắc trở giày vò ở trên đường đời, ở trong một xó xĩnh tập hợp những người lang thang, những kẻ thất nghiệp, dùng rượu hủy diệt mình.

Mọi hy vọng đều bị phá diệt, ngoài rượu ra, mọi dục vọng khác cũng đều hết sạch sành sanh, tức thì liền đem thân thể như một cục thịt biết đi, đắm chìm trong rượu với số tiền ăn xin được mua về, qua ngày dài mù mịt, cho tới khi cái chết thực sự kéo đến.

Người chết này chí ít cũng không cô đơn, bởi vì đã có một số bạn rượu tập hợp ở xung quanh di thể của anh ta, dùng những chai rượu Uýchky thay thế linh bài để cử hành nghi thức vĩnh biệt.

- Sandi ơi, chẳng phải là mày còn muốn trở về quê hương một lần trước khi chết đó sao?

- Quê hương của anh ta ở đâu?

- Nghe nói là ở trên một hòn đảo có tên là Sandinia ở Italya. Tôi không biết đảo đó ở đâu cả.

Vì anh ta từ hòn đảo Sandinia, cho nên mọi người đều gọi anh ta là Sandi, ai ai cũng đều chỉ gọi biệt hiệu của anh ta, e rằng ngay cả bản thân anh ta cũng đã quên mất chính mình có tên gọi là gì.

Những người tới dự “tang lễ” ở đây đều có những biệt hiệu tương tự, trong số đó cũng có người ngay cả đến quê hương mình ở đâu cũng chẳng biết, số người này được gọi là Natôlét (không có họ gốc) và La tô (con chuột)...

Trong lòng những người đưa đi chôn cất đều biết rõ, bản thân mình sớm muộn rồi cũng trở về như vậy. Họ vừa vĩnh biệt bạn bè, vừa mong muốn mình không thể là người chết sau cùng, nhưng lại cầu nguyện lúc rời xa cõi đời có người tới đưa tang mình.

Chẳng bao lâu, xe nhặt xác của thành phố đã tới. Ở Niu Yoóc, cứ sáng sớm mỗi ngày đều có mấy người chết như vậy. Có người chết ở ven đường, trong tàu điện ngầm, trên ghế trong công viên hoặc trong nhà xí công cộng, có người lặng lẽ lìa xa nhân thế ở trong buồng điện thoại công cộng. Nhiệm vụ của xe lượm xác chính là đi khắp nơi để thu nhặt những thi thể này.

Xe lượm xác vừa đi khỏi, họ lại lần lượt trở về vị trí của mình, tiếp tục đắm chìm trong Uýchky.

- Thưa ngài cảnh sát, uống một cốc nhé?

Một người nói với Ken rồi dâng chai rượu, số người này toàn thân sặc sụa mùi hôi thối, giống như khí mêtan từ dưới đất Niu Yoóc bốc lên. Ngoài việc uống rượu ra, họ không có bất kỳ ước muốn nào khác, cho nên cũng chẳng có uy hiếp gì đối với người khác.

Ken đẩy tay người đó ra, bước lên bậc thềm trước cửa nhà chung cư. Mariô vẫn mở tivi với âm lượng cực kỳ lớn.

Mariô nhún vai vẻ khuếch khoác đối với việc bước vào của Ken, ý nghĩa của động tác đó hình như muốn nói: Sao? Ông lại tới đấy à?

- Theo lời dặn của ông, tôi vẫn chưa cho thuê căn phòng này.

- Ô, bẩn thỉu như thế, chẳng có người nào muốn đến ở đâu.

- Đừng có pha trò nữa, hiện tại rất khó tìm được loại nhà trọ tốt như thế này. Số người đến thuê mỗi ngày đông tới mức phải xếp hàng, nhưng tôi sợ cảnh sát biết, cảnh sát đã bằng lòng cho tôi tiền thuê căn phòng đó rồi.

- Đừng thổi phồng nữa, căn phòng này chủ nhân đã rũ bỏ từ lâu rồi, bởi vì phí sửa chữa cái ổ lợn này còn đắt hơn tiền thuê phòng rất nhiều.

- Đừng nói những điều này nữa, hôm nay lại đến làm gì? Tôi cũng chẳng làm điều gì để cho cảnh sát phải tìm đến cửa. - Giọng nói của Mariô có chút dịu hơn.

- Trước hết, xin hãy tắt tivi đi đã.

Mariô nặng nề di động tấm thân béo ục ịch của bà đến tắt tivi, sau đó tỏ ý Ken có thể nói.

- Vẫn là sự việc của cha con Hôoát, họ có tấm ảnh nào không?

- Ảnh à?

- Đúng, đặc biệt là tôi muốn xem tấm ảnh của ông già đó.

- Loại người đó không thể có ảnh được.

- Chẳng phải là ông ta đã cư trú nhiều năm ở đây hay sao? Cũng phải có lần chụp ảnh chứ!

- Ông ta không có sự thích thú của loại người có tiền. Còn ảnh của ông ta chẳng phải là đã có ở trong Cục Cảnh sát đó sao? Ví dụ như trên danh sách những người lái xe, những người bị phạt... chẳng hạn.

- Ông ta không bị phạt, giấy chứng nhận lái xe hết hạn cũng không tới đổi giấy mới, đã không còn giá trị nữa.

- Vậy thì ở chỗ của tôi đây càng không thể có được.

- Đồ đạc ở trong phòng ông ta vẫn chưa động đến chứ?

- Vẫn chưa động gì đến. Mấy thứ đồ đạc đó đến kẻ trộm cũng chẳng thèm.

- Tôi muốn lại vào kiểm tra một lượt.

- Những thứ đồ đạc rách nát ấy gọi cảnh sát chuyển hết đi.

Ken chẳng thèm nhìn bà Mariô, liền bước vào trong căn phòng của cha con Hôoát. Trên nền nhà khắp nơi là bụi bặm, còn có dấu chân, điều này chứng tỏ rằng từ sau khi Ken tới đây không có người đến. Mấy thứ đồ đạc rách nát kia cũng không có người động đến, vẫn y nguyên như lần trước.

Ken lại kiểm tra kỹ càng một lượt, vẫn không có thu hoạch gì mới. Ở trong căn phòng nhỏ này, ngoài vài thứ đồ đạc không đáng tiền ra, cũng chẳng có thứ gì đáng kiểm tra lại.

Uynxơn đã từng phục vụ trong quân đội, nếu bắt đầu từ phương diện này có thể sẽ tìm được một tấm ảnh, nhưng muốn làm điều này phải được sự đồng ý của chính quyền cấp trên.

Ken chỉ dựa vào hứng thú cá nhân đến điều tra, anh không muốn lại tới chỗ cảnh sát trưởng Ôpuraen đề xuất yêu cầu nữa, sợ gây thêm phiền phức cho ông.

Bây giờ có nên bãi bỏ việc điều tra này đi không?

Ken cảm thấy “điều tra dựa vào hứng thú” rất bị hạn chế. Lúc này ở bên ngoài vang lên tiếng gõ cửa nhè nhẹ, sau đó đã xuất hiện khuôn mặt Mariô ở trước cửa.

- Tôi lập tức sẽ đi ngay đây! - Ken cho rằng bà ta tới để đuổi mình đi.

- Tôi vừa nghĩ ra, có một người có lẽ có ảnh của chú Uynxơn đó.

- Thật vậy à?

- Đích thực có hay không thì tôi không được rõ.

- Ai vậy?

- Đừng có giương ra bộ mặt dọa người như thế. Chính vì muốn bảo cho anh biết tôi mới tới đây, đó là một người Nhật Bản.

- Người Nhật Bản ư?

- Có một người Nhật Bản sống ở đây, tính tình rất kỳ quặc, chuyên chụp ảnh ở khu vực Halem. Chưa biết chừng chú Uynxơn cũng đã làm mẫu cho bà ta rồi đó.

- Bà ta? Nói như vậy thì là đàn bà à?

- Đúng thế, bà ta đã sống ở đây hơn hai năm rồi.

- Hiện tại bà ta đang ở đâu?

- Số nhà 222 phố 136 khu phía Tây, chính là ở trong ngôi nhà chung cư ở gần bệnh viện Halem. Bà ta ở vùng này rất có danh tiếng, ông cứ hỏi thăm là tìm thấy ngay.

❆❆❆

Ken không kịp cảm ơn, bèn chạy ra khỏi căn phòng. Ken vẫn không biết có một người phụ nữ Nhật Bản làm thợ ảnh chuyên môn chụp ảnh cho những người ở khu Halem. Khu Halem là một nơi tốt đẹp để cho các du khách chụp ảnh, khi xe du lịch đi qua chỗ này, rất nhiều ống kính của máy chụp ảnh ở trong cửa sổ xe đều hướng về chỗ này bấm máy. Vì ở nơi đây khắp mọi chỗ đều có nhắc nhở nguy hiểm, những người thực sự dám bước vào bên trong để chụp ảnh chỉ lác đác có vài người.

Nhiều nhất chẳng qua chỉ là xách máy ảnh đến đầu phố chính quanh đi quẩn lại, đi tới trước sau số 125 đã đủ giật mình kinh sợ. Thế mà người đàn bà này dám sống lâu dài ở đây, chuyên môn theo đuổi việc chụp ảnh của khu Halem, cuối cùng đã có người thợ chụp ảnh là đàn bà như vậy, ngay cả đến Ken, người thông thạo tình hình bản địa nhất cũng là lần đầu tiên được nghe thấy.

Chỗ ở của người đàn bà Nhật Bản mà Mariô nói đó là nơi giáp ranh giữa khu Halem và phía Đông Halem. Ken vừa hỏi thăm một người đàn ông lang thang ở ven đường, lập tức đã được biết.

Ngôi nhà chung cư đó cũng cũ nát bẩn thỉu như ngôi nhà chung cư của Mariô, đều sắp bị dỡ bỏ. Đây là một ngôi nhà xây dựng bốn tầng bằng gạch hồng, trên tường có biểu ngữ phản đối chiến tranh dùng sơn phun lên trên, còn có những lời lẽ nhảm nhí xằng bậy, bôi viết tùm lum.

Bên cạnh bậc thềm trước cửa có một thùng đựng rác bằng nhựa, đổ lăn kềnh dưới đất, đàn chó hoang đang bới loạn xạ. Bên cạnh còn có một ông cụ già uống rượu say đang ngồi uể oải phơi mình dưới ánh nắng.

Điều khiến cho người ta cảm thấy kỳ quặc là không hề có bóng dáng trẻ em mà ở khu Halem bất kỳ chỗ nào cũng có thể nhìn thấy. Đã trên dưới 2 giờ chiều rồi mà không nhìn thấy một đứa trẻ trên đầu mọc đầy mụn nhọt chạy qua chạy lại, nơi đây vắng lặng âm u đáng sợ.

Ken lập tức tìm được đến căn phòng của người Nhật Bản đó, ở trên tầng hai, vì ở trên cửa có treo một tấm biển viết rõ họ tên bằng chữ La Mã. Trong phòng hình như có tiếng động đi lại, vừa may có người ở nhà. Vừa gõ cửa, bên trong đã có người hỏi:

- Ai đó?

Một người nước ngoài, hơn thế lại là người đàn bà sống độc thân, vẫn có thể trú ở khu Halem quả thật là rất gan dạ, nhưng hình như tính cảnh giác cũng rất cao. Ken báo rõ tên họ và chức danh của mình, nói có chút việc cần hỏi thăm.

Nghe nói là cảnh sát, cửa lập tức được mở ngay, từ trong nhà bước ra một người đàn bà Nhật Bản dáng người không cao, thân hình mảnh khảnh. Vì bà ta trú ở khu Halem, cho nên trong tưởng tượng của Ken có khả năng sẽ là một người đàn bà rất lợi hại giống như con quỷ dạ xoa cái. Thế nhưng người bước ra lại là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, nét mặt, dáng người cân đối, gần hai mươi tuổi, khiến cho Ken hết sức bất ngờ.

- Cô là Santo Yukifu phải không? - Ken đốỉ chiếu tên họ trên biển treo ở cửa hỏi.

- Không, tôi tên là Santo Setsushi.

Ken nhăn nhó cười, Ken đã phát âm lầm lẫn với tên của nhà văn nổi tiếng Nhật Bản.

- Tôi là Ken Sutan. Có điều, cô không được vì vừa nghe nói là cảnh sát mà đã vội vàng tùy tiện mở cửa cho người vừa tới. Ở Niu Yoóc có rất nhiều cảnh sát giả, cho dù là cảnh sát thật, có khi cũng không thể tin tưởng được. - Ken vội vã khuyên bảo chân thành đối với cô gái mới gặp mặt lần đầu này.

- Ồ, đâu có sự việc đó được. Tôi ở khu Halem chưa hề ý thức được sẽ có nguy hiểm. Nhìn từ vẻ ngoài tuy có chút đáng sợ, nhưng ở đây có thể nói hầu hết đều là người tốt. Tôi không hiểu tại sao khu Halem có thể khiến cho người ta sợ hãi, tôi chỉ cảm thấy rời khỏi khu Halem đi ra ngoài mới là đáng sợ!

- Đó là vì cô không biết được điều đáng sợ thật sự của khu Halem. Không, cũng có thể nói cô không biết được cái đáng sợ của Niu Yoóc. May mà cô rất được hoan nghênh, cô còn chưa được tiếp xúc với những thứ đáng sợ đó.

- Thế nhưng tôi tin tưởng vào những người ở khu Halem, tin tưởng Niu Yoóc và nước Mỹ.

- Là một người Mỹ, tôi bày tỏ lòng cảm ơn đối với cô. Hôm nay tôi đột ngột tới thăm cô, là bởi vì nghe nói có khả năng là cô đã chụp qua ảnh cho một ông già có tên là Uynxơn Hôoát.

- Uynxơn à?

- Một ngươi da đen trú ở ngôi nhà công cộng phố số 123 khu Tây. Dạo tháng sáu đã bị chết vì sự cố giao thông, ông lão cùng ở với con trai là Giôni.

- Các cư dân ở khu Halem tôi đã chụp ảnh cho rất nhiều người, ông lão có đặc trưng gì không?

- Chính vì tôi muốn biết đặc trưng của ông lão, nên mới tới đây.

- Ông lão khoảng bao nhiêu tuổi?

- Sáu mươi mốt tuổi, thích uống rượu, khi còn trẻ đã từng đi lính, từng qua Nhật Bản.

- Đã từng đến Nhật Bản, ở phố 123? Ồ đó là “Ông chú Nhật Bản”.

- Sao lại gọi “Ông chú Nhật Bản”?

- Đó là điều bí mật về Nhật Bản, ông ta luôn luôn tưởng nhớ tới thời gian ở Nhật Bản, cho nên được gọi là “Ông chú Nhật Bản”. Nếu là “Ông chú Nhật Bản” đó, thì tôi đã chụp được rất nhiều ảnh, ông có muốn xem không?

- Rất muốn xem.

- Xin mời vào!

Họ vẫn đứng ở ngoài cửa nói chuyện. Tuy đều là công trình xây dựng có kết cấu giống nhau ở khu Halem, nhưng cách bố trí và không khí trong phòng hoàn toàn khác hẳn với căn phòng của Mariô và Hôoát, đích thực là căn phòng của một cô gái trẻ, vừa xinh đẹp lại vừa thoải mái dễ chịu.

Ken theo cô gái bước vào trong phòng ngủ kiêm phòng tiếp khách đó, bên trong có bàn ăn, giường, tủ áo, tivi, bàn trang điểm, giá để sách... vị trí xếp đặt đồ đạc rất ngay ngắn chỉnh tề, trên giá sách còn có thể nhìn thấy sách Nhật văn. Trong phòng rất trật tự ngăn nắp, đã phản ánh tập quán sinh hoạt của chủ nhân. Trên cửa sổ treo chiếc rèm in hoa màu hồng nhạt, khiến cho không khí trong phòng tỏ ra ấm cúng, tao nhã. Xem đó, đủ biết thời gian cô gái trú ở đây đã tương đối dài. Căn phòng này còn dùng bức rèm vải để ngăn cách ra một khoảng đất nhỏ, đặt ở phía sau hình như là các dụng cụ để chụp ảnh và làm ảnh, phòng tối có khả năng là đặt ở sau tường ngăn.

Một lát sau, Setsushi từ trong phòng có tường ngăn bước ra, trong tay cầm mấy tấm ảnh.

- Ồ, sao ông không ngồi? - Cô gái nhìn thấy Ken vẫn đứng chờ ở đó, ngạc nhiên hỏi.

Setsushi mời Ken ngồi xuống sa lông, sau đó đưa cho Ken mấy tấm ảnh cỡ sáu tấc Anh, nói:

- Cố gắng hết sức mới tìm được mấy tấm ảnh có vẻ đặc trưng, đây chính là “Ông chú Nhật Bản”.

Đôi môi của ông già người da đen trên tấm ảnh rất dày, những nếp nhăn hằn sâu trên mặt giống như những vết dao khắc, một đôi mắt không chút biểu lộ tình cảm lún sâu trên mặt già nua mất hết tính đàn hồi, lấp lánh chút ánh sáng yếu ớt. Uống rượu quá độ đã khiến cho ông lão nhìn có vẻ già yếu hơn tuổi thực tế. Từ một vài góc độ, Setsushi đã chụp cho ông lão mấy kiểu ảnh đặc tả.

- Đây chính là Uynxơn Hôoát à?

- Tên thì tôi không biết nhưng nếu nói là người da đen ở phố 123 đã từng qua Nhật Bản thì chỉ có “Ông chú Nhật Bản” này thôi.

Ken vẫn chăm chú nhìn vào tấm ảnh.

- Ông có quen ông lão này không? - Đối với ánh mắt nhìn đầy vẻ kích động không bình thường của Ken, Setsushi tựa hồ như không thể lý giải được, hỏi.

- Không! - Ken vội vàng phủ nhận - Tấm ảnh này có thể cho tôi mượn để dùng có được không?

- Không có trở ngại gì. Ở đây tôi vẫn còn phim.

- Vậy thì cảm ơn cô nhiều. Ngoài ra, tốt nhất là cô hãy bố trí căn phòng này đơn giản hơn nữa.

- Vì sao?

- Quá kiều diễm đó!

- Anh nói có chút gây sự chú ý chăng?

- Không, tôi hoàn toàn không có ý đó. Xin cô đừng quên đây là khu Halem.

- Cảm ơn lời khuyên bảo chân thành của anh. Có điều, tôi vẫn cứ thích kiểu dáng hiện tại, cho đến nay vẫn chưa hề phát sinh ra sự việc gì.

- Hơn nữa, nếu có người nào tự xưng là cảnh sát, cũng đừng có để cho người đó bước vào trong phòng. Có điều, tôi là trường hợp ngoại lệ.

Ken cười tạm biệt, rời khỏi căn phòng của Setsushi.

3

Ken nhìn tấm ảnh Uynxôn Hôoát mượn được từ chỗ Setsushi về, anh cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Từ trong sự việc này anh đã nhận được một sự gợi ý, trong đầu óc Ken đã xuất hiện điều nghi vấn mới.

Đây là một vấn đề cho đến nay vẫn chưa hề có ai nghĩ tới. Để chứng minh, Ken lại đến sở đăng ký trung tâm thành phố để điều tra hộ khẩu của Têlêsa Rốt, người vợ của Uynxơn. Ông bà nội của Têlêsa là người da đen từ phương Nam đến vào đầu thế kỷ 19, từ năm 1943 bắt đầu tới ở khu Halem.

Ngoài ra, Uynxơn Hôoát cũng là người da đen thuần túy. Điều tra Sổ đăng ký ở sở đăng ký lần trước, cũng không phát hiện gia đình Uynxơn có quan hệ huyết thống với người da trắng hoặc người châu Á. Nếu điều tra ba đời trước, thì cần phải đến quê hương cũ của họ ở phương Nam để điều tra, thế nhưng phương Nam căn bản không coi người da đen là con người để đối xử, sau khi lưu lạc tha hương, không có khả năng tiếp tục bảo tồn số đăng ký của họ được. Hơn nữa, người Mỹ không có quan niệm về hộ tịch. Hộ tịch của Nhật Bản lấy đơn vị là một nhà một hộ, còn ở nước Mỹ thì lại lấy cá nhân làm đơn vị đăng ký. Vì lấy cá nhân hoặc vợ chồng làm đơn vị đăng ký, nên dù có xem sổ đăng ký, cũng không thể biết cha mẹ Hôoát là người nào. Vả lại sự ra đời của Têlêsa và Uynxơn, cho dù có tiến hành điều tra khắp toàn quốc, phải trình báo mang tính chất cưỡng chế, sợ rằng ngay bản thân họ cũng không thể biết rõ nguyên quán cuối cùng là ở đâu.

Căn cứ vào tình hình Ken đã nắm được, Giôni Hôoát không phải là người da đen thuần túy. Từ tấm ảnh nhìn thấy ở Công ty vận tải, nơi Giôni làm việc sau cùng, cũng nói rõ điểm này. Giôni có màu da hơi nhạt một chút, hơn nữa tướng mạo có chút gần giống như người châu Á.

Những đứa con lai của người da đen với người da trắng, hoặc với người Bôtôrích, người Italya đã có rất nhiều, nhưng con lai giữa người da đen với người châu Á thì lại tương đối ít.

- Người cha của Giôni đã từng qua Nhật Bản trong thời kỳ phục vụ binh dịch, có lẽ Giôni là... Cuộc điều tra lại đã có tiến triển mới. Thế nhưng ngày sinh mà Giôni đăng ký là tháng 10 năm 1950, là thời gian sau khi cha mẹ kết hôn khoảng mười tháng, Giôn không có khả năng là đứa con do cha đem từ Nhật Bản về được.

- Có thể giả dụ Uynxơn khai man năm tháng sinh được không? Trong đầu Ken lại hiện lên một khả năng khác. Bây giờ quy định trình báo ngày tháng năm sinh cần phải xuất trình chứng minh của y tá đỡ đẻ, nhưng ở trong ổ dân nghèo, rất nhiều phụ nữ sinh con đều không mời y tá, bởi “nguyên do bất đắc dĩ” thì cũng được miễn chứng minh thư của y tá.

Hơn hai mươi năm trước, đại chiến thế giới lần thứ hai vừa kết thúc, khắp nơi là quang cảnh hỗn loạn, có thể tưởng tượng được thủ tục hộ tịch khác xa với sự nghiêm ngặt như hiện tại, lúc trình báo để chậm ngày sinh tháng đẻ là chuyện tương đối dễ dàng. Dù sao thì bản thân người đó báo thế nào cũng được đăng ký thế đó, rất có khả năng là đăng ký không thực.

Hoàn toàn có thể cho rằng Giôni đã sinh ra ở Nhật Bản, vì một biến cố nào đó mới xa mẹ, một mình Giôni theo cha trở về nước Mỹ, sau khi về nước người cha mới kết hôn. Lúc đó người cha đã đem Giôni nói thành đứa con do vợ sinh ra, lúc khai sinh có ý che giấu tuổi thực.

- Vậy thì mẹ đẻ của Giôni nhất định ở Nhật Bản. Tình hình phác thảo mới xuất hiện ở trước mắt càng ngày càng rõ ràng. Sự suy đoán như vậy cũng đã biết được mục đích vì sao Giôni cần phải đi Nhật Bản.

- Có lẽ Giôni đi Nhật Bản là để thăm mẹ đẻ của mình.

Vì uống rượu quá độ, Uynxơn đã biến đời mình gần như một phế nhân. Ông lão cảm thấy mình không thể sống lâu trong cuộc đời này nữa, liền đem sự việc “người mẹ Nhật Bản” nói cho con trai biết. Có lẽ Giôni đã sớm biết người mẹ đẻ thực sự của mình. Cho dù có sống, Uynxơn cũng chẳng sống được bao lâu nữa, thân xác của ông lão bị rượu tàn phá, đối với xã hội không còn ích lợi gì, chỉ có thể trở thành gánh nặng cho con. Tức thì Uynxơn đem thân thể của mình đổi lấy chút tiền để cho con đi Nhật Bản tìm lấy mẹ đẻ của nó.

Ken vô cùng tự tin đối với sự suy đoán của mình.

- Đi Nhật Bản tìm mẹ, bị giết, Giôni thật đáng thương!

Lúc này, Ken mới bắt đầu thương xót người thanh niên da đen làm khách chết tha hương, không người quen biết đó. Không, đối với Giôni mà nói, Nhật Bản đâu phải là nước khác, mà là “mẫu quốc” danh hợp với thực, Giôni đã bị giết hại ở “mẫu quốc”.

Giôni có được gặp mẹ không? Không, có lẽ là trước đó đã bị giết hại rồi. Người mẹ nếu biết được tin chết của Giôni, chắc bà sẽ đớn đau không muốn sống nữa, có lẽ mẹ của Giôni còn chưa biết Giôni đã tới Nhật Bản.

Nghĩ tới đây, Ken phảng phất như mình bỗng nhiên bị nguồn điện mạnh giật ngã, một ý nghĩ đáng sợ xuất hiện ở trong óc Ken. Ken không dám nghĩ tiếp nữa.

- Có lẽ nào...

Ken lặng lẽ nhìn lên bầu trời, lẩm bẩm nói một mình.