← Quay lại trang sách

Chương IV

Trong những ngày ấy, giặc Pháp đánh lan ra khắp các tỉnh của Nam Bộ. Bọn chúng đánh lại Nam Bộ với một lực lượng thiện chiến của hai sư đoàn số 3 và số 9 mà chúng gọi là hai sư đoàn 3è và 9è DIC (1).

Tháng 5-1945, phát xít Đức đầu hàng. Nước Pháp được giải phóng. Chánh phủ lâm thời của nước Pháp người đứng đầu là “Đờ Gôn”. Trong lúc ấy, Đông Dương vẫn còn nằm trong tay của phát xít Nhật và Nhật đang suy yếu vì bị Hồng quân Liên Xô đánh bại. Thừa nước đục thả câu và vấy máu ăn phần, “Đờ Gôn” cho hai sư đoàn ấy sang tham chiến ở Thái Bình Dương. Hai sư đoàn ấy sang Thái Bình Dương để đánh với một quân đội (Nhật) đang bại trận để mở đường chiếm lại Đông Dương. Nhưng khi hai sư đoàn ấy cùng với chiếm hạm “Ritsơliơ” nặng ba nhăm ngàn tấn vừa đến Sâylăng thì quân Nhật đã đầu hàng. Thế là hai sư đoàn ấy đành phải nằm lại Sâylăng chờ cơ hội mới.

Nhật đầu hàng, Cách mạng Tháng Tám thành công. Quân đội Anh - Ấn với danh nghĩa là quân đội Đồng minh đặt chân lên đất Nam Bộ với nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Trong lúc ấy, quân lính Pháp ở Nam Bộ đang bị giam giữ ở thành Ô Me Sài Gòn.

Trong tình thế ấy, chánh phủ “Đờ Gôn” liền xoay qua một nước bài khác: vận động Bộ Tư lệnh Đồng minh ở Đông Nam Á võ trang lại cho quân Pháp ở Đông Dương.

Quân Anh - Ấn vừa giải giáp quân đội Nhật vừa võ trang cho quân Pháp ở thành Ô Me. Sau khi được võ trang, tên đại tá “Xêđinnơ” liền đề nghị với “Đờ Gôn” cho đánh chiếm lại Sài Gòn. Thế là đêm 22 rạng ngày 23-9-1945, bọn chúng bắt đầu nổ súng. Nhân dân Sài Gòn nổ súng kháng chiến. Quân Pháp không phá được thành Ô Me, không chiếm được Sài Gòn, mà bị nhân dân Sài Gòn dồn hãm vào các vòng vây, rồi xin đàm phán với Ủy ban hành chánh Nam Bộ.

Trong mười ngày đàm phán, bên ngoài bọn chính phủ “Đờ Gôn” và lực lượng Đồng minh đã thỏa thuận cho quân đội Pháp thay thế cho quân đội Anh - Ấn. Thế là, đầu tháng 10-1945, chiến hạm “Ritsơliơ” nhổ neo rời Sâylăng, đưa hai sư đoàn số 3 và số 9 sang Đông Dương. Tàu “Ritsơliơ” bắn tiếng súng đầu tiên vào Nhà Bè, mở màn cho một cuộc xâm lăng mới.

Sư đoàn số 3 và số 9 là hai sư đoàn gồm những người lính trẻ, những người lính đã từng tham gia những trận đánh giải phóng nước Pháp. Họ là những người lính vừa chiến thắng. Hai sư đoàn ấy cùng với sáu ngàn quân Pháp ở thành Ô Me đánh lan ra khắp Nam Bộ.

Trong những ngày ấy, Sáu Sỏi cùng với các lực lượng vũ trang của ta ở miền Tây vừa đánh vừa rút về U Minh. Về U Minh, bác gặp lại Phát và hầu hết anh em đồng chí trong tỉnh.

U Minh, một cánh rừng tràm bát ngát với những dòng nước đỏ đã trở thành khu căn cứ. Từ rừng sâu mọc lên những binh công xưởng đầu tiên với những dụng cụ thô sơ và dưới bóng tràm là trại lính.

Ngày 6-2-1946, Bà Rịa là tỉnh cuối cùng của Nam Bộ bị mất vào tay quân Pháp. Quân Pháp đã tưởng chúng chỉ đánh nhau với bốn sư đoàn có võ trang. Đó là sư đoàn một, sư đoàn hai, sư đoàn ba và sư đoàn bốn. Trong những ngày đầu bối rối, bốn sư đoàn ấy được thành lập một cách ô hợp. Những sư đoàn ấy gồm có những sĩ quan cũ của Pháp, những lính lệ, lính làng, những người lính đã theo Nhật mà người ta quen gọi là lính “hay hô” hoặc là lính Nhật “local”. Sau khi đánh đuổi bốn sư đoàn ấy ra khỏi hai mươi mốt tỉnh lỵ của Nam Bộ, quân Pháp tưởng rằng chúng đã bình định xong đất Nam Bộ. Những người lính Pháp của hai sư đoàn số 3 và số 9, họ tưởng rằng họ đã chiến thắng. Chúng nghênh ngang trên khắp nơi mà chúng vừa chiếm được. Chúng hãnh diện với chiến công của chúng, và hãnh diện với cả bộ quân phục của chúng nữa. Quân phục của chúng, phía bên vai trái có một “vòng tua” đỏ, đó là “vòng tua” danh dự của một đội quân chiến, thắng. Nhưng bọn chúng đã nhầm, bọn chúng không phải chỉ đánh nhau với bốn sư đoàn ấy, bọn chúng còn phải đánh nhau với một lực lượng nữa, đó là lực lượng của nhân dân. Trong đời sống bình thường, khi có sự tranh chấp giữa người này với người nọ, người Nam Bộ thường hay nói: “lấy ngực ở đời” - Bây giờ, người Nam Bộ đã “lấy ngực ở đời” với giặc Pháp. Quân lính Pháp không tìm thấy quân đội của đối phương, nhưng lúc nào cũng bị tấn công. Bọn lính “vòng tua đỏ” ấy lại đi học những tội ác của bọn Đức mà đánh lại nhân dân và thầy sao thì trò vậy, bọn chúng càng ngày càng bị rơi rụng đi. Trên khắp mọi nơi, người ta thấy, lác đác và rải rác mọc lên những nấm mồ có dựng thánh giá và bia mộ khắc bằng chữ Pháp.

Rồi, từ các chiến khu: Rừng Sác, Tháp Mười, U Minh, lực lượng của cách mạng lần lượt được dội trở về các tỉnh.

Sáu Sỏi lại được trở về làng. Trong những ngày chuẩn bị trở về, có một số anh em đồng chí nhớ đến những ngày nổi dậy của một số bà con tín đồ Hòa Hảo, nhớ những cái xác chết bập bềnh trên dòng sông, họ không thật tin lòng người Hòa Hảo, họ lo ngại và rụt rè. Còn bác, bác nhớ đến cái đêm mà lão Ịnh đã đưa bác ra khỏi hầm, đêm ấy là đêm tối, nhưng đêm tối ấy như lóe ra một tia sáng giúp cho bác thấy được lòng người tín đồ Hòa Hảo rõ hơn và sâu hơn. Bác và Phát, hai cha con của bác là hai người đầu tiên mạnh bước trở về. Người đứng đợi bác dưới gốc cây vông đồng trong một đêm đầy sao cũng chính là lão Ịnh.

Vừa thấy bác, lão Ịnh đã kêu lên:

- Anh Sáu đó phải không?

- Anh Tư đó hả?

- Tôi đây.

Lão Ịnh vừa kêu vừa chạy lại bác và ôm chầm lấy bác. Hai người ôm ghì lấy nhau một lúc. Trong khoảnh khắc im lặng, bác nghe tiếng thổn thức của lão Ịnh:

- Anh Sáu! Nghe tin anh về. Bà con ai cũng mừng, nhưng người nào cũng lo sợ. Bà con đã bảo nhau chỉ có tôi mới ra đón anh được thôi.

- Vì sao bà con bây giờ lại sợ tôi, anh Tư? Tôi về đây là muốn ở lại làng với bà con...

- Anh Sáu! Nếu như trước đây, tất cả những người trong chính quyền đều như anh thì làng mình đâu có ra nông nỗi đến như thế. Chỉ mới có gần một năm thôi mà làng mình bị vắng vẻ đi nhiều quá.

- Thôi, đừng khóc nữa anh Tư! - Bác quay nhìn cái đầm sen và tiếp - Anh thử cầm lấy một cục đất mà ném vào cái đám bèo dưới đầm mà xem, anh hãy nói với bà con, bèo bị tan đi còn biết họp lại, huống chi là người của chúng ta, anh Tư!...

Sáu Sỏi về làm bí thư huyện ủy huyện Chợ Mới, và giữ chức chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh huyện.

Những ngày ấy là những ngày sau hiệp định 6-3 năm 1946. Khắp mọi nơi - và hầu như ngày nào cũng có tiếng súng kháng chiến. Không khí kháng chiến như một ngọn lửa bắt nguồn từ tim người bùng lên, lan rộng ra và không thể nào dập tắt được. Tất cả các nơi, hầu như mỗi xã cũng đều có một khu căn cứ. Xóm Đình là khu căn cứ của làng.

Qua cuộc chiến đấu dằng dai ấy, càng ngày người ta càng thấy rõ lời tuyên bố của tướng Lơcờle: “Bình định Nam Bộ trong ba tuần” là những lời huênh hoang và ngu xuẩn một cách bất hủ.

Trong các thành phố và các đồn bốt, bọn lính có “vòng tua đỏ” mỗi ngày mỗi vắng và được thay vào những người lính lê dương đầu đội kê bi trắng.

Đầu năm 1947, trong một cuộc họp cao cấp ở Pháp, Đạtgiăngliơ và Bôla Et có thống nhất một nhận định: “Nếu hiểu biết được một cách sâu sắc về tôn giáo về tâm lý và phong tục, về mâu thuẫn nội bộ của đối phương thì sự hiểu biết đó có một sức mạnh bằng hai sư đoàn số 3 và số 4 và nếu biết sử dụng được sự hiểu biết đó thì sức mạnh sẽ vô cùng...”.

Sau đó các báo chí Sài Gòn càng bị kiểm soát một cách gắt gao hơn. Bọn bồi bút lần lượt trườn mặt lên các trang báo, vu cáo Cộng sản, cổ động và tuyên truyền cho thứ độc lập bánh vẽ.

Ở những vùng có tín đồ Hòa Hảo, người ta lại bắt đầu nghe lại những tin đồn nhảm, lại có những lời bàn xầm xì về hai tiếng quỷ dương.

Tên “Pettanh” Liễu - người Việt mà lấy tên Tây, tên phòng nhì đội lốt đạo, làm tham mưu trưởng của quân đội Hòa Hảo - ra mật lệnh thủ tiêu những người nghi ngờ là cộng sản hoặc ngoại đạo.

Tín đồ Hòa Hảo các nơi lại bắt đầu họp kín, tập kín, quyên tiền mua súng, cho nữ tín đồ đi dụ dỗ anh em du kích mang súng sang quân đội Hòa Hảo. Các ban trị sự đòi tham gia vào chánh quyền một cách gay gắt. Các nơi, đã bắt đầu có những cuộc xung đột lẻ tẻ. Trong huyện Chợ Mới, tình hình có vẻ gay gắt nhất là làng Mỹ Long Hưng. Ban trị sự đạo đề nghị mở hội nghị bàn về việc chánh quyền, hội nghị đang sôi nổi thì các đại biểu trong ban trị sự đạo lại đứng dậy, xua tay, lớn tiếng, bỏ ra về. Trong tình hình ấy, Sáu Sỏi và các cấp ủy đều đoán biết việc sẽ xảy ra. Sáu Sỏi liền trở về làng. Bác trở về làng, đang họp với cấp ủy xã thì đêm ấy đã nổ ra. Nếu đêm ấy mà không có Hiền, thì bác và một số đồng chí chắc đã hy sinh rồi.

Sau cái đêm ấy, các đơn vị vũ trang của Năm Lửa, Ba Cụt, Hai Ngoán, Nguyễn Giác Ngộ cũng đã phản lại nhân dân tín đồ, các đơn vị ấy đã nổ súng bắn giết cán bộ cách mạng, chiếm lấy tất cả các vùng có tín đồ trong các tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc và Cần Thơ. Sau khi các đơn vị vũ trang của Hòa Hảo chiếm được những vùng ấy thì các đơn vị chính quy của Pháp lần lượt giao quyền kiểm soát cho Hòa Hảo và rút dần đi đến các chiến trường khác. Những tên quan lại Pháp ngày cũ lại bắt đầu trở lại. Quận trưởng Ghiđi lại trở về làm Quận trưởng quận Chợ Mới.

Sau khi chiếm được một số vùng có tín đồ, các lực lượng vũ trang của bọn phản động mượn danh Hòa Hảo lại cùng với các lực lượng quân sự địa phương của Pháp tấn công vào các khu căn cứ của Cách mạng. Nhưng bọn chúng đã vấp phải sức chống trả mãnh liệt của các lực lượng Cách mạng. Các đơn vị vũ trang của Cách mạng cũng không ngừng tấn công vào các lực lượng phản động ấy.

Hơn bốn tháng, những cuộc chiến đấu hỗn độn ấy đã thức tỉnh được một số tín đồ. Số tín đồ ấy đã tự mình tách ra khỏi hàng ngũ phản động, tìm vào khu căn cứ, kêu gọi cán bộ trở về.

Sáu Sỏi và các đồng chí trong huyện ủy đã chia nhau trở về một số làng và đã gây được cơ sở.

Vị trí của làng Mỹ Long Hưng như cái cổng đi vào vùng đất rộng lớn của Hòa Hảo, huyện ủy huyện Chợ Mới xét thấy cần phải có người trở về.

Qua nhiều cuộc hội nghị, bác thấy anh em đồng chí vẫn hãy còn ngại, thấy anh em ai ai cũng ít nhiều có sai lầm với bà con, bác tự thấy mình là người hiếu được người làng, mình là người hầu như không có điều gì sai trái với dân làng, cho nên bác đã xin về. Trước khi về, bác có gửi một lá thư cho lão Ịnh. Nhưng bác đã không ngờ.

Chú thích:

[1] pision infanterie colonial.