← Quay lại trang sách

Chương VI

Khi Sáu Sỏi gọi với theo lúc bị tên Bảy Thẹo bắt phải dừng lại, lão Ịnh vẫn không quay lưng lại, chân cứ bước thẳng, nhưng hai tai lão cứ nhanh nhách như muốn xoay hai cái loa tai ngược ra sau để hứng những lời gọi ấy: - Anh Tư! Hãy nhớ!...

Những lời nói của Sáu Sỏi vừa rồi như những hạt giống của chân lý gieo xuống mảnh đất lòng của lão, một mảnh đất tuy đang khô khan nhưng là một mảnh đất màu mỡ, tuy khó khăn, nhưng những hạt giống ấy cũng đã bắt đầu nảy mầm. Những lời nói của Sáu Sỏi khiến cho lão nhớ lại tất cả cuộc đời của mình, nhớ lại cuộc đời của Quản Dõng trước đây và nhớ lại những kỷ niệm bè bạn với Sáu Sỏi. Tất cả hình ảnh đó cùng hiện lên trong óc lão, khiến cho lão bắt đầu hoài nghi con đường đi của mình. Lão lẩm bẩm:

- Cao Hoài Đức! Cao Hoài Đức! Mình là Cao Hoài Đức chăng? Quản Dõng! Quản Dõng là Dư Hồng, Dư Triệu chăng...

Lão vừa hoài nghi nhưng cũng vừa cố bấu víu vào.

Dòng sông Cửu Long như tức tối một điều gì, mỗi lúc mỗi gầm thét to hơn. Gió ào ào trên tàng xoài, xua những đám mây đen tan đi; rồi những ngọn gió khác lại mang những mây đen khác ùn ùn trùm qua làng. Hoa xoài vẫn rơi trắng xuống. Lão Ịnh, tóc vẫn rủ, đầu vẫn cúi và vẫn đi chậm trong bóng tối của khu vườn.

Con đường theo kháng chiến, con đường theo đạo, hai con đường ấy đối với lão bây giờ như hai dòng sông trong đục đang chảy lẫn vào nhau, mà con mắt (theo lão là con mắt của người trần tục) không thể nào phân biệt được đâu là đen trắng.

- Ôi! Giá mà đầu óc của ta chỉ cứ biết tin tưởng vào đấng thiêng liêng, không còn biết suy nghĩ gì nữa như những tín đồ khác! Giá mà ta được như các vị thiên lôi chỉ có biết đánh theo lời truyền của trời Phật! Giá mà lòng dạ ta được lạnh như đồng với tất cả người thân, để ta được sung sướng khi giết được một người ngoại đạo như sung sướng được bước lên một nấc thang của cõi Niết bàn... - Lão lẩm bẩm và hoài nghi con đường đi của mình. Cái tình nghĩa người thân làm cho lương tâm lão giãy giụa lên những cơn đau đớn.

Tự dưng lão dừng lại, mắt vụt sáng lên và ngẩng nhìn những tàng xoài đang quằn lên quằn xuống trong cơn gió. Trong đầu lão vừa nảy ra một ý nghĩ lạ: lão sẽ về núi Cấm! Núi Cấm là một cái núi lớn nằm bên kia vùng hậu giang thuộc tỉnh Châu Đốc. Vì nghe theo tin đồn huyễn hoặc khi mới bước vào đạo, nên lão nghĩ núi Cấm là cái nơi của đất Phật. Nơi ấy, sau này sẽ nổ ra ba tiếng long trời lở đất, núi nổ ra nhiều cửa, từ trong lòng núi sẽ hiện lên một ngôi đài, rồi mở hội Long hoa, rồi các chư phật xuất thế trị vì.

Hiện giờ, ở núi Cấm đã có cái hang ăn vào cái ngôi đài ấy. Nếu ai được phước vào đó, khi trở ra nếu định mở miệng muốn nói với ai điều ấy thì sẽ bị câm ngay. Đó là hình phạt của nhà Phật. Do đó mà núi đặt tên là núi Cấm. Bây giờ, nếu ai được đến đó với lòng thành thì tâm hồn sẽ tan đi hết những nỗi ưu phiền. Nơi ấy có áng mây ngũ sắc, có dòng suối cam lồ, có đủ thứ chim muông biết ca hát, có những nàng tiên thỉnh thoảng chắp cánh về trần đi tắm suối. Trên những áng mây ngũ sắc đó có các chư tiên chư phật tọa trên đài sen phất trần nhìn cuộc thế. Nơi ấy có các nhà sắp đắc đạo, những vị ấy là những người truyền đi lời dạy của Đức Phật cho người đời. Chỉ có cái đất thần thánh thiêng liêng ấy mới chỉ cho người đời biết được đâu là tà chánh.

Nghĩ đến đây, lòng lão vừa nhẹ, nhưng cũng vừa se thắt lại. Lão thấy mình như sắp phải xa làng, xa nhà và xa con. Hơn nữa, núi Cấm đối với lão xa vời quá! Trong cái lúc hỗn độn này, làm sao đến được! Ý nghĩ ấy lại tắt dần trong trí lão.

Trong cái lúc tối tăm này, lão thấy cần có một người thân sáng suốt hơn mình, để chỉ cho mình những điều sai trái. Lão lần lượt nhớ đến bạn bè trong làng.

- À! Thằng Năm Bầu! - Lão thầm reo lên.

Ông Năm Bầu trước đây vốn là người ngang ngạnh. Cách đây hơn mười năm, có những ông thầy chùa đến xin xây chùa trong mảnh đất của ông, những người ấy nói với ông rằng:

- Chúng tôi thấy mảnh đất đó là mảnh đất lành dám xin ngài cho chúng tôi dựng lên ngôi chùa. Hàng năm, chúng tôi sẽ quyên tiền bá tánh đóng thuế cho ngài. Vậy, dám xin ngài vui lòng.

Miếng đất ấy là miếng đất sống của ông và vốn không thích họ, nên ông không bằng lòng. Những ông thầy chùa ấy lại cứ nằn nì và sau cùng thì nịnh bợ và ve vuốt ông:

- Trong mảnh đất đó, chúng tôi thấy có mồ mả tổ tiên của ngài. Nếu ngài nghĩ đến đấng Thích Ca Mô Ni mà cho chúng tôi xây lên ngôi chùa, thì đêm đêm chúng tôi sẽ cầu nguyện cho vong hồn ông bà tổ tiên của ngài được siêu thăng. Rồi, chúng tôi sẽ mở một con đường chạy thẳng tới gia thất của ngài, để chiều chiều ngài ra thăm tổ tiên ông bà!

Ông Năm Bầu ngồi lặng một lúc, rồi gật đầu ừ một tiếng và bảo:

- Được, nhưng các ông phải đắp con đường trước cho tôi ra thăm mồ mả ông bà rồi hãy xây chùa, có được không?

Những ông thầy chùa ấy chịu lời và chắp tay xá ông ta. Sau đó, họ đắp một con đường - vì có ba cây dừa mọc ở gần bờ đất nên con đường chạy thẳng đến đó phải cong hình cánh cung rồi mới chạy thẳng tiếp vào nhà ông. Sau khi họ đắp xong, ông kêu những ông thầy chùa ấy lại, ông chỉ cái khúc quẹo của con đường ấy, bảo họ với giọng lè nhè trong men rượu:

- Các ông! Người ta nói: đạo là đường, đường là đạo, mà đường không ngay thì đạo cái con cặc gì, hả? Thôi, các ông đi đi, đường mà đắp cũng không ngay thì tu với niệm cái gì?

Con người ngang ngược như thế mà sao cũng theo đạo Phật giáo Hòa Hảo? Chắc là ông ta cũng có thấy cái gì đó chứ! Rồi trong năm 40, Năm Bầu cũng xách gậy chạy theo anh em. Và sau đó, khi trong làng bị tan tác, người bị giết, người bị cầm tù, thì Quản Dõng đã cho người nhà đến nói thẳng với ông ta rằng: “Ông đã vô sổ bìa đen rồi. Vậy, ông định liệu cho ông như thế nào? Một trong hai lẽ: hoặc là làm giấy chịu giao đất cho cậu Hương quản, hai là bỏ vợ bỏ con để ra đi chết rục xương ngoài Côn Đảo?”. Ông Năm Bầu đành “kêu trời” giao đất cho hắn và cam chịu số phận làm tá điền cho hắn. Sau khi giao đất, ông lấy len đào sâu xuống mảnh đất mình một lỗ nhỏ, rồi thò tay xuống, móc lên một ít đất ướt cho đầy vào một cái nồi con. Ông cắm cây “Hoa nha” xuống nồi đất ấy và để nó bên đầu nằm để đêm ngày ghi nhớ lấy mối thù. Năm Bầu cũng có một mối thù với Quản Dõng như vậy, ấy thế mà sao bây giờ ông không chạy theo Sáu Sỏi mà lại chịu dưới quyền của Quản Dõng? Chắc là ông đã có thấy được cái gì rồi đấy chứ? Biết rằng, ông vẫn không thích cái tính hung hăng của thằng Chiến là con mình, nhưng tại vì sao trong lúc này ông không chạy theo kháng chiến mà vẫn còn ở lại đây? Vì sao?

Càng nghĩ đến ông Năm Bầu, lão Ịnh càng thấy người bạn thân của mình là người sáng suốt. Và lão càng hy vọng được ông Năm Bầu gỡ rối cho.

Lão vừa bới lại tóc vừa vội vã đi.

Cũng cùng trong lúc đó, ông Năm Bầu đang đi tìm lão và hai người sắp gặp nhau. Ông Năm Bầu lúc còn nhỏ, thân hình ông no tròn như trái bầu và cả con mắt cũng giống hình hạt bầu, (ông là người con thứ năm) nên hàng xóm gọi là thằng Bầu, thằng Năm Bầu. Vì thân hình ông cứ như thế mà phát triển từ ngực đến bụng - từ bụng đến mông cứ no tròn và thẳng đuồn đuột như trái bầu dài, nên cái tên Năm Bầu ấy vẫn còn lưu mãi cho đến ngày nay. Ông mặc chiếc áo bà ba màu già không gài khuy và chiếc quần tiều màu đen trước rốn có cái thắt to như quả cà. Ông cầm cây chĩa ba từ sau sân đình ra vườn xoài. Bất cứ đi đâu ông cũng cầm cây chĩa ba ấy, hễ gặp chuột thì ông đâm chuột, gặp rắn thì ông đâm rắn, gặp cá thì ông đâm cá để đem về làm món nhậu, vốn tính ông ngày nào cũng phải nhậu, thường thường là phải một xị thì mới ăn cơm được. Nhậu xong, nếu có bạn, ông đem chuyện đời ra bàn bạc. Ông thường hay dẫn tích các bộ truyện Tàu để ví chuyện đời nay và chửi xiên xéo bọn hống hách trong làng. Cũng vì cái tính đó mà ông thường gọi Chiến, con ông là thằng Lữ Bố, hữu dũng vô mưu, chẳng ra cái tích sự gì! Nếu không có bạn thì ông gật gù bên cây đàn cò (1) kéo lên những điệu nhạc buồn.

Ông cũng như bao nhiêu tín đồ khác, ông theo đạo với tất cả tấm lòng thành của mình. Nhưng theo đạo để đầu giặc giết lại người kháng chiến, thì ông thấy không phải. Ông nghĩ về cuộc đời theo sự hiểu biết của ông, chứ ông không nghe theo lời của Quản Dõng, mặc dù Quản Dõng là người hiện đang giữ chức trưởng ban trị sự. Vì theo ông, Phật không ở trong cửa miệng của Quản Dõng, mà ở trong tâm mình. Ông là người còn đủ lý trí để nhìn thấy bộ mặt của Quản Dõng. Trước đây, ông hiểu cái nghĩa “quỷ dương” là Tây, bây giờ ông lại hiểu rộng thêm ra nữa, quỷ dương cũng là bọn Việt gian đang đội lốt đạo, chui vào để đưa tín đồ theo con đường “tà đạo”. Quản Dõng là hạng người ấy. Ông còn ở lại làng là vì muốn gần gũi với thằng con, để lựa lời nhỏ to khuyên dạy nó.

Mấy đêm nay, ông không ngủ được, cứ lăn trở và trằn trọc vì cái âm mưu giết Sáu Sỏi của thằng Quản Dõng. Ông muốn giải thoát cho Sáu Sỏi, nhưng không tìm được cách nào. Có đêm ông muốn vượt qua bên kia sông để báo tin, nhưng chân vừa chấm đến bờ nước thì ông quay lại. Dòng sông to quá, ông không thể nào vượt nổi. Đi bằng xuồng bằng ghe thì tàu tuần của chúng sẽ thấy. Và nếu vắng mặt mà không có phép của ban trị sự thì lưỡi kiếm của họ không thể nào bỏ qua ông. Ông biết rằng: họ dòm ngó ông lâu rồi.

Nhưng không thể đành chịu bó tay ngồi nhìn cái chết của Sáu Sỏi. Nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng ông nghĩ đến lão Ịnh. Nghĩ rằng: lão Ịnh là bạn chí thân của Sáu Sỏi, là phó ban trị sự và lão Ịnh tuy là hăng hái với đạo nhưng lão chưa hề xuống tay giết một người nào, chắc là lão hãy còn lương tri? Nghĩ thế nên ông đánh bạo đi đến nhà lão Ịnh. Nghe Hiếu nói: lão Ịnh đang gặp Sáu Sỏi ở cụm xoài, ông khấp khởi mừng và vội cầm chĩa ba đi ngay.

Hai người gặp nhau ở giữa cụm xoài. Sau khi biết ý định của nhau thì hai người đứng đối diện với nhau và to tiếng cãi nhau.

Ông Năm Bầu không nén được cơn giận, ông cắm cây chĩa ba phập xuống đất, cán chĩa rung rung. Ông đưa tay kéo một mảnh áo vẹt lồng ngực ra, ngẩng mặt nhìn thẳng vào lão Ịnh và hỏi gằn từng tiếng:

- Sáu Sỏi qua bên này như là người đi sứ, mình là người quang minh chính đại thì tại sao lại giết người đi sứ hả?

Lão Ịnh đưa tay nắm lấy cây chĩa ba và nói:

- Anh Năm đừng nóng! Có phải tại nơi tôi đâu!

Lão Ịnh biết không thể nào khác được, nên cố giữ lấy ý kiến của ban trị sự, nhưng không nóng nảy, mà nhỏ nhẹ như van xin Năm Bầu hãy bằng lòng cho mình. Cách đấy năm hôm, trong một cuộc họp của ban trị sự, lão đã đưa lá thư của Sáu Sỏi ra hội nghị để bàn bạc. Sau khi xem xong, Quản Dõng liền vẫy tay xuống một cái và nói:

- Đúng là nó về do thám chứ không ai! Phải lấy đầu nó mà tế sống cho vong linh bổn đạo tín đồ! Cứ để cho nó về!

Rồi hắn nhìn quanh và hỏi:

- Ý của các vị như thế nào?

Ông Bảy Đẩu liền vỗ đùi một cái và kêu lên:

- Ý của anh Trưởng thật là thượng sách!

Chiến vung quả đấm lên và tiếp theo:

- Chuyện đó để cho tôi!

Lúc ấy, lão Ịnh không thể nào trái với ý họ được, nên cũng đành phải vuốt râu mà gật đầu.

Quản Dõng liền phân cho Chiến và Bảy Thẹo bố trí việc đón bắt Sáu Sỏi. Rồi hắn lần tay lẩm bẩm một lúc nói:

- Hai hôm nữa nó về, sau đó ba hôm thì nhằm ngày lành tháng tốt! Tôi đã tính rồi đó các vị ạ!

Nhớ đến đây, lão Ịnh nhìn Năm Bầu với đôi mắt u buồn và khe khẽ lắc đầu.

Ông Năm Bầu vẫn nhìn thẳng vào lão Ịnh, nói tiếp với một giọng to và sôi nổi:

- Từ cổ cho chí kim, anh có thấy vua nào, nước nào giết người đi sứ không? Anh Tư! Chắc là anh không quên cái thời Phiên Hán tranh nhau chứ? Khi Tô Vũ từ Hán sang Phiên để chịu hàng, nhà Phiên còn không giết Tô Vũ thay! Anh còn nhớ vua Phiên bắt Tô Vũ đi chăn một trăm con dê đực và nói: Chừng nào dê đẻ thì mới cho về chứ? Người ta có thù lắm thì cũng đày đọa người đi sứ đến như vậy là cùng! Huống chi là Sáu Sỏi! Là người cùng đồng bào với mình!

Ông dừng lại một chút, đưa mắt nhìn những hoa xoài rơi rụng rồi cắt nghĩa cái danh từ “đồng bào” theo sự hiểu biết của mình, ông tiếp:

- Sáu Sỏi với mình là người cùng đồng bào, anh Tư ạ! Đồng bào là gì? Đồng bào là đồng chung một bào thai, đồng chung dòng giống Lạc Long Quân, mà hễ là đồng bào thì phải đồng bạo, đồng bao và đồng bảo.

Ông Năm Bầu cắt nghĩa tiếp về những danh từ “đồng bạo, đồng bao, đồng bảo” ấy, ông nói:

- Đồng bạo, là người cùng nhau bạo động. Tôi với anh, với anh Sáu Sỏi, hồi ba mươi, bốn mươi đã cùng nhau đứng lên để bạo động đi đòi nước rồi. Mà hễ đồng bạc rồi thì phải đồng bao, đồng bảo chứ! Đồng bao đồng bảo là đồng bao che cho nhau, đồng bảo vệ cho nhau. - Ông vừa nói vừa đưa hai cánh tay vòng ra như ôm lấy một người nào trước mặt mình và hỏi tiếp - Sao bây giờ anh đành để cho anh Sáu bị nó giết, hả anh Tư? Cái lòng trung nghĩa khí của anh, anh bỏ nó đi đâu rồi anh Tư?

Nói xong, ông hếch mặt nhìn lão Ịnh với một vẻ thách thức. Lão Ịnh như bị dồn vào thế bí, tự dưng ông hơi lùi lại trước cặp mắt rực sáng của Năm Bầu, rồi đưa tay nắm lấy chòm rầu, ưỡn ngực ra và ngẩng đầu chống chế lại:

- Thôi anh Năm, đừng nói nữa, tôi nghe đủ rồi. Tôi với anh Sáu là bạn chí thân. Nhưng bây giờ... có phải là tại nơi tôi đâu mà đây là lệnh truyền của đạo.

- Đạo! Đạo mà ra lệnh tầm bậy như vậy à? - Ông Năm Bầu không chịu được nữa, ông rướn người tới và quát to lên.

Lão Ịnh nghe câu đó, trong người liền như có một ngọn lửa bất thần bùng cháy lên, rừng rực. Với dáng vẻ hung hãn, ông đưa ngực tràn tới trước, tay nắm chòm râu kéo qua vai, nghếch mặt và mở tròn mắt nhìn Năm Bầu, nói như hét:

- Anh nói đạo nào tầm bậy, hả?

Lão Ịnh nóng thì ông Năm Bầu thụt lại sau, nén giận và cố nhỏ giọng để làm lành:

- Anh Tư đừng nóng, để cho tôi nói. Tôi, - ông đưa tay chỉ cái búi tóc to sau ót mình và tiếp - đầu tôi còn đầu tóc, nhà tôi còn thờ trần điều, tôi không nói đạo mình tầm bậy đâu anh Tư. Nhưng tôi muốn nói cái người ra lệnh ấy là tầm bậy. Đạo mình thì không ai ra lệnh giết người đi sứ đâu! Chính cái người ra lệnh đó làm hư đạo mình. Nhưng, nhân hư chứ đạo bất hư anh Tư à! Người hư chứ đạo không thể nào hư được! Đạo mình bây giờ, người thì đông nhưng gạn lọc lại thì tín đồ không được là mấy đâu! Chắc là anh còn nhớ câu kinh câu sấm này: “Bây giờ bổn đạo thì đông - Nửa sau chở một xuồng vông không đầy!” Đấy, đấy! Đấy mới thật là kinh sấm của nhà Phật đó anh Tư! Tôi với anh đây mới thật là tín đồ. Còn thằng Chiến, con tôi, thằng Quản Dõng, tôi nghiệm ra rồi, nó không phải là tín đồ của mình đâu! Thằng Chiến! Anh Tư ơi! Tôi sanh ra nó mà không sanh được lòng dạ nó, tôi thật là có lỗi với anh em làng nước quá!

Qua những lời lẽ chí lý và dịu dàng của Năm Bầu, lão Ịnh nghe ai như rỏ nước xuống lồng ngực nóng rừng rực của mình. Lão lại đứng ủ rũ, đưa cặp mắt sầu não nhìn những chiếc lá xoài khô từ tàng rụng xuống như những cánh chim sa.

Dòng sông Cửu Long lại nổi lên những tiếng sóng trầm trầm.

Tự dưng, lão nghe trong lòng mình dâng lên một nỗi buồn. Lão càng hoài nghi con đường đi của mình hơn và ý nghĩ về núi Cấm liền trở lại với lão. Lão khe khẽ lắc đầu:

- Thôi! Anh Năm! Rồi đây, tôi sẽ về núi Cấm!

- Anh về núi Cấm à? - Ông Năm Bầu ngạc nhiên và kêu như vậy. Lão Ịnh xua tay, không nói rõ là về núi Cấm để làm gì, nhưng nghe qua ông Năm Bầu vẫn hiểu được. Ông liền đưa tay xua xua và can ngăn lại:

- Đừng đi, anh Tư, không được đâu. Anh chưa đến núi Cấm thì anh đã bỏ thây ở dọc đường rồi. Anh không biết thời này đang “loạn lạc” như thế nào à? Anh không biết đạo mình bây giờ đang bắt đầu chia ra nhiều phe phái sao anh Tư? Mà anh lên đó để làm gì mới được chứ? Đừng có nghe lời đồn huyễn hoặc mà bỏ mạng. Người ta đi lên đó nhiều rồi. Ở trên đó, ngoài những thằng thầy chùa ngậm xôi của chúng sanh thì không có ai nữa đâu. Nếu nói ở trên đó là có người truyền lời dạy của Phật thầy cho bá tánh, thì đây với đó có xa gì, những ngài đó sẽ biết mình đang lận đận, những ngài đó sẽ không nệ công mà đến mình đâu, cần gì mình phải đến! Đừng, anh Tư!

Ông Năm Bầu ngưng lại, nhìn cái vẻ mặt tối tăm và buồn thảm của lão Ịnh một lúc rồi tiếp:

- Anh Tư! Tôi vẫn biết anh là người trong ban trị sự, nhưng anh cho tôi mạn phép mà nói về cái ý nghĩa cao xa của đạo mình một chút. Mình là người tín đồ, mình phải biết cái nguồn gốc của đạo mình. Đạo mình đây chung quy lại cũng là đạo Phật mà thôi. Nhưng tại sao đạo mình không giống như các ông thầy chùa ngậm xôi? Đạo mình là cái đạo hiểu biết cái sâu xa của đức Phật. Hồi năm ba mươi chín, người đi truyền đạo mình vì giả khùng giả dại nên mới gọi là đạo khùng. Cho đến cái năm bốn mươi, sau những ngày “nước non ly loạn” tín đồ các nơi mới quy về cái làng Hòa Hảo mà dựng lên cái đạo của mình. Vì đạo lập lên ở làng Hòa Hảo nên gọi là đạo Phật giáo Hòa Hảo vậy thôi! Thật ra thì nguồn gốc của đạo mình cũng là nguồn gốc của đạo Phật, chứ có gì lạ đâu! Mà đấng thiêng liêng cao cả nhất trong trời đất này là ai? Có phải là đức phật Thích Ca Mô Ni không anh Tư? Mà Phật Thích Ca Mô Ni thì dạy cho bá tánh chúng sanh mình điều gì? Đức Thích Ca Mô Ni dạy cho mình là: “Phải xét đoán điều gì mình đã làm. Hễ thấy sai thì phải từ bỏ, hễ thấy đúng thì cứ như thế mà làm!” Đấy, lời dạy đó mới chính là lời dạy của Phật.

Ông Năm Bầu một tay rút cây chĩa ba lên, một tay vỗ vỗ vào trán mình và nói một lời cuối cùng:

- Con đường đi nó nằm ở trong cái đầu, cái óc của mình, anh Tư à!

Chú thích:

[1] Đàn cò: đàn nhị