← Quay lại trang sách

Chương VII

Sau khi tìm cách đuổi Hằng ra khỏi nhà, Hiếu đi lại nhà ông Năm Bầu. Anh thấy tội nghiệp cho Hằng. Nhưng biết làm thế nào được! “Con quỷ cái!” Anh lại rủa thầm. Mới đây mà nó đã quên anh Phát rồi! Hiếu đi qua sân đình.

Những người dượt võ đã ra về.

Ngôi đình trở nên vắng lạnh. Gió từ dòng sông thổi qua hàng dương, kéo lên một âm điệu trầm trầm, dai dẳng. Gió bứt những lá dương rơi rải xuống mặt đường.

Hiếu đi qua một đoạn đường vắng dài hơn năm trăm thước. Hai bên đường chỉ còn những cái nền tro xám, kèo cột bị cháy sém, vất vưởng, chơ vơ. Trước đây là xóm mộc, một cái xóm đóng bàn tủ nổi tiếng, chỗ cưa, chỗ bào, chỗ đóng, chỗ sơn, lúc nào cũng nhộn nhịp thầy thợ và khách hàng. Xóm mộc, họ cất những ngôi nhà rất đẹp, nhà họ sàn cao và vách ván, cửa màu xanh, vừa xinh vừa mát mắt. Hầu hết, họ là những người ngoại đạo. Chính vì thế, mà nhà của họ bị đốt. Mỗi lần đi ngang qua xóm, Hiếu đều thấy nhớ cái mùi gỗ mùi xăng, nhớ những bác thợ già, những người thợ đã cho anh nào củi vụn, dăm bào và hay nói với anh về lý lẽ ở đời. Những người thợ mộc ấy, rất yêu quý bác Sáu Sỏi. Nếu họ biết cha anh là người giết Sáu Sỏi, họ sẽ nghĩ về anh thế nào?

Hiếu nghĩ miên man, càng nghĩ, anh càng thấy mình mỗi lúc mỗi bị mất thêm những người thân, càng đơn độc. Khi Phát được lệnh chuyển về làm chính trị viên cho một đơn vị Vệ quốc đoàn, anh muốn bỏ làng đi theo Phát. Nhưng Phát đã bảo anh ở lại, giúp đỡ và giác ngộ bà con tín đồ, anh đã nghe Phát. Nhưng những ngày nay, anh đã thấy mình bất lực.

- Lần này thì tôi đi theo anh thôi, anh Phát ạ!

Hiếu nói thầm rồi rẽ vào con đường mòn xuyên qua vườn chuối um tùm.

Nhà của ông Năm Bầu nằm gọn trong vườn chuối, cạnh bên con kinh nhỏ chạy qua cánh đồng. Từ ngày mất đất, nhà của ông mỗi ngày mỗi thu nhỏ lại, lụp xụp, tùm hum như cái tum đâm cá. Nhà chỉ đủ chỗ để một bộ phản - vừa là chỗ ngủ cho hai người đàn ông, vừa là chỗ ăn, vừa là chỗ tiếp khách - cái buồng nhỏ cho đứa con gái và chỗ để bàn thờ ông bà ông vải.

Hiếu đi lại nhà ông Năm Bầu như người nhà. Nhưng hôm nay, vừa nghe tiếng chày giã gạo của Lành thì anh thấy hồi hộp như đã đi đâu từ lâu lắm. Có nên nói thật với Lành không? Anh đắn đo và lòng se thắt lại. Anh ngập ngừng, đi chầm chậm. Tiếng lá rụng xạc xào.

Lành đang giã gạo ở giữa sân dưới bóng cây vú sữa và cây trứng cá. Lành độ hai mươi mốt tuổi. Lành không có một vẻ đẹp gì đặc sắc, nhưng dễ thương. Gương mặt của Lành hơi tròn đầy đặn và cặp chân mày thưa với một vẻ đôn hậu, đôi mắt hơi to mà âm thần và phảng phất một tâm hồn dịu dàng. Lành có một vẻ đẹp giản dị và khỏe mạnh. Lành mặc bộ quần áo đen bạc màu, áo có những đốm vá ở vai và cùi chỏ. Nghe tiếng động, Lành gác chày lên cối, kéo khăn lau mồ hôi, nghiêng tai nghe ngóng.

- Anh Hiếu! Anh mà em tưởng là ai? - Giọng của Lành nhỏ nhẹ, dễ thương.

- Có ai ở nhà không em?

- Ba đi tìm ba anh từ nãy giờ rồi. Anh không gặp à?

- Còn anh Chiến?

- Anh Chiến ảnh đi đâu, em làm gì mà biết được.

Mỗi lần nhắc đến tên Chiến thì giọng của Lành đượm một nỗi buồn trách.

Hiếu bước đến cối gạo, đưa tay nắm lấy một nắm, nhìn, rồi để gạo rơi lọt xuống kẽ tay.

- Anh đi đâu mà mồ hôi đầm đìa vậy?

Lành kéo chiếc khăn bàn trắng đang đội trên đầu, đưa cho Hiếu. Hiếu cầm lấy, lau mặt. Lành đứng dáng nghiêng nghiêng, nhìn Hiếu, miệng tủm tỉm cười. Đôi mắt âm thầm của Lành phảng phất một nỗi buồn. Mấy ngày hôm nay, Lành thấy Hiếu thay đổi nhiều. Mặt Hiếu hốc hác, mắt thâm quầng. Đôi mắt của Hiếu lúc nào cũng u uất và giận dữ. Người Hiếu lúc nào cũng băn khoăn và bối rối. Hiếu đi đâu, Lành cũng lo sợ. Lúc nào, Lành cũng mong Hiếu trở về. Lành muốn hỏi Hiếu một câu, nhưng nghĩ mình là phận gái, nên lại thôi. Chỉ nhìn qua anh ấy cũng đủ hiểu rồi, cần gì phải hỏi. Anh ấy và cha mình muốn giải thoát cho bác Sáu Sỏi. Rồi, việc gì sẽ xảy ra? Lành nhìn khắp người Hiếu với vẻ âu yếm và tò mò. Hiếu lấy khăn lau mặt. Chiếc khăn ủ lấy mùi mồ hôi, mùi tóc quen thuộc của Lành, gây cho anh một cảm giác ngây ngây, anh hít một hơi dài và muốn áp mãi chiếc khăn vào mặt mình. Những ý nghĩ đã bốc lửa trong người anh như nguôi dần. Thế là anh như quên tất cả những lời định nói. Anh không còn đủ can đảm nhìn thấy vẻ đau khổ của Lành, anh không muốn cho Lành phải nghe những việc sẽ xảy ra: anh sẽ bỏ làng ra đi, anh sẽ lao vào cái chết. Anh muốn sống một cuộc sống bình thường. Anh muốn quên đi tất cả những điều đang xảy ra: chém giết, máu đổ, lửa cháy và tiếng kêu khóc. Anh muốn gần gũi bên người yêu, cùng nhau lo làm ăn, anh muốn được vuốt ve, muốn được nhìn một cách âu yếm, muốn nghe những tiếng nói dịu dàng.

Nghe hơi thở của Hiếu trong chiếc khăn, Lành có cảm giác như Hiếu đang hôn mình. Lành đỏ mặt, thẹn, quay mặt đi.

- Làm gì mà lau mãi vậy? Trả khăn lại cho em đi anh - Giọng của Lành nũng nịu, dễ yêu.

Hiếu trao khăn lại cho Lành, anh cũng thấy thẹn, anh cười:

- Em đi lấy chày cho anh giã với!

- Thôi, anh nghỉ đi. Ừ! Anh với em giã chày đôi nhé!

Được cùng làm với nhau, Lành vui lên như một đứa trẻ. Lành ném chiếc khăn lên vai Hiếu.

- Cho anh đấy! Em không thèm đâu! - Lành ù chạy vào nhà, suýt va đầu vào góc bàn thờ.

Lành mang ra thêm hai cái chày, một cái to, một cái nhỏ để cạnh bên cối:

- Đó! Anh muốn giã chày nào? - Lành ngẩng nhìn Hiếu, mắt lấp lánh một niềm vui. Đã lâu lắm rồi, Lành mới được trở lại một cuộc sống bình thường cùng nhau giã gạo chày đôi. Lâu nay, làm gì, Lành cũng thui thủi một mình như con cuốc.

Hiếu chọn lấy cái chày to nhất, lâu ngày không ai giã đến chày ấy, nó đã lên mốc ở hai đầu.

Lành nhón chân, với tay, bẻ lấy một cành lá vú sữa, rồi hai người, cùng lau lại đầu chày, mỗi người lau lấy một đầu.

Cối gạo ở giữa, hai người đứng hai bên, đối mặt nhau, chân trái đứng trước, chân phải đứng sau, tay trái nắm gần đuôi cán, tay phải đưa thẳng nắm ở gần đầu chày. Lành cất chày lên khỏi đầu:

- Em xuống trước, đừng có giã vào đầu em đấy nhé! - Lành liếc nhìn Hiếu với đôi mắt tinh nghịch.

Hiếu vừa gõ nhịp “cum”, rút chày ra khỏi thì đầu chày của Lành nện xuống “phụp”. Đầu chày của Lành lách sang bên, gõ nhịp, vừa rút ra thì đầu chày của Hiếu nện xuống “phụp”. Đầu chày của hai người cái lên, cái xuống thật đều tay.

... Phụp, cùm, phụp, cum, phụp, cùm, phụp, cum...

Tiếng giã, tiếng nhịp, đều đều vang đi trong nắng xế, dội xuống lòng kinh và vang xa. Đàn gà nằm rúc dưới bóng cây, nghe tiếng giã gạo, kéo nhau chạy túa ra, rối rít quanh cối gạo, giành nhau những hạt gạo rơi. Một bầy gà to nhỏ có hơn ba mươi con. Một bầy gà con, lông tơ màu trắng vàng phơn phớt. Một bầy gà giò, năm ba con gà trống mái. Đám gà giò đứng xa, giương cổ, đầu nghiêng nghiêng, mắt lấp lánh, nhìn đầu này đầu nọ, hễ có một hạt bắn ra, là năm ba con chạy đến, giành nhau, mổ vào đầu vào lưng nhau, mổ chộp lấy hạt gạo rơi, rồi chạy bắn ra ngoài. Còn đám gà con, như những đứa trẻ tinh nghịch không biết sợ đòn, chúng chạy rốỉ lên, chạy thẳng đến cái nia để quanh cối, mổ lia mổ lịa, khi nghe một tiếng suỵt thì túa chạy ra, thập thò một lúc, rồi lại chạy vào, mổ lia mổ lịa trên cái nia.

Con gà mái bông xám, hễ mỗi lần giành được một hạt gạo là túc lên, vừa túc vừa mổ lia mổ lịa chung quanh miếng mồi. Con gà trống được mồi, cũng túc. Khi gà mái chạy đến, mổ lấy mồi thì nó dè một bên cánh, nghiêng mình, chạy rè rè theo con mái.

Thấy cái cảnh rối rít của đàn gà, được sống lại một cuộc sống bình thường, Hiếu thấy vui vui. Vui tay, anh giã chệch qua một bên cho một ít gạo bắn xa ra cho đàn gà.

- Kìa! Văng gạo hết anh! Anh mệt rồi à?

Hiếu cười. Đã lâu lắm rồi, chẳng biết từ lúc nào, hình như hơn một hai tháng nay, Lành không thấy được cái nụ cười ấy của Hiếu. Chẳng biết, có lúc nào anh ấy vui không, Lành chẳng hiểu. Mỗi lần thấy anh đến nhà, Lành đều thấy vẻ mặt của anh khi thì héo hắt, khi thì thờ thẫn. Anh ngồi bên bộ phản được một lúc, như muốn nói gì, khi nghe tiếng chân của Chiến thì vội vã ra về. Cái bóng ảm đạm trên vẻ mặt của anh như tan đi trong nụ cười của anh. Đôi mắt của anh trở nên trong trẻo, lấp lánh, tỏa sáng cả gương mặt của anh. Lành thấy vui lây, Lành nghĩ mọi việc của Hiếu chắc là đã được yên ổn. Lành thấy yên tâm hơn, Lành càng giã mạnh và đều tay.

- Nghỉ một chút đi anh.

Họ ngừng chày, Lành vốc lên một nắm gạo, thổi. Cám bay lờ mờ trước mặt Lành.

- Trắng rồi anh ạ!

- Nhà có còn gạo không em?

- Còn chừng hai cối.

- Đem ra giã hết đi em!

- Giã nữa, anh nhé!

Hiếu giúp Lành nghiêng cối, đùa gạo vào thúng. Xong, họ bắt đầu giã thêm cối thứ hai.

... Phụp, cùm, phụp, cum, phụp, cùm, phụp, cum... Tiếng giã, tiếng nhịp, lại đều đều vang đi, dội xuống lòng kinh và vang xa.

Những con chim đứng rúc cổ trong các chòm cây, nghe tiếng động, cũng bay đi, xập xòe trên tàng cây trứng cá, như ganh với đàn gà quanh cối gạo, nó kêu chiu chít.

Ông Năm Bầu từ vườn xoài nhà Quản Dõng trở về, cây chĩa ba gác lên vai, tiếng lá xào xạc dưới bước chân. Trước mắt ông cứ hiện lên những hình ảnh của Sáu Sỏi. Sáu Sỏi đang xách bộ đồ hớt tóc, lê la qua các xóm nhà. Sáu Sỏi vừa cắt tóc vừa nói chuyện “quốc sự”. Trong những cuộc họp kín, Sáu Sỏi đầu bịt khăn khất, ngồi giữa, nói với mọi người với một giọng sôi nổi và chân thành. Sáu Sỏi, hai tay bị trói ngoặc ra sau, ngực bầm tím, áo tả tơi, đi giữa hai hàng súng cắm lưỡi lê của bọn lính khố đỏ. Sáu Sỏi trở về, đầu đội bê rê, tóc lún phún và đã ngả màu muối tiêu. Rồi cái chết của Sáu Sỏi lại hiện lên: tay bị trói vào cây, đầu rơi xuống, còn dính lại một ít da, nhùng nhằng một bên người, máu từ cổ phọt lên... Ông nhớ đến cái chết của người khác mà nghĩ đến cái chết của Sáu Sỏi. Ông khẽ rùng mình. Tội nghiệp thằng Phát, thằng nhỏ mồ côi! Chỉ còn có hai cha con. Ông thấy mình bất lực, tự giận lấy mình và bực bội trong người. Những lúc như thế này, ông lại thấy thèm rượu. Uống! Ông muốn uống cho say mèm, để có cớ mà không đi ra pháp trường nhìn cái chết của Sáu Sỏi. Thật là ngao ngán!

Ông đến cái đường mương to nước đã lên đầy - hết cái ranh giới vườn xoài nhà Quản Dõng - phía bên kia là vườn chuối của nhà ông. Ông phóng cây chĩa phập sâu vào bờ mương bên kia, rồi nhảy qua.

Mặt trời đã ngả xế rồi. Ánh nắng xiên qua vườn chuối từng vệt dài.

Ông ngồi xuống bờ ruộng, lướt mắt nhìn dòng nước tìm cá. Ông định quay về. Bỗng chợt, ông nghe tiếng chày giã gạo ở phía nhà vang lại. Tiếng giã chày đôi.

Phụp, cùm, phụp, cum, phụp, cùm, phụp, cum... Tiếng chày nghe thật bình tĩnh và đều tay. Ông biết là tiếng chày của “hai đứa”.

Như một người đang lao mình trong cuộc chiến đấu dữ dội, chung quanh là cảnh chết chóc, tiếng đạn réo qua tai, mùi thuốc súng khét, mịt mù, cái chết đang sầm sập tràn đến như một bóng đen, đầu óc căng thẳng; trong một khoảnh khắc im lặng của chiến trường, người lính bỗng chợt nghe tiếng gà gáy ở phía xa.

Tiếng giã gạo chày đôi như gợi lại cho ông một cuộc sống thanh bình - ông không muốn quay về, sợ mất đi tiếng chày giã gạo.

Tiếng chày giã gạo vang đi, như phá vỡ từng mảng cái không khí chết lặng đang đè nặng xuống xóm làng. Đã lâu lắm rồi, người ta bỏ tất cả công ăn việc làm, như quên cả việc giã gạo, rủ nhau giã vần công, họ mải lao vào cuộc chém giết như những con thiêu thân lao vào lửa. Tiếng chày đôi giã gạo vang đi, như gọi những người đang lao vào cuộc chém giết vô lý hãy trở về với cuộc sống thanh bình.

Ông Năm Bầu ngả lưng vào bụi chuối, mắt lim dim.

Phụp, cùm, phụp, cum... tiếng chày nghe bình tĩnh và đều đều. Tiếng chày giã gạo gợi cho ông nhớ lại cuộc sống bình thường của mọi người. Những đêm trăng. Trên những sân nhà rộng, trai gái rủ nhau giã gạo chày đôi, giã gạo chày ba, giã gạo chày tư.

Ở đầu xóm gần chợ, có một cái nhà máy xát gạo nằm cạnh bờ sông. Đêm nào, đèn cũng sáng rực như một chòm sao. Máy chạy rì rầm suốt đêm. Dưới bến, xuồng ghe tấp nập. Thỉnh thoảng, chợt lên một hồi còi đổi ca. Nhà máy xát gạo nằm ngay đầu xóm, nhưng dân xóm ở đây vẫn giã gạo bằng tay. Cái cảnh giã gạo đêm đã thành là một cuộc họp, một cuộc vui của trai gái trong làng. Những cô thợ dệt nước da trắng mịn, tóc xõa dài, tay dịu dàng, những cô gái có dáng điệu tha thướt ấy, hễ nghe tiếng chày là rời ngay khỏi khung cửi, rủ nhau, tìm nhau, chia nhau, ngồi quanh một cối gạo trước sân nhà. Những anh thợ mộc trẻ, những chàng trai con ông con chú, cũng rủ nhau đi giã gạo chày ba.

Trong xóm, không có chỗ chơi, không có phòng họp, không có rạp hát, không có sàn múa, trai gái họ tìm nhau quanh cối gạo. Họ bắt cặp và giã thi với nhau. Và từ đấy, nảy nở ra những cuộc tình duyên. Ngày xưa, lúc còn trẻ, đêm đêm, hễ nghe tiếng chày giã gạo là lòng ông rộn lên. Ông bỏ tất cả việc nhà, chạy đi tất cả các cối gạo trong xóm, để tìm một cô gái. Cô gái ấy, tính thật trớ trêu. Chẳng bao giờ cô ấy giã gạo trong một cái cối nhất định ở sân nhà nào. Mỗi đêm, cô mang gạo đến mỗi cối khác, ở mỗi sân nhà khác nhau. Nhưng tính ông cũng chẳng vừa. Hễ nghe tiếng chày của cô ấy thì ông biết rồi, chẳng bao giờ nhầm lẫn. Tiếng chày của cô ấy nghe rất khác thường, rất lạ và rất hay. Hình như cô gái ấy cũng muốn giã một cách khác thường để gọi đến tên ông. Cô nhịp một lần ba tiếng: cụp, cắc, cụp... rồi mới nện xuống “phùm”. Cho đến khi thành vợ thành chồng, hai người vẫn còn thích giã gạo chày đôi...

Giờ đây, nghe tiếng giã gạo chày đôi, ông lại nghĩ đến cuộc tình duyên của hai đứa. Thật ra thì Hiếu và Lành không phải yêu nhau vì “cái cối gạo”. Họ yêu nhau với một hoàn cảnh khác. Lúc lão Ịnh bỏ làng ra đi, Hiếu về ở với nhà ông. Năm ấy, Hiếu mười bảy tuổi, Lành mười lăm tuổi. Ba năm sau, hai đứa chớm yêu nhau trong một mùa nước lũ.

Ở đây, những làng nằm dọc theo bờ sông Cửu Long, người ta có câu: “Tháng bảy nước nhảy lên bờ”. Mỗi năm, sau những ngày mưa ròng rã, mưa sướt mướt, dòng sông Cửu Long mỗi lúc mỗi dâng lên. Nước từ nguồn đổ xuống, mang theo chất phù sa, ngầu đục, mang theo củi riều, cuồn cuộn chảy qua làng. Khi tháng bảy đến thì nước dàng lên tràn về. Nước không dâng lên một cách bất ngờ, hay hung hãn dữ dội như bão lụt, mà dâng lên một cách hiền từ, năm nào cũng vậy, đã thành như một thói quen của dòng sông. Nước tràn lên bờ, tràn qua những con đường xe, chảy qua các sàn nhà, tràn ngập cả cánh đồng. Tất cả các con đường làng đều biến thành kinh rạch. Ô tô, xe ngựa ngưng chạy. Người ta đi lại bằng xuồng. Nhà cửa trong xóm, những ngôi nhà to nhỏ cao thấp ẩn hiện trong vườn cây xanh, trông như những ngôi nhà xây trên bè và lúc nào cũng như đang bập bềnh trên mặt nước. Những giống lúa chịu nước như nàng tây, nàng rừng, nha sáp, thâm đưng, bông bói... những giống lúa không đòi hỏi con người phải nhọc nhằn nhiều về việc cấy dày, cấy thưa, mà chỉ cần gieo xuống đó, rồi những ngày nước lũ này, lúa sẽ cao lên cùng với mặt nước. Nước mang phù sa về bồi đắp cho đồng ruộng, bờ bãi và tắm mát cho lúa. Và nước mang cá về. Cá he, cá chày, cá lòng tong, cá sặc, cá lóc... hàng đàn, hàng bầy, kéo nhau về đồng. Mùa nước, dân cư ở đây xoay qua mùa cá, đặt nò, đặt lọp, kéo xịp... (đất nhà ai nấy làm. Đất thuộc của ai thì phải đóng thuế). Cá ăn không hết, người ta đem muối làm khô làm mắm dành cho mùa khô. Những người có ăn thì lấy việc đi câu làm thú vui. Họ ngồi trên sàn nhà, buông câu xuống sân nhà, họ chòng những chiếc xuồng con cặp vào các bóng cây.

Ông Năm Bầu thì đặt lọp và xây tum đâm cá bông.

Mỗi năm, Chiến và Lành, hai anh em thường đi đổ lọp. Năm ấy có Hiếu, nhà có thêm người, ông che thêm một cái tum cho Chiến, còn việc đổ lọp thì để cho “hai đứa nhỏ”. Một đêm, thấy trời sắp đổ mưa, ông gọi Hiếu và Lành, bảo hai đứa ra đồng đổ lọp. Năm ấy, hai đứa đã thấy thích khi được đi làm chung với nhau. Hai đứa cùng vâng lời một cách sốt sắng.

Hai đứa xô xuồng ra đi. Hiếu đứng sau lái, chống xuồng bằng cây sào. Lành ngồi trước mũi, cầm dầm vừa bơi vừa rà đường. Một đám mây che mất tất cả các vì sao. Nước ngập đầy đồng, mênh mông như biển cả. Xuồng lướt rào rào qua ngọn lúa. Gió thổi rạp đầu ngọn lúa, lào xào lào xào như tiếng tằm ăn dâu trong một cái nia khổng lồ.

Xuồng ra xa. Gió mỗi lúc mỗi to. Gió thổi đám mây dạt về một chân trời, để hé ra một vài vì sao. Gió lại đưa một đám mây khác kéo đến. Mặt nước bắt đầu gợn sóng, đánh róc rách vào mạn xuồng. Lúa lào xào mỗi lúc mỗi to, nghe như một cơn dông ở từ xa.

Mây khói đèn mỗi lúc mỗi đùn đến, đen đặc.

- Trời sắp mưa rồi! Em quên mang theo áo lá! Anh có thấy lạnh không, anh Hiếu? Lấy khăn em đây mà quấn cổ. - Giọng của Lành đượm vẻ lo lắng.

Lành quay lại, tháo chiếc khăn bàn lông, đưa cho Hiếu.

- Anh không lạnh đâu. Cây vông đồng kia, sắp đến nơi rồi. Thế nào về cũng kịp. Đêm nay, cá chắc là đầy khoang! - Hiếu ho một tiếng.

- Đêm nay, anh làm gì mà ho dữ vậy. Khăn đây nè!

- Em quấn cổ đi, anh không lạnh đâu!

- Không lạnh mà cứ ho suốt cả đêm - Giọng của Lành đượm vẻ trách móc - Sao không gài nút cổ lại!

Hiếu thấy hơi lạnh, anh đưa tay gài lấy nút cổ.

Gió đã thổi mạnh. Gió thổi xuồng dạt ngang. Lành phải lấy dầm chống qua bên trái tiếp Hiếu, giữ cho xuồng đi thẳng. Ngọn lúa ngã rạp. Mặt nước gợn lên những đợt sóng dài. Gió mỗi lúc mỗi to. Gió nổi ù ù. Mây trời vần vũ.

- Dông rồi! - Lành kêu lên. Mũi xuồng bị gió thổi dạt đi. Lành ngồi nghiêng qua một bên, đem hết sức, chống dầm, đẩy mũi xuồng trở lại.

- Sắp đến nơi rồi! - Hiếu kêu to.

Hiếu vừa khom người, chống sào, vừa giương to mắt tìm đám ruộng của mình - Hàng trâm bầu lờ mờ kia!

- Đến nơi rồi!

- Hả?

Gió cuốn cả tiếng nói của Hiếu bay đi, Lành không nghe.

- Ruộng mình đây này! - Hiếu nói thét lên.

Lành cho dầm lại trước mũi, chống dầm lại trước mũi, giữ xuồng lại, đưa tay sờ lúa, biết là cộng lúa nàng tây của ruộng mình.

Gió mỗi lúc mỗi to, chạy rào rào qua hàng trâm bầu, ào ào trên tàng vông. Gió cuốn những chiếc lá khô rãi vào khoang xuồng, đánh lên.những tiếng “lạch khạch”.

- Em giữ xuồng nhé! - Hiếu vừa bảo vừa cởi áo, cởi quần dài bước xuống nước. Nước ngập đến thắt lưng anh. Lành ngồi trên xuồng. Hiếu nắm mũi xuồng, kéo xuồng đi tìm lọp.

Anh giở lên một chiếc lọp đầu tiên. Chiếc lọp đầy cá. Hai cái bóng đen lờ mờ, họ chỉ nhìn rõ ánh mắt của nhau. Lành giúp Hiếu một tay đưa lọp lên xuồng. Lành giở miệng lọp, trút cá vào khoang. Cá sặc chạy rộ trong khoang xuồng. Hiếu kéo xuồng tìm cái thứ hai, thứ ba, thứ tư..., khoang xuồng đã đầy cá.

- Về đi anh! Lên xuồng đi, mặc áo vào, trời sắp mưa rồi.

Trời bắt đầu đổ mưa.

Xuồng về, vừa ra khỏi mảnh ruộng nhà thì gặp một con trốt. Con trốt xoáy theo một cột nước, quây tròn trên mặt lúa, từ xa xoáy đến, ù ù.

- Ông trốt! Ông trốt, anh Hiếu ơi! - Lành sợ quá, thét lên.

- Mạnh tay lên em! - Hiếu lấy hết sức chống sào, cố đưa chiếc xuồng ra khỏi đường đi của cơn lốc. Nhưng không kịp, con trốt đã xoáy tới.

Con trốt xoáy chiếc xuồng quay tròn trên mặt nước.

- Anh ơi! - Lành kêu lên.

Lành bị sút tay dầm, ngã xuống nước. Hiếu đứng loạng choạng, thấy đứng không yên, anh nhảy nhanh xuống giữ lấy xuồng.

- Lành ơi!

- Em đây!

- Có sao không em?

- Em ướt hết rồi!

Con trốt đã xoáy đi, họ nhìn nhau thấy vui vui.

Nước đã tràn vào, xâm xấp trong khoang xuồng. Ván đậy khoang nổi lềnh bềnh. Cá chạy trong khoang, tìm đường và nhảy vọt ra.

- May quá! Xuồng chưa chìm!

- Đỡ lấy xuồng đi em!

Hai người hai đầu, lấy tay đỡ lấy xuồng.

- Làm sao bây giờ, anh? Trời sắp đổ mưa nữa rồi!

- Cho xuồng vào gò, tát cho khô hẳn rồi về.

- Vào gò nào bây giờ anh?

- Đem lại cây vông.

- Trời tối quá! - Giọng của Lành bỗng lịm xuống.

Họ vừa đưa xuồng đến gò dưới gốc cây vông thì trời đổ mưa. Họ đẩy xuồng lên gò, tát đi một ít nước rồi ngồi dựa vào gốc vông trú mưa. Hai người ngồi gần bên nhau. Mưa như trút nước. Nền trời mây khói đen dày đặc. Cánh đồng như một cái biển sẫm sì. Giọt mưa rơi xuống mặt nước, bắn lên những tia nước mùa mù. Tiếng sấm nổ rền rền.

Gió ào ào trong vườn cây, gió uốn quằn tàng vông trên đầu Lành. Lành không thấy, nhưng Lành nghe tiếng lá bị cuốn, tơi tả bay đi. Gió cuốn mưa quất rát mặt Lành. Lành không nhìn thấy mặt nước mênh mông của cánh đồng, nhưng Lành nghe cánh đồng đang nổi sóng, tiếng sóng đập tràn lên gò. Có những năm nước lớn, nước ngập cả cái gò cây vông sau một vài cơn mưa. Nghe tiếng sóng, Lành như thấy mặt nước mỗi lúc mỗi dâng cao, đang tràn lên gò. Lành thấy lạnh. Một cơn gió bỗng rít qua. Lành rùng mình. Lành như vô ý nép lưng vào ngực Hiếu, run run:

- Anh ơi! Em sợ quá!

- Đừng sợ! Có anh!

Lành nghe bàn tay ấm áp của Hiếu đặt lên vai mình. Tự dưng Lành như giật mình, hốt hoảng. Nhưng Lành thấy sợ đêm tối hơn. Lành sợ tiếng sấm, Lành sợ những ánh chớp lằng nhằng trên nền trời, Lành sợ những đợt sóng hung dữ của cánh đồng. Lành sợ tiếng gió, Lành không muốn rời khỏi người Hiếu.

- Anh ơi! Em sợ lắm!

- Đừng sợ, có anh!

Lại một cơn gió rít qua, Lành ép lưng sát vào ngực Hiếu. Hiếu kéo Lành sát vào người. Lành đã nằm vào lòng Hiếu. Một luồng mưa to ào đến; Hiếu khom người áp lên ngực Lành, như muốn che mưa che gió cho Lành. Lành thấy mình như bị lả đi. Lành nằm im, nhắm nghiền mắt. Lành không thấy mưa, không thấy ánh chớp chạy lằng nhằng, không nghe tiếng sóng, cũng không tiếng gió... Lành không biết sợ cái gì nữa. Lành như đang sống trong một thế giới khác...

Sau đó ít lâu, lão Ịnh từ làng Hòa Hảo trở về. Hiếu phải theo lệnh cha, đi lên làng Hòa Hảo học võ.

Khi Hiếu trở về, lão Ịnh đã tự mình đến nhà ông Năm Bầu hỏi Lành cho Hiếu. Ông Năm Bầu không thể hiểu được rõ ràng những chuyện đó, nhưng ông biết là “hai đứa” nó yêu nhau. Năm nay, Lành đã hai mươi mốt, Hiếu đã hai mươi ba. Tội nghiệp hai đứa! Ông Năm Bầu nghĩ thầm. Đáng lý ra thì năm nay, ông cho hai đứa nó làm đám cưới. Mỗi năm, mùa mưa đến là mùa đi ăn đám nói. Người ta dạm hỏi cho con cái của nhau. Rồi mỗi năm khi đến mùa nước xuống, khi có gió bấc thổi về thì đến mùa cưới. Năm nay, trong làng, ông không nghe ai bàn đến việc cưới hỏi bao giờ. Con người, như không cần phải yêu nhau nữa.

Ông thấy ngao ngán và thở một hơi dài.

Tàu lá quật quờ như phẩy gió cho ông.

Phụp cùm, phụp cum, phụp cùm, phụp cum... Tiếng chày giã gạo của hai đứa vẫn vang đến, bĩnh tĩnh, đều đặn và nhịp nhàng. Bây giờ, ông lại muốn nghe tiếng giã gạo chày ba, cái tiếng chày giã gạo quen thuộc của nhà ông. Tiếng chày của Lành, tiếng chày của Hiếu, và tiếng chày của Chiến, thằng con lớn của ông. Nghe mất một tiếng chày, ông thấy như nhà ông đã bị mất đi một người. Lâu nay, Chiến không phải là thằng Chiến của ông ngày xưa nữa. Nó đã thành là người của kẻ khác rồi. Mỗi lần nghĩ đến Chiến là nỗi đau khổ lại quặn lên trong người ông. Mẹ nó hiền từ, cha nó như thế này, mà sao nó lại như thế? Mỗi lần nghĩ đến con, ông đều tự hỏi mình như vậy. Năm nay, nó cùng một tuổi với Hiếu. Hồi còn nhỏ, nó là một đứa con ngoan, hiền từ, ít nói, suốt ngày cứ quần quật với công việc làm ăn, biết yêu mẹ và kính cha. Bây giờ thì... Mỗi lần nghĩ đến Chiến là ông thường hay chợt nhớ những hình ảnh của vợ. Vợ ông, lúc còn con gái thì tinh nghịch, làm nghiêng ngả không biết bao nhiêu người con ông cháu cha, đối với ông thì cô ta như một con ngựa chứng - thời ấy, những lúc giận nhau thì ông hay chửi thầm như vậy - nhưng khi về nhà chồng, thì một lòng phụng sự cho chồng.

Cuộc đời của ông nghèo, nhưng ấm áp. Nhưng người đàn bà hiền từ ấy không cùng với ông đi đến trọn đời. Vợ ông bị mắc bệnh lao hạch ở cuối cổ bên trái gần yết hầu. Lúc đầu nó như cái mụn nhọt, nó vỡ ra, mủ cứ chảy ra và mỗi ngày mỗi khuyết sâu vào. Năm ấy, lại nhằm cái năm ông bị cướp đất. Nhà có gì, ông bán hết. Ông đưa vợ đi khắp các thầy thuốc ở làng, thầy thuốc ta, thầy thuốc Tây, thầy thuốc Tàu. Bệnh tình của vợ ông cũng không giảm, bao nhiêu xương xóc đều lòi ra, không nằm giường được, suốt ngày suốt đêm nằm trên võng, trong căn buồng tối. Ông lại đưa đi lên huyện, lên tỉnh. Khốn nỗi cho người đàn bà yêu con, đi vắng nhà mới có mấy ngày là cứ nằng nặc đòi về nhìn mặt con. Chiến và Lành phải bỏ công ăn việc làm, thay phiên nhau đi thăm mẹ, để mẹ được yên lòng. Vợ ông mỗi ngày mỗi xanh xao, người lép xuống như một con khô mực, mắt lờ đờ như mắt cá chết. Hết tiền, hết gạo, ông lại đưa vợ về. Vợ ông, từ lâu đã chịu lây cái tính “ngỗ nghịch” của chồng, chẳng hề biết tin dị đoan như những người đàn bà khác. Nhưng đến cái lúc ấy, vợ ông lại muốn đi cúng chùa, muốn xem bói. Vì thương vợ, ông cũng chiều theo. Lúc ấy, ở làng có một ông thầy bói già, thường mặc quần áo đen và mang kính trắng. Sau này, người ta được biết, người thầy bói ấy là người của đạo Hòa Hảo. Ông Năm Bầu cho mời ông ta về. Sau khi hỏi tên hỏi tuổi của hai vợ chồng ông, ông ta lần chỉ tay lẩm nhẩm “tý, mẹo, thìn, tỵ, mùi...”, rồi ông ta ngẩng lên bảo: “Vợ nhà ông mắc nạn trời”. - Chỉ nghe đến thế, ông Năm Bầu đã thấy nóng đầu. Nhưng vì muốn chiều vợ, ông đành phải ậm à, ậm ừ. Người thầy bói nói một thôi một hồi về đạo lý của nhà Phật. Người thầy bói nói toàn những tiếng khác lạ và nghe thật buồn tai. Nào là “bá tánh, chúng sanh” nào “thiện nam tín nữ”. Ông ta nói về đời sống khổ cực của nhân dân, nào cuộc đời là “trầm luân bể khổ”, nào là “cảnh đọa đày của chúng sanh”. Rồi ông ta khuyên gia đình bệnh nhân phải “biết nghe lời thầy, phải cải tà quy chánh”, phải “quy y theo đạo”... Rồi ông bảo có như thế thì mới “tai qua nạn khỏi”. Ông không tin, nhưng vì thương vợ, thâm tâm ông cũng cầu mong được như thế.

Nhưng tai không qua mà nạn cũng không khỏi. Vợ ông mỗi ngày lại mỗi gầy mòn nhiều hơn, không thể rời khỏi chiếc võng nữa. Trong nhà, như có một người chết chưa chôn. Dạo ấy, trong làng, lại có tiếng đồn: ở làng Hòa Hảo có thầy Tư ở núi Cấm mới về. Thầy đem theo thuốc tiên về cứu chữa cho “chúng sanh bá tánh”. Chiến đã nghe được những lời đồn đại ấy, về nói với mẹ. Vợ ông đòi đi. Ông không tin nhưng ông cũng muốn chiều vợ và nghĩ thầm: “Thôi thì cứ đi chữa cầu may vậy”. Trong nhà đang độ túng bấn, ông không đi được, Lành thì còn nhỏ, lại là con gái, không thể chèo chống được, - vợ ông không thể đi xe được - Chiến phải một mình chèo chống đưa mẹ đi. Chiến đưa mẹ đi với chiếc xuồng con che rèm, mang theo nào gạo củi, nồi niêu.

Ông Năm Bầu xuống bến tiễn vợ con ra đi, trở về nhà ngồi một mình, lấm nhẩm tính nợ nần, ông chợt nhớ đến số tiền cúng cho tên thầy bói.

- Cái thằng này thì phải chơi cho nó một trận mới hả!

Ông bảo Lành gọi ông thầy bói đến, bảo Hiếu đến hàng xóm bắt vê một con chó mực. Ông cho chó mang kính trắng. Ông bắt con chó nằm trên bộ phản và chăng màn che nó.

Người thầy bói mặc đồ đen đeo kính trắng đến, ông mời ngồi, bảo:

- Hôm nay tôi mời ông đến, để nhờ bói cho một người. Tôi thật là có lòng ngưỡng mộ ông. Ông nói đâu thì có đó. Nhà tôi cũng đã sắp tai qua nạn khỏi rồi. Nhờ lời khuyên dạy của ông, nhà tôi nay đã đi về thăm đất Phật.

Người thày bói nhún nhường:

- Tôi chẳng qua là người phàm, mắt tục, làm gì mà biết được cái số mệnh của con người. Chẳng qua là tôi mượn con mắt của thầy mà nhìn “chúng sanh bá tánh”. Nói vậy, té ra là bà nhà ta đây đã về thăm đất Phật. Thật là phúc đức quá! Nếu nhà bà mà tốt phước, biết đâu lại được gặp thầy...

Ông Năm Bầu không muốn cho người thầy bói cà kê dài dòng, ông cắt lời:

- Thôi thì muôn sự là nhờ ông. Nay nhà tôi lại có một người muốn xem bói, vậy nhờ thầy chỉ bảo cho.

- Người ấy là ai đâu vậy?

- Người ấy đang nằm đây. - Ông Năm Bầu liền vén màn. Con chó mực đeo kính trắng chồm dậy, sủa lên. Người thầy bói kêu lên một tiếng hoảng hốt, mặt tái xanh và cắm đầu chạy.

Hiếu đứng trước sân, cười lăn ra. Lành đứng thập thò trong buồng, vừa cười vừa sợ đến run lên.

Ông Năm Bầu xích chó đuổi theo, vừa hả dạ, vừa căm giận, ông cười gằn trong cuống họng.

Chuyện ấy truyền đi khắp làng. Từ đó người ta không thấy người thầy bói ấy đâu nữa. Người thầy bói ấy trở về làng Hòa Hảo. Chuyện ấy xảy ra vào một ngày cuối năm năm 1941. Độ nửa tháng sau, Chiến đưa mẹ trở về. Cái chết của vợ ông đã sắp đến nơi rồi, bà đòi về, vì không muốn chết ở quê người. Mới đi có nửa tháng, trở về, Chiến bỗng trở thành một con người khác. Chiến vừa lầm lì vừa thẫn thờ. Nhất là đôi mắt, đôi mắt đượm một nỗi u sầu và mỗi lần nhìn cha thì mắt lóe lên như giận dữ. Mới có mười bảy tuổi mà Chiến đã có cái vẻ ưu tư trầm lặng của một người già. Chiến cũng bắt đầu nói những tiếng lạ với một giọng chậm rãi và buồn rầu. Vợ ông cũng thế, vợ ông nhìn chồng với cặp mắt trách móc, hờn giận và xót thương. Chiến kể lại câu chuyện lên làng Hòa Hảo cho cả nhà nghe. Cái bến ấy, xuồng ghe của “bá tánh” tấp nập như bến chợ. “Bá tánh chúng sanh ở tứ phương” đều về xin thuốc của thầy. Mẹ Chiến không được gặp thầy mà chỉ gặp được đệ tử của thầy thôi. Người “đệ tử” ấy to lớn, nước da nâu, cằm có bộ râu đỏ hoe hoe, trang phục màu già và đầu có búi tó. Ấy là người “đệ tử” thay mặt thầy để xem bệnh cho tín đồ. “Bá tánh chúng sanh” đông quá, mẹ Chiến phải nằm chờ đến bảy ngày. Người “đệ tử” ấy coi bệnh cho “bá tánh” và mẹ Chiến bằng một nhánh sầu đâu. Người “đệ tử” đưa nhánh lá sầu đâu lên trước mặt mẹ Chiến, quơ qua quơ lại, mắt nhìn lom lom vào mắt người bệnh một lúc rồi khẽ lắc đầu nói với một giọng trầm, kéo dài, nghe thật buồn thảm:

- Bà đây là vợ của ông Nguyễn Văn Bầu ở làng Mỹ Long Hưng có phải không?

- Dạ phải.

- Trước mặt bà có một con quỷ nó ám ảnh. Mắt tôi không nhìn được rõ mặt của bà.

Người “đệ tử” để nhánh sầu đâu lên bàn, móc túi lấy ra một cái hộp màu đỏ như son. Người “đệ tử” mở hộp một cách thận trọng, cầm lên một chiếc cà rá (nhẫn) có đính hạt cườm - hạt kim cương mà Chiến không biết - chói lấp lánh.

- Chiếc cà rá này là bửu bối của thầy để lại cho tôi đây.

Người “đệ tử” đưa chiếc nhẫn gần tận mắt mẹ Chiến, lắc lắc chiếc nhẫn, ánh kim cương chói qua chói lại trên gương mặt xanh xao của mẹ Chiến, người “đệ tử” nói:

- Số kiếp của bà đây là mắc tội thay chồng. Ông của nhà bà chắc là ngỗ ngược lắm!

Người “đệ tử” lại đưa chiếc nhẫn lại gần cái hạch lao trên yết hầu của mẹ Chiến, thở dài lắc đầu:

- Số kiếp của bà không qua khỏi được rồi. Bà hãy sớm tu tâm dưỡng tánh, hồn mới khỏi sa xuống âm phủ. Tôi không thể nào xin được rồi!

Nước mắt của mẹ Chiến chảy ròng ròng xuống đôi má xanh xao.

Chiến bế mẹ đưa xuống xuồng, nước mắt chảy ướt cả áo ngực của mẹ. Chiến nghĩ thương cho số phận của mẹ và đâm ra giận cha. Về đến nhà, nghe Lành kể lại chuyện cha cho chó đuổi người thầy bói, Chiến càng căm giận cha nhiều hơn. Chính vì cái tính ngang bướng của cha, mà mẹ phải chịu tội thay. Chiến nghĩ như thế!

Về đến nhà, mẹ Chiến không còn nói được nữa. Trong cái đêm cuối cùng, nằm trên chiếc võng trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn con trong căn buồng tối, tóc bà xõa ra, bà cho gọi các con đến. Cái chết đã đến rồi. Bà ráng hết sức đưa tay để lên vai chồng. Cái bàn tay đã suốt một cuộc đời vất vả vì chồng con, nay chỉ còn là một mảnh xương gầy. Cái bàn tay xanh gầy ấy như muốn nắn bóp lấy cái bả vai của chồng, nhưng không còn đủ sức nữa. Gương mặt của bà, hai gò má nhô cao, đôi má bầu đã hóp xuống, hố mắt sâu, nước da xanh xao phảng phất một nỗi buồn ảm đạm. Đôi mắt mở to, bà nhìn chồng vừa trìu mến, lưu luyến, thương hại vừa hờn dỗi và thẫn thờ. Những ý nghĩ của cả một cuộc đời muốn nói lại với chồng đều tràn đầy cả đôi mắt bà. Bà thều thào:

- Thôi, mình... ở lại... tu... tâm... còn có hai đứa con... mình... ráng... Hai con đâu...

Đôi mắt của bà trợn lên, bà đưa tay quờ lấy hai con, rồi hắt hơi, nhắm mắt.

Lành ôm lấy mẹ, rồi ngã lăn xuống đất khóc ngất. Khi mẹ nhắm mắt, trong ánh đèn lờ mờ, Chiến như thấy có một cái bóng rời khỏi thân thể của người mẹ. “Cầu cho hồn mẹ được siêu thăng!” Chiến thụp đầu xuống như lạy và oán thầm.

Ông Năm Bầu nhìn cái chết của vợ, lòng ông tan nát rã rồi. Vốn ông là người không mê tín dị đoan, nhưng khi nhớ đến cuộc đời vất vả của vợ, phút chốc ấy, ông bỗng ao ước có hai cuộc sống cho con người: một cuộc sống ở đời và một cuộc sống ở cõi hư vô. Và trong cuộc sống hư vô ấy, vợ ông được sống một cuộc đời thanh thản. Ý nghĩ ấy thoáng qua óc ông lúc ông ôm lấy hai vai của vợ, lắc mạnh và kêu thất thanh.

- Mình ơi! Mình...

Bà vợ ông vẫn nằm im. Nhìn vợ, lòng ông bỗng thêm một nỗi đau đớn vì hối hận. Như một trẻ đứng trước một hình phạt ghê gớm, đã hoảng hốt nhận lấy tất cả tội lỗi, kế cả những tội lỗi mà mình không có. Ông hối hận vì từ trước đến nay mình không biết tin trời Phật.

*

Sau đó, nhà ông lúc nào cũng tối om om. Giữa nhà, một bàn thờ, một ngọn đèn dầu leo lét, khói nghi ngút, tỏa lờ mờ. Chiến lại trương lên một cái trang thờ trần điều. Chiến để tóc dài đến tận mang tai. Trước sân nhà, Chiến dựng lên một cái bàn thông thiên. Ông biết là Chiến đã vào đạo Phật giáo Hòa Hảo, ông không hoàn toàn tán thành, nhưng cũng không phản đối. Người làng củng đã lần lượt vào đạo như nó rồi.

Có một hôm, ông thấy Chiến để lên trần điều một tấm ảnh nhỏ. Tấm ảnh của một người không phải là đàn bà, cũng không phải là đàn ông. Ảnh của một người khoảng độ hai mươi hai, hai mươi ba tuổi, gương mặt dài, mày đậm và uốn cong, mắt vừa mênh mông sáng vừa đượm một vẻ buồn, nước da trắng xanh, cổ như có ba ngấn và tóc thì xõa đến vai. Ông lật ngửa lật nghiêng, nhìn đi nhìn lại. Thật là một con người kỳ lạ. Khi Chiến về, ông hỏi:

- Chiến, mày để hình ai trong trang thờ, đàn bà không ra đàn bà, đàn ông không ra đàn ông vậy?

Chiến mở tròn cặp mắt nhìn ông. Ông giật mình và ngạc nhiên. Chưa bao giờ ông thấy Chiến nhìn ông với cặp mắt nảy lửa và dữ dội như vậy, một cái nhìn của kẻ thù chứ không phải là cái nhìn của đứa con nữa.

- Của tôi ông hỏi làm gì, hả? - Chiến hét lên với ông.

Thật lòng là ông không biết cái ảnh ấy là ai, nhưng Chiến thì lại tưởng ông mỉa mai. Lần đầu tiên, ông thấy sợ thằng con. Sau này, ông mới hiểu đó là ảnh Phật thầy, mà người ta cũng thường gọi là thầy Tư, tên là Huỳnh Phú Sổ, người ở làng Hòa Hảo, con của Hương cả Huỳnh Văn Bộ. Đấy là người sáng lập ra đạo Hòa Hảo. Ông có nghe nói đến tên “Thầy”, nhưng có được gặp bao giờ đâu mà biết. Từ đó, Chiến làm điều gì, ông cũng không hỏi. Chiến bỏ tất cả những công ăn việc làm, ngày đi đâu chẳng biết. Đêm đêm, Chiến thường hay nằm đọc kinh...

Những ngày đầu năm năm 1944, lão Ịnh trở về, Hiếu đã nghe lời cha đi học võ. Bên ngoài, thế giới chiến tranh lần thứ hai đã xảy ra. Trong làng, lúc nào cũng xôn xao về thảm họa của chiến tranh. Rồi Nhật vào Đông Dương không biết bao nhiêu là biến đổi. Năm ấy cũng là năm “kinh tế”, “củi quế gạo châu”, mọi thứ đều khan hiếm. Màu sắc tươi đẹp của xóm làng cũng phai mờ đi. Ngoài đường, ngoài chợ, áo trắng, áo hoa của các cô gái không còn thấy nữa. Người ta mặc quần áo màu già, rách rưới và bạc màu. Lác đác có một vài người mặc quần áo bằng bố tời. Những chiếc áo bố tời sùi lông như mang đến một điềm gở cho mọi người.

Sau những ngày khởi nghĩa bị thất bại, sau lần bị mất đất, những ngày chạy vạy nợ nần thuốc thang cho vợ, rồi một cái tang, bao nhiêu cái đau đớn dồn dập đến cho ông! Trong những ngày u sầu ấy, đêm đêm, cái giọng buồn thảm của Chiến cứ vẳng đên tai ông.

Đờn kêu vợ lại xa chồng

Đờn kêu mẹ lại quên bồng con thơ.

Đờn kêu sắp đến bây giờ

Đờn kêu đời tới ráng thờ chữ tu

Đờn kêu như nước bèo trôi

Đờn kêu thế sự đứng ngồi không an

Đờn kêu gió thổi mây tan

Đờn kêu dông bão, nước tràn non cao.

Đờn kêu cá nước chim trời

Đờn kêu bể cạn, cá thời ao khô

Đờn kêu chim ở lồng mô

Đờn kêu trần thế như mồ bỏ hoang.

Trước mắt, ngọn đèn leo lét trên bàn thờ vợ, trong tiếng gió thì thầm ở ngoài hiên, nghe cái giọng sầu thảm của Chiến, ông thấy buồn đến thối cả ruột gan. Không chịu được nỗi buồn, không chịu nổi những bực dọc vì cảnh nghèo, nhiều lúc ông muốn hét lên:

- Mày câm miệng lại đi, Chiến! Không lo làm ăn, cứ lo đờn với đờn, đòn cái ông cố tổ mày!

Nhưng ông không dám. Ông chỉ hầm hừ một mình, rồi bỏ nhà đi cho khuây khỏa. Ông đến nhà ai? Ông tìm đến những người bạn tá điền.

Ông đến nhà ông Năm Ngũ. Vừa bước tới sân nhà, ông đã nghe cái giọng khàn khàn của ông Năm Ngũ đang đọc kinh theo điệu nói thơ Lục Vân Tiên:

Đờn kêu huyết đỏ như son

Đờn kêu nhân vật chỉ còn một hai

Đờn kêu những nỗi đắng cay

Đờn kêu chanh khế ngậm hoài chát chua.

Cũng lại đờn! Ông bỏ đi. Đền nhà lão Ịnh, nhìn qua kẽ cửa, ông thấy lão Ịnh mặc quần áo màu già phủ phục đến gối, đầu để tóc, mái tóc chảy mướt, ngồi chỉnh tề trên bàn và cũng lại “đờn”!

Đờn kêu hối thúc nhơn dân

Đờn kêu khổ não tới gần một bên

Đờn kêu phải gắng chí bền

Đờn kêu nam nữ không êm bớ người

Đờn kêu chớ có dễ ngươi

Đờn kêu thế sự như rơi phiếm đàn... à...

Ông lại quay ra. Đó đây, nhà nào, trước sân cũng có một bàn thông thiên, khói hương đang nghi ngút. Khói hương có mang được lòng người không? Và gió sẽ đưa về đến tận nơi nào? Trên đường im lìm. Nhà nhà cửa đóng then gài. Đâu đâu, cũng vẳng những lời kinh não nùng. Trước mắt ông: cuộc đời như một đám sương mù.

*

Những người bạn cũ đã mất hết rồi. Những lúc đơn độc quá, đôi khi ông cũng muốn vào đạo cho có bạn có bè. Không thể thui thủi một mình được, ông đi tìm bạn mới. Ông đến tìm Phát, con của Sáu Sỏi. Phát lớn hơn Chiến mấy tuổi, đáng là tuổi con ông, nhưng ông thấy ở Phát đối với ông có một cái tình của người bạn. Mỗi lần gặp được Phát là ông thấy cuộc sống trở lại bình thường, Phát không như Chiến, Phát không như một số con trai làng. Đầu Phát không có búi tóc, tóc Phát vẫn hớt ngắn, nhất là đôi mắt của Phát, đôi mắt không đượm một cái gì u uất và thấy sợ, đôi mắt của Phát vẫn trong sáng, thân thích và dễ gần. Phát không nói những lời lẽ của một thế giới khác, giọng của Phát cũng không đượm buồn và trong cái dáng vẻ của Phát có một cái gì của Sáu Sỏi. Phát nói với ông về những chuyện làm ăn bình thường. Phát vừa làm ruộng, vừa học nghề mộc, Phát nói lại những câu chuyện của Sáu Sỏi mà trước đây ông đã từng nghe. Phát nói về những chuyện xảy ra ở bên ngoài, chuyện của những người yêu nước chân chính. Có đêm, ông cùng ngủ với Phát. Một ít lâu sau, Hiếu lại trở về. Hiếu đã vào đạo, đi dạy võ cho tín đồ. Nhưng Hiếu không giống như những người tín đồ trong làng. Hiếu không như Chiến, Hiếu vẫn làm bạn với Phát và Hiếu vẫn là thằng Hiếu của ông ngày xưa. Thế là ông bỏ hẳn cái ý nghĩ vào đạo.

Nhưng rồi, một đêm đầu năm 1945, ông nghe Chiến hỏi:

- Ngày mai, cha có đi không?

- Đi đâu?

- Đi phá nhà việc, đi đốt hình Pêtanh chớ đi đâu!

Ông ngẩn người nhìn thằng con một lúc. Sau đó, Chiến giải thích, đạo Hòa Hảo sẽ dựa vào lực lượng Nhật Bổn là “giống da vàng máu đỏ” để đánh Tây cứu nước. À! Hóa ra nó cũng là người yêu nước! Thế mà mình không biết! Ông thấy hối hận với cái tình nhạt nhẽo của ông đối với con. Ông nhìn Chiến với cặp mắt khác, yêu thương và kính trọng. Thế là đêm đó, ông không đến tìm Phát nữa. Ông ở nhà với con và nghe Chiến nói chuyện. Lần đầu ông nghe con nói về lý lẽ ở đời. Những chuyện viển vông về cuộc sống ở cõi hư vô, ông để ngoài tai, khi nào Chiến nói đến chuyện đánh Tây cứu nước thì ông lắng nghe và xen vào những lời bàn. Dù sao, ông thấy con mình cũng là một người yêu nước.

Khuya hôm ấy, ông cùng ra đi với con. Đến gốc cây vông đồng, là nơi tập trung ông gặp lại hầu hết những người bạn tá điền cũ, ông gặp cả Hai Đôn và Sáu Phẩm nữa hai người cộng sản cũ. Người ta nhìn ông với cặp mắt thân thiện, người ta tỏ ra kính trọng Chiến, phút chốc ông thấy kiêu hãnh vì thằng con.

Buổi sáng hôm ấy, ở giữa sân chợ, lão Ịnh và Chiến đã leo thang lên nóc nhà dài, giật tấm ảnh Pêtanh ném xuống đất. Bà con tín đồ ở dưới thì trương cờ Nhật, cờ Đạo đi biểu tình thị uy. Bọn lính làng chạy hoảng đi hết. Những người ở chợ thì hoan hô và nhìn bà con tín đồ với cặp mắt khâm phục và lạ lùng. Chưa bao giờ ông thấy hả hê đến như vậy. Và ngay hôm đó, vô tình, ông ngang nhiên trở thành một tín đồ.

Về đến xóm, gặp ai ông cũng khoe:

- Hình thằng Pêtanh bị liệng xuống đất rồi. Thằng Chiến nhà tôi với anh Tư lên nóc nhà dài, kéo nó xuống.

- Hình thằng Pêtanh bị liệng xuống đất rồi!...

Gặp ai ông cũng vồn vã, khoe đi nói lại cái tin vui ấy có gần trăm lần. Lần nào, vẻ mặt ông cũng hớn hở như lần đầu. Gặp Phát, ông cũng báo cái tin mừng ấy.

- Hình thằng Pêtanh bị liệng xuống đất rồi à? - Phát cũng lộ vẻ mừng hả hê như vậy. Nhưng sau đó thì Phát lại bảo:

- Nhưng mà...

- Nhưng mà làm sao?

- Không nên dựa vào thằng Nhật đâu bác Năm à. Nó là thằng phát xít.

Phát xít, ông chẳng hiểu được danh từ đó. Trong lúc đang mừng với chiến thắng, bác cũng không cần phải biết đến cái chuyện đó làm gì.

- Nó cũng là thằng cướp nước thôi. Nó ác hơn thằng Tây nữa đó bác Năm!

- Vậy à? - Ông hỏi lại, nhưng ông để ngoài tai. Chẳng biết nó sẽ như thế nào, chỉ biết là nó giúp dân mình đánh Tây là ông thấy thú rồi. Chẳng những đánh Tây, mà còn kéo nhau đi bắt hội tề, điền chủ để trả thù, trả oán nữa. Suốt mấy đêm liền, đêm nào ông cũng theo bà con tín đồ đi trả thù trả oán. Ban ngày ông lại đi khoe với Phát.

Phát hỏi:

- Người ta cho bác đi à?

- Cho chứ! Sao lại không cho!

- Thế là bác đã vào đạo rồi à?

- Ừ... mà chưa...

- Hay là bác cứ vào đạo đi bác Năm. Có chuyện gì, bác cho cháu biết với.

- Ừ. Được đấy. Có gì thì cháu cứ bảo ban cho bác!

Sau đó, ông chính thức quy y theo đạo. Tất nhiên là ông vào đạo theo ý nghĩ của ông. Và tất cả những người vào đạo, họ đều vào đạo với ý nghĩ khác nhau. Người vào đạo với lòng mê tín một cách chân thành. Người vào đạo vì bị mất niềm tin ở bản thân mình, muốn đi tìm niềm tin ở một thế giới khác. Người vào đạo để lánh nạn. Người vào đạo vì mưu đồ cho một sự nghiệp riêng. Bao nhiêu con người, bao nhiêu cuộc đời lận đận khác nhau, cùng quỳ dưới một tấm trần điều, mong mỏi và mưu đồ cho những ý nghĩ riêng của mình.

Cách mạng Tháng Tám thành công, rồi Sáu Sỏi trở về, ông càng hiểu rõ hơn: mình vào đạo để làm gì?

Ông và Chiến, hai cha con tuy cùng thờ một đạo, nhưng cách nghĩ chỉ gặp nhau trong những ngày ném ảnh Pêtanh, kéo nhau đi trả thù trả oán, rồi dần dần, cái nếp nghĩ của hai người lại tách xa và xa nhau.

Con thương cha, con muốn cha phải nghĩ theo ý nghĩ của mình, cha thương con, cha cũng muốn con phải nghĩ theo ý nghĩ của mình.

Hai cha con chưa bao giờ để xảy ra một cuộc xung đột lớn, nhưng ngấm ngầm, cứ giằng co với nhau trong cái tình thương ấy và cả hai đều bị giày vò.

*

Tiếng giã gạo đã im bặt rồi. Ông Năm Bầu vẫn ngồi dựa lưng vào bụi chuối, mắt lim dim, ông như còn muốn để cái dư âm của tiếng chày lắng vào lòng. Hình ảnh của những chuyện đã xảy ra, mờ dần trong trí óc ông.

Ông mở mắt, người bần thần như vừa qua một giấc ngủ chập chờn sau một cơn say.

Gió ngoài dòng sông mang theo hơi thối của xác người thổi lao xao. Trong ánh nắng chiều gay gắt, tàu chuối buông xuôi hai cành lá, ủ rũ và mệt mỏi quật quờ.

Cái không khí chết lặng lại tràn đến tâm hồn ông. Ông hắt hơi liền mấy cái, như muốn tống cái không khí ấy ra khỏi người.

Ngoài đường vang lại tiếng vó ngựa của đội tuần tra, và đâu đây vẳng lại giọng hát “Hòn vọng phu”. Tiếng hát mỗi lúc mỗi tách rời ra trên các con đường mòn vào xóm. Một giọng hát trầm rè như thùng thiếc bễ mà nghe buồn, mỗi lúc mỗi đến gần.

Ông Năm Bầu cầm chĩa ba trở về. Ông vừa đi được mấy bước thì có tiếng gọi:

- Cha! Cha!

- Cái gì! - Ông Năm Bầu trả lời nhưng không quay lại.

- Cha ơi! Cha đứng lại con nói cái này cho cha nghe! - Giọng nói của Chiến nghe hớn hở như sắp báo một tin mừng.

Ông Năm Bầu miễn cưỡng đứng lại. Chiến bước đến, chắc là vừa mới tắm xong, đầu còn ướt, nước còn chảy ròng ròng xuống người. Chiến vừa đi vừa cầm áo lau mình một cách qua quýt.

- Chuyện gì?

- Cha ơi! Cha ra ngoài cây gừa mà coi cái pháp trường, bà con mình đã dựng xong rồi, cái cây cột xăn bóng như ván ngựa gõ vậy, đẹp lắm!

Nói đến cái chỗ giết người mà giọng nó vui như một đứa trẻ con. Ông nhìn Chiến, thầm nghĩ một cách cay đắng. Vầng trán của con lão đã thấp lại bị tóc rủ xuống che mất, nó như là người không có trán vậy, trông nó vừa ngốc vừa lì. Cặp mắt nó vằn lên những tia máu đỏ. Nó cười, đuôi mắt nó rẽ ra nhiều đường nhăn chạy gần đến mép, trông như hai sợi cương ngựa! Mặt nó rạng rỡ một cách khó coi. Những lần sắp được giết người thì cái gương mặt của nó lại rạng rỡ lên như vậy, giết xong một người thì nó thắp hương, quỳ trước bàn thông thiên, lẩm nhẩm kể lại với một vẻ thành kính và hài lòng. Lúc ấy, nó như “tâu” lên Phật thầy về công cán của nó. Giết được một người - theo nó là kẻ thù của đạo - thì nó như leo lên được một nấc thang của cõi Niết bàn. Nếu nó không được giết người một cách trực tiếp, - người ta giết rồi, - nó cũng chém bồi thêm vài dao cho đỡ “ngứa tay”. Không khéo rồi đêm nay, nó lại cầm dao giết Sáu Sỏi cũng nên.

Nhìn thằng con, ông đau nhói cả ruột gan.

- Nhà sắp hết gạo rồi! - Ông cố nói dịu giọng.

Chiến nhăn mặt khó chịu:

- Tối ngày cha cứ lo chuyện gạo với nước, như là đàn bà.

- Thế là mày nhịn đói được à?

- Tôi ăn cơm trên ban trị sự!

- Được phần mày, mày không nghĩ đứa em với thằng cha mày à?

- Ở trong xóm người ta ăn cái gì? Làng này hết gạo rồi à?

- Tao không muốn đi vay. Đi vay rồi lấy đâu mà trả, hả?

- Làm việc cho đạo mà cha cứ nghĩ cái gì ở đâu không ấy!

Thấy giọng của thằng con có vẻ đuối lý, ông bỗng nảy ra một ý nghĩ: đêm nay sẽ đưa nó đi chỗ khác.

- Tao định xoay qua nghề chữa cối đấy! Tao thấy cối nhà người ta dạo này răng cỏ đểu long ra hết rồi. May ra đổi được một ít gạo cho con em của mày.

- Cha muốn làm gì đó thì cha làm.

- Tao làm gì tao làm thì tao cần hỏi mày làm gì? Mày không giúp được một tay cho việc nhà sao?

- Thì có gì cha cứ bảo con.

- Tao định đi qua làng Nhân Mỹ kiếm gỗ. Tao định đi tối nay, mày đi với tao một tay dầm.

- Sao lại đi chiều nay? - Chiến mở tròn mắt nhìn cha.

- Gạo ở nhà sắp hết rồi.

Chiến quay mặt, không nhìn cha và như đang nghe ngóng một cái gì ở phía xa:

- Chiều nay còn bận việc. Bảo con Lành nó đi. Chiều nay tôi có việc ở trên ban trị sự. Bây giờ thì tôi đi đây.

Chiến quay lưng, trở ra đường cái. Đi một vài bước, Chiến quay lại:

- Chiều nay con mang gạo về cho!

- Tao không cần! - Ông hét lên.

Chiến không giận ông, vẫn vui vẻ, như muốn trêu ông:

- Tôi mang về cho con Lành chớ mang về cho cha đâu mà cần với không! - Rồi, với một dáng điệu hí hửng, nó quay lại, vắt áo qua vai, nhảy cẫng lên một cái.

- Đồ chết tiệt! - Ông chửi thầm và đứng lặng nhìn theo Chiến. Nó đi trên con đường mòn. Ông thấy như nó đang đi trên mình một con rắn to nằm ngoằn ngoèo dưới khu vườn rậm. Nó vừa đi vừa nhảy. Nó hí hửng như một đứa trẻ sắp được quà. Nó đi vào con đường tội lỗi thật hồn nhiên. Một đứa trẻ thì đầu óc chưa biết nghĩ, còn nó, cái óc trong đầu nó như đã chết khô rồi.

Ông lắc đầu, quay trở về, mắt rơm rớm, mặt thẫn thờ.