← Quay lại trang sách

Chương IX

Cùng trong lúc ấy, phía bên bờ sông, Phát đang nhìn về làng. Anh ngồi tựa lưng vào cây vú sữa của một sân nhà bị cháy trên vàm kinh chảy vào giữa cù lao.

Mặt trời chưa lặn, nhưng trời nhiều mây. Bóng tối của đám mây đen buông xuống dòng sông như một chiều u ám.

Dòng sông từ mạn trên đổ xuống đến đây thì rẽ ra làm đôi chia ra làm hai dòng ôm tròn lấy cù lao. Cù lao nổi lên giữa dòng sông như một con cá khổng lồ. Cù lao chia ra bốn làng. Cù lao có một nhà thờ lớn với ngọn tháp chuông cao màu xám tro. Cái chỗ của Phát ngồi là đầu cù lao.

Bờ sông vắng. Dưới bến, một chiếc vó rách te đang cất lên và thôi không bao giờ buông xuống để cất lên nữa. Nó cất lên và hướng ra khơi như một bàn tay gầy đang chìa ra chờ đợi một cái gì và không biết mỏi. Người chủ của nó không chịu nổi súng đạn đêm ngày của tàu địch, đã tản cư đi rồi.

Sóng vỗ vào bờ ọp ẹp nghe uể oải và đều đều.

Ở xa nhìn về, Phát không thấy được cảnh làng một cách rõ ràng, không thấy người, không thấy nhà, nhưng anh nhìn cái cảnh làng được đầy đủ hơn. Làng của anh đấy một hàng cây xanh sẫm ở phía trên kia bờ sông. Cái bóng cây xanh đậm của cây đa, chếch về phía tay phải tay anh là bến đò, nơi giáp ranh với làng Long Điền. - Làng Long Điền cũng một rặng cây chạy dài lên chợ huyện - Cái tháp chuông của ngôi nhà thờ nhỏ nhô lên khỏi hàng cây, chếch về phía tay phải anh là nơi giáp ranh với một làng thuộc tỉnh Sa Đéc. Thị trấn nằm ở giữa làng, lô nhô những mái ngói, lờ mờ những con tàu đang cặp bến, khói đang tan ra thành mây mỏng. Và trước mặt anh, cao vọt lên khỏi rặng cây là hàng dương trước sân đình. Đấy là xóm Đình của anh. Từ chợ đến tháp chuông nhà thờ nhỏ là xóm du kích. Từ chợ đến xóm Đình, xóm bến đò và thẳng lên chợ huyện là một vùng đã do tín đồ Hòa Hảo chiếm lấy. Sau xóm Đình, qua một cánh đồng, những cái làng ở bên bờ tả ngạn bờ Hậu Giang, và phía bên kia Hậu Giang - một vùng đất có núi Cấm, núi Dài, núi Ba Thê... là vùng của các đơn vị vũ trang của Hòa Hảo chiếm đóng. Từ cái xóm Đình của anh đến chợ huyện như là cái cửa ngõ của vùng Hòa Hảo thuộc tỉnh Long Xuyên. Cái cửa ngõ ấy dài mười hai cây số, nằm dọc theo bờ sông, đối mặt với bờ sông vùng căn cứ kháng chiến. Hai bên cái cửa ngõ ấy là hai cái đồn lớn của quân đội Pháp; đồn của Mỹ Long Hưng và đồn của huyện Chợ Mới. Cái cửa ngõ ấy là nơi thường có những cuộc gặp gỡ của các đơn vị vũ trang, thường xảy ra những cuộc chiến đấu dữ dội. Là nơi đã xảy ra những cảnh ngộ thật éo le, cha giết con, anh giết em, người thân giết người thân. Những người đã chết, họ không còn biết gì nữa, nhưng họ đã để lại những nỗi đau khổ cho những người còn sống, và những nỗi đau khổ ấy sẽ sống mãi mãi trong đời sau. Và đêm nay nữa, anh sẽ gặp lại người làng, anh sẽ gặp lại người yêu, anh sẽ gặp lại cha - có chắc gì gặp lại cha? - rồi sẽ xảy ra những điều gì nữa? Phát tự hỏi. Không tìm được câu trả lời, anh thấy băn khoăn. Anh không ngồi yên được nữa. Anh đi đi lại lại dưới tàng cây vú sữa. Người anh khỏe mạnh, thân hình cân đối, có vẻ oai vệ trong bộ quân phục màu đen và chiếc súng ngắn hơi xề xệ ở bên hông. Bước đi của anh hơi nhanh và bối rối.

Trưa nay, trinh sát đã báo cái tin đồn về Sáu Sỏi. Huyện ủy liền mở ngay một cuộc họp bất thường. Sau đó, đơn vị của Phát - một đơn vị ở gần nhất, đang đóng ở cù lao, có thể về kịp trong đêm - được điều đi cứu Sáu Sỏi. Đơn vị của anh phải dừng lại đây, chờ khi mặt trời sụp để vượt sông.

Đơn vị đang nghỉ trong xóm nhỏ cạnh bên cụm bần thưa. Những anh lính người làng Mỹ Long Hưng cũng đang ngồi rải rác dưới các gốc cây. Họ nói với nhau về chuyện làng, mỗi người mỗi câu chuyện khác nhau. Anh Hoàng, trinh sát của đơn vị, độ hơn ba mươi tuổi, vốn là người đánh xe ngựa, anh đang ngồi kể cho bạn đồng đội nghe những đoạn đường của anh.

- Một chiếc xe hình lá liễu, đánh “vẹt - ni” láng bóng, mui vải xanh, nệm lò so - anh nói - tôi bắt một con ngựa hồng từ mờ sáng.

Chiếc xe của anh đầy khách lắc lư, chạy bon bon trên con đường rải đá rợp mát những tàng cây. Xe chạy qua xóm mộc, thoảng mùi ét xăng và mùi gỗ, xe chạy qua xóm dệt, tiếng khung cửi nghe rộn ràng, xe lướt qua các khung cửi của những cô thợ dệt tóc xõa dài và nước da trắng mịn. Xe chạy qua đoạn đường gừa trồng ven hai bên đường.

Mỗi ngày, anh mỗi gặp gỡ những con người xa lạ, những kiểu người khác nhau: một cô gái đẹp, một ông già nho hay nói chữ, một người đàn bà đi thăm chồng, một người có cái vẻ bí mật thích ngồi ở phía trong... những người ấy, có khi anh chỉ gặp một lần, nhưng đều để lại cho anh những kỷ niệm hay hay. Ngày nào, xe anh cũng chạy qua làng. Anh yêu cái nghề đánh xe và yêu cái làng của mình. Mơ ước của anh thật giản đơn. Độc lập, anh sẽ không đánh xe thuê nữa, anh sẽ cưới một cô thợ dệt, sắm một cỗ xe riêng, và ngày ngày anh sẽ đưa anh em đồng chí đi qua làng. Lúc nào anh cũng có thể nói cái chuyện đánh xe của anh. Nhờ tiếp xúc với nhiều người, anh biết đủ thứ chuyện ở trên đời.

Nghe câu chuyện của anh, không ai có thể nghĩ đó là chuyện của những người lính đang chuẩn bị chiến đấu. Qua giọng nói và cử chỉ của anh, người chung quanh như nghe được tiếng vó ngựa của anh đang gõ vang trên mặt đường trong một chiều thanh bình.

Ở một nhóm khác, có những anh đang nhìn về làng với cặp mắt căm hờn. Họ điểm lại những tên phản động đầu sỏ ở làng. Anh tiểu đội trưởng Hồng là người yêu của Hiền cô gái đã bị giết trong đêm đầu nổi loạn của Hòa Hảo mặt lầm lì, anh đang lần ngón tay lẩm nhẩm những tên người:

- Thằng Quản Dõng, thằng Bảy Nghĩa, thằng Bảy Thẹo, thằng Chiến, thằng Ịnh, thằng Năm Ngũ, thằng Phi Hùng, còn thằng nào với con nào nữa? Đêm nay, nó mà giết chết bác Sáu Sỏi thì tao sẽ chém sạch, tao đốt không chừa một cái nhà!

Anh nói, giọng rít lên trong hai hàm răng và giọng nói của anh như mang theo cái hơi lửa đang bốc lên ngùn ngụt ở bên trong.

- Ông Phát, ông ấy không cho bọn mình ra tay đâu! - Một người lính nói.

Tiểu đội trưởng Hồng bĩu môi, cười gằn:

- Tụi mày đừng có lo! - Anh đưa tay vỗ vỗ vào ngực - Tao làm tiểu đội trưởng, tao hoàn toàn chịu trách nhiệm, tụi mày cứ việc thi hành theo mạng lịnh của tao mà thẳng tay. Lần này thì ông ấy cũng chẳng cản tụi mình đâu. Trước đây, gia đình của ông ta không có ai bị giết, ông ta còn nói chánh trị được, bây giờ, cha ông ta bị giết, ông ta không biết căm thù à? - Đôi mắt của tiểu đội trưởng Hồng vằn lên những tia máu đỏ.

Một không khí nặng nề trùm lên cái nhóm của anh.

Ở một chỗ khác, dưới gốc cây bần già, cành lá buông rủ dài như tóc, có một nhóm khác đông hơn. Đấy là cái nhóm có nhạc sĩ Hoài Nam và Bảy Thâm, người chỉ huy trưởng của đơn vị - Nhóm ấy có hơn mười người. Họ ngồi vây quanh anh nhạc sĩ. Hoài Nam ngồi tựa lưng vào gốc bần, tay cầm cây ghi ta một cách hững hờ, mặt hướng về chợ làng. Hoài Nam độ hai mươi lăm tuổi, người mảnh khảnh, gương mặt anh hơi xương xương, nước da trắng xanh, mái tóc mềm hay buông rủ xuống trán, cái mũi dọc dừa thanh tú, đôi môi son nhỏ hình quả tim, đôi mắt của anh có vẻ trong sáng nhưng thường hay phảng phất một nỗi buồn. Anh vẫn còn giữ được cái vẻ đẹp của một người thư sinh. Anh mặc bộ quân phục ka ki vàng may theo kiểu quân phục của quân đội viễn chinh Pháp, bộ quân phục ấy không được hợp với cái dáng mảnh khảnh của anh. Hoài Nam vừa nói chuyện vừa buông ra những tiếng đàn theo một thói quen. Anh em đều quý mến anh, không chỉ thích nghe anh hát, mà còn thích nghe anh kể chuyện nữa, đặc biệt là chuyện đời tư của anh, và nhất là những mối tình trắc trở của anh. Người thích anh nhất có lẽ là Bảy Thâm. Bảy Thâm nằm cạnh bên Hoài Nam. Bảy Thâm tuổi độ bốn mươi, người to lớn trong bộ quân phục màu đen hơi rộng, lưng anh hơi gù như lưng gấu. Gương mặt anh hơi vuông, tóc rễ tre, trán thấp, cặp chân mày rậm đen, mắt xếch sáng quắc và dữ dội, nước da của anh màu đồng điếu. Anh lại có thêm một bộ râu quai nón. Anh có một vẻ đẹp khỏe mạnh, dữ tợn và gan lì. Dáng vẻ của anh đúng là con nhà tướng! - Anh em thường nói như vậy - Anh cũng là người làng Mỹ Long Hưng, ở xóm nhà thờ. Anh là người đầu tiên gây dựng ra đơn vị này. Từ hai bàn tay không, anh ra chợ đánh Tây, giật súng, diệt tề, trừ gian, đánh những tên lính đi bắt heo, gà, đánh những đồn lẻ, từ một tổ ba người, đến một tiểu đội, và bây giờ, đơn vị của anh quân số có gần một trăm người, đầy đủ súng ống. Đơn vị của anh lưu động khắp tỉnh, đánh đâu thắng đó, nhân dân đâu đâu cũng quý mến, nhiều đơn vị phải ghen với anh. Đơn vị anh là đơn vị số sáu mươi tám, nhưng nhân dân cứ quen gọi là bộ đội ông Bảy Thâm. Nhân dân còn gọi anh là con hùm xám.

Trước khi ra trận, bao giờ anh cũng có một vẻ bình thản, như chẳng có xảy ra một chuyện gì. Khi thì anh ngồi uống một ấm trà, nói chuyện đùa, cười ha hả để chờ trinh sát, khi thì nằm lim dim nghe tiếng đàn của Hoài Nam.

Bảy Thâm nằm gối đầu trên rễ cây, mắt lim dim. Anh đặt tay lên vế Hoài Nam, nắm bóp một cách âu yếm:

- Này, Hoài Nam, chú kể lại cái ngày chú “ra đi” cho anh em nghe đi!

Câu chuyện ngày ra đi của Hoài Nam, anh nghe không biết bao nhiêu lần rồi, nhưng thỉnh thoảng anh vẫn muốn nghe lại. Vì câu chuyện ấy của Hoài Nam có dính đến cái tên tuổi của anh. Hoài Nam mỉm cười, một nụ cười mơ hồ thường có trên nét mặt của anh. Tay anh rời khỏi phiếm đàn. Anh vuốt lại mái tóc, mắt nhìn về những mái ngói lô nhô đang mờ dần ở phía bên kia bờ. Vẻ mặt anh trở nên xa xăm. Trước mắt anh như hiện lên cái căn nhà của anh, một cái phố hai tầng, tầng dưới là tiệm vàng, tầng trên nhà ở, cái phòng nhỏ xinh xinh dành riêng cho anh, gần bên cửa sổ nhìn xuống mặt đường.

- Hồi ấy, tôi đi học ở trường Collège Cần Thơ mới về. Về nhà, tôi định đi ra chiến khu. Nhưng tôi đã không ngờ. - Giọng của anh nhỏ và êm như nghe lời tâm sự lúc về khuya. - Tôi đã gặp một cô gái lạ kỳ. Cô ấy là đứa ở của người chủ tiệm cầm đồ, ở phía bên kia đường. Người chủ của cô ta là bạn của cha tôi. Tôi gọi ông ta là bác Hai. Cô ấy tên Nhung. Trước đó, những năm nghỉ hè, năm nào tôi cũng về, năm nào tôi cũng gặp cô ta nhưng cô ta hãy còn nhỏ, quần quật suốt ngày, quần áo rách rưới, tôi xem cô ta là một đứa bé, thỉnh thoảng cô ta cũng có sang nhà tôi và gọi tôi là cậu Năm. - Vì tôi là người con trai thứ năm của gia đình - Năm rồi, tôi trở về, gặp lại cô ta, tôi như không đoán ra được nữa. Cái tuổi dậy thì, cô ta như con gà trổ mã, sắc đẹp của cô ta bật lên như một vì sao. Cả chợ đều xôn xao. Tôi đi đây đi đó kể cũng nhiều, quen biết không biết bao nhiêu nữ sinh, nhưng tôi chưa hề gặp ai đẹp đến như vậy. Gương mặt của cô ta là gương mặt trái xoan, nước da trắng hồng và mịn màng như rửa mặt bằng sữa, mái tóc xõa dài đẹp như một dòng suối, đôi chân mày uốn cong hình lưỡi liềm, còn đôi mắt thì không thể nào tả nổi, đôi mắt sáng như sao, nhưng lại buồn buồn và mơ mộng, đôi mắt có một sức quyến rũ lạ lùng. Cái nhìn của cô ta, làm cho tôi bàng hoàng cả người. Một cô bé đi ở mà sao lại đẹp đến như vậy, tôi không thể nào hiểu được. Tôi yêu cô ta, tôi yêu một cách đắm đuối, nhưng cô ta là một người ở, sợ người ta nói ra nói vào, sợ cha mẹ anh em tôi không bằng lòng, nên tôi chỉ yêu thầm. Tôi chỉ yêu thầm. Tôi yêu với một mối tình câm. Tôi định đi ra chiến khu, đưa bộ đội trở vê đánh vào làng, tôi sẽ giải thoát cô ta ra khỏi vòng áp bức, rồi hai đứa sẽ cùng đi chiến đấu. Tôi còn lưu luyến chưa muốn đi, thì bỗng một hôm có súng nổ, rồi có tiếng loa kêu gọi. Sau đó, tôi nghe người ta đồn là bộ đội của ông Bảy Thâm. Sau cái đêm đó, nhiều đêm tôi không ngủ được. Tôi cứ nhớ mãi cái bài hát trong tiếng loa lúc im tiếng súng. Giọng hát nghe không hay, nhưng bài hát ấy đã thôi thúc lòng tôi:

“Mùa thu rồi, ngày hăm ba...

Trước mặt tôi cứ hiện lên một đoàn quân với một người chỉ huy oai dũng và anh hùng. Lòng yêu nước của tôi đã dâng lên như một cốc nước đầy. Và cái tiếng hát đêm ấy như những giọt nước rỏ vào. Cốc nước tràn ra. Thế là tôi bỏ nhà ra đi. Trước khi đi, tôi có gặp cô ta. Tôi nói:

- Nhung! Thôi, xin tạm biệt em. Anh đã đến lúc phải ra đi rồi. Một ngày nào đó, không xa lắm, anh sẽ trở về. - Hoài Nam dừng lại, tay lướt qua dây đàn, rải ra một âm điệu buồn. Tiếng nhạc tan ra và những âm thanh ấy gợi lại cho anh hình ảnh của cô gái. Mắt anh nhìn vào khoảng không một cách đắm đuối. Bảy Thâm cựa mình. Anh đang sốt ruột chờ nghe đoạn cuối.

- Rồi sao nữa? - Anh hỏi.

- Rồi, tôi ra đi. Tôi tìm gặp cơ quan huyện. Người ta định điều tôi về ban tuyên truyền huyện, nhưng tôi không chịu. Người ta lại điều tôi về bộ đội số ba mươi ba tôi cũng không chịu. Người ta hỏi tôi:

- Anh muốn đi bộ đội nào?

- Tôi muốn đi bộ đội ông Bảy Thâm.

- Bộ đội ông Bảy Thâm nhiều rồi, bộ đội khác đang cần người, bộ đội nào mà không phải bộ đội.

- Nhưng tôi thích bộ đội của ông Bảy Thâm hơn.

Sau đó, tôi bỏ cơ quan huyện, hỏi thăm nhân dân bộ đội ông Bảy Thâm. Thế là người ta bắt tôi và giao cho anh, anh có còn nhớ không anh Bảy?

Bảy Thâm mỉm cười, cố che giấu niềm kiêu hãnh đang hiện dần lên vẻ mặt.

Bảy Thâm vốn là người nông dân. Hơn nửa đời người quần quật vì miếng cơm, manh áo, anh chẳng bao giờ được ai vuốt ve và phỉnh nịnh. Bây giờ, là người chỉ huy trưởng của một đơn vị, tên tuổi anh nổi như “cồn”. Đi đâu anh cũng nghe những lời ca ngợi, những cử chỉ khâm phục, có cả lời phỉnh nịnh. Cuộc đời anh phơi phới lên như diều gặp gió. Lúc đầu, anh thấy ngượng nghịu vì những lời ca ngợi ấy, nhưng rồi dần dần, nó như đã thành cái lẽ sống của anh. Lời ca ngợi của Hoài Nam đối với anh, anh thấy có giá trị hơn những lời ca ngợi của anh em khác. Hoài Nam là con nhà giàu, có học, đã học đến “đíp lôm”, một con người như thế mà bây giờ đã thấy sung sướng khi được dưới quyền chỉ huy của anh! Chỉ nghĩ đến điều đó, ruột gan của anh cũng đủ nở to lên rồi. Có Hoài Nam trong đơn vị, anh lại càng được nổi danh hơn. Từ ngày có Hoài Nam, nhân dân càng khen ngợi đơn vị của anh nhiều hơn. Bộ đội ông Bảy Thâm đánh giặc cừ mà diễn kịch cũng hay! Đến đâu, sau một trận đánh là sân khấu được dựng lên. Bảy Thâm lại có dịp đứng lên trước sân khấu, trước mặt hàng nghìn người, nói một vài câu trước khi mở màn và được nghe tiếng vỗ tay vang trời. Và Bảy Thâm được ngồi ghế danh dự. Bảy Thâm được nghe người ta xì xào nhắc đến cái tên của mình.

Sung sướng, Bảy Thâm cầm lấy bàn tay của Hoài Nam. Hai bàn tay thật khác nhau: một bàn tay to lớn, xù xì đầy chai, một bàn tay nhỏ với những ngón thon dài và dịu mềm. Anh nhìn mãi cái bàn tay của nhạc sĩ. Mỗi lần ra trận, anh đều bảo Hoài Nam:

- Hãy coi chừng cái bàn tay của anh đấy!

Trong những cuộc chiến đấu gay go, anh thường ra lệnh cho Hoài Nam phải nằm sâu dưới hầm. Anh sợ Hoài Nam bị mất bàn tay, cái bàn tay dịu mềm khi lướt qua cung đàn thì xao xuyến cả lòng người. Hai bàn tay to lớn của anh ấp lấy bàn tay nho nhỏ của Hoài Nam.

- Hát cho anh em nghe một bài đi! - Anh bảo, mắt lim dim.

Hoài Nam ngồi thắng lại, dây buộc đàn móc qua vai, hai tay anh ôm lấy đàn một cách hững hờ. Bàn tay của anh buông ra từng tiếng nhạc. Một âm điệu buồn, từng tiếng, từ trầm đến thanh, nối theo nhau rơi ra và âm vang trong lòng người.

Ta chiến tranh vì công

Sa trường hăng hái đi không về…

Đấy là bài hát “Buồn tàn thu”. Những năm đầu kháng chiến, vì còn thiếu bài hát, người ta thường đặt thêm những lời mới cho những bài hát cũ - Bảy Thâm đang mơ màng nghe tiếng hát, bỗng thấy những bước đi băn khoăn và vẻ mặt bối rối của Phát, lòng anh bỗng nảy lên một niềm vui ác độc, anh mỉm một nụ cười. Bảy Thâm vốn là người nông dân, thất học. Anh nhìn những hiện tượng ở bên ngoài một cách giản đơn, nhưng cương trực và nhiệt tình. Đứng trước một việc gì, anh ít muốn suy xét, không thích một cái gì rắc rối và phức tạp, anh chỉ thích giản đơn - thấy sao nói vậy, như anh thường nói - và chỉ hành động theo bản năng. Người lính nào chiến đấu cam đảm thì anh khen ngợi vỗ về, người nào tỏ ra nhút nhát thì anh khinh bỉ ra mặt và đòi tống cổ ra khỏi đơn vị. Ai đánh được nhiều trận, thu được nhiều súng ống, “chiêu binh mãi mã” - danh từ mà anh thường hay nói - thì người đó làm lớn. Lính của ai người ấy giữ, súng của ai cướp được người ấy dùng. Tại sao lại bày ra cái việc biên chế, san sẻ chỗ này chỗ nọ và thuyên chuyển người này thế người kia? Anh thường càu nhàu như vậy và tìm đủ mọi cách để “giữ vững” cái đơn vị của anh. Anh không thích những người chính trị viên. Vì những anh chính trị viên thường hay thuyết phục anh thi hành những mệnh lệnh mà anh không thích, những mệnh lệnh không có lợi cho anh, như mệnh lệnh biên chế và chia xẻ đơn vị chẳng hạn. Và những anh chính trị viên lại thường hay có vẻ lãnh đạo anh. Trong đơn vị, anh là người chỉ huy, thế thì sao anh lại chịu dưới sự lãnh đạo của một anh khác? Tất cả những người trong đơn vị phải dưới quyền của anh, phải phục tùng tuyệt đối những mệnh lệnh của anh. Anh nghĩ vậy và bực tức hằn học đối với những anh chính trị viên. Những anh chính trị lúc ấy, phần lớn là những người không quen với tiếng súng, điều đó cũng làm cho anh có thêm lý do để đả kích. Anh có đủ lời lẽ để thóa mạ những người chính trị viên. “Những thằng đánh giặc bằng miệng - mặt gà mái! v.v...” vì cái tính không thích suy nghĩ những điều rắc rối, anh rất ghét học chính trị. Giặc vào thì đánh, tại sao lại phải học chính trị? Chính trị không cản được đầu xe tăng! Tại sao lại phải học những bài cách mạng dân tộc giải phóng? Nó cướp nước mình thì mình đánh nó! Anh lập luận như vậy. Có một lần, anh làm một chuyện thật buồn cười, nhưng cũng lại nổi danh. Một hôm, anh đem đốt tất cả sách chính trị và cho vào thùng nước uống. Anh em lấy làm lạ, hỏi anh, anh đáp lại một cách thản nhiên:

- Học làm gì cho nó mệt, cứ uống vô bụng cho thấm vào xương thịt, học như vậy mau và chắc hơn!

Những anh lính cùng một tính như anh, lấy đó làm thích thú và họ dựa vào uy tín của anh mà bỏ học chính trị. Người chính trị viên cũ bất lực, nên đã xin về một đơn vị khác. Bảy Thâm hơi hối hận, nhưng lại hài lòng và thấy nhẹ người. Sau đó, cấp trên điều Phát về. - “Lại một thằng gà mái!”. Nghe anh thư ký đọc công văn, anh lẩm bẩm, rồi giật lấy tờ công văn vò nát. Nghe nói đến chính trị viên là người anh mất hết bình tĩnh. Nhưng lần đầu gặp Phát, anh thấy có cảm tình. Đứng trước hàng quân, khi được giới thiệu, Phát có một cái vẻ oai vệ của nhà quân sự. Người Phát to khỏe, gương mặt hơi dài, cằm to, trán rộng và nước da bánh mật. Gương mặt anh vừa có vẻ gan dạ, vừa có vẻ thông minh. Cái dáng vẻ của anh không mảnh khảnh, không thư sinh, không có gì quá khác lạ với những anh lính. Nhất là cặp mắt của Phát, cặp mắt sáng và đôi chân mày đậm. Phát đội nón cối hơi nghiêng, vừa oai, vừa có vẻ ngang tàng. Người nhỏ tuổi, nhưng không có cái vẻ trẻ con. Bảy Thâm vốn thích cái kiểu người như vậy. Đứng trước hàng quân. Phát lướt nhìn anh em, cặp mắt sáng lấp lánh, không có chút rụt rè, mặt anh đanh lại, anh không nói với cái giọng diễn thuyết dài dòng. Nhìn lướt quân ngũ một lúc, Phát nói:

- Tôi được cấp trên điều về đây làm chính trị viên. - Giọng của anh nghiêm nghị - Tôi biết, đây là một đơn vị có một người chỉ huy dũng cảm, các đồng chí đã chiến đấu rất dũng cảm. Tôi cũng là con nhà quân sự, tôi không thích nói nhiều. Trong “trận mạc”, rồi chúng ta sẽ hiểu biết nhau nhiều hơn!... - Phát đưa tay chào theo kiểu quân sự, rồi ngước nhìn hàng quân với một vẻ thách thức.

Trong hàng quân, bỗng nổi lên một tràng vỗ tay. “Đây là một đơn vị có một người chỉ huy dũng cảm” - Bảy Thâm sung sướng quá, anh cũng vỗ tay. “Thằng cha này nói nghe được!”. Anh tự nghĩ và thấy có cảm tình ngay với người chính trị viên mới. Anh muốn chạy ra, ôm chầm lấy Phát, nhưng anh kịp kìm lại, anh còn muốn giữ gìn, còn muốn thử thách người chính trị viên trong “trận mạc”. Sau đó không bao lâu, anh đã có dịp hiểu được người chính trị viên mới. Lần ấy, đơn vị anh bị một trung đoàn của quân đội viễn chinh Pháp bao vây. Trên máy bay, dưới xe tăng và trên sông thì tàu chiến. Phải mở đường máu. Đơn vị vừa phá được vòng vây thì anh thiện xạ trung liên bị tử thương và anh thì bị một viên đạn xuyên qua bụng. Vốn anh là người can đảm, anh xé áo buộc vết thương, giữ lấy trung liên, nã vào quân địch. Lúc ấy, Phát vừa đến. Phát giằng lấy cây trung liên và bảo:

- Anh cho đơn vị rút lui đi anh Bảy!

- Tại sao tôi lại phải rút lui? - Anh thoáng nghĩ là Phát xem thường lòng quả cảm của anh. Anh quát lên.

- Anh bị thương rồi! Anh phải đưa đơn vị đi. Để lại đây cho tôi một tiểu đội. Nhanh lên. - Phát cũng quát vào mặt anh. Phát giằng lấy súng, gọi một anh lính, ra lệnh:

- Đồng chí có nhiệm vụ phải bảo vệ anh Bảy cho đến cùng! Nghe chưa?

Bảy Thâm nghe vết thương nhói lên, người muốn lả đi. Nghe Phát ra lệnh cho anh lính phải bảo vệ mình, anh xúc động, muốn ứa nước mắt.

Phát một mình một cây trung liên với một tiểu đội, đã chặn được bước tiến của kẻ địch và yểm hộ được an toàn cho đơn vị rút lui về đến vị trí. Bảy Thâm nằm bệnh viện mất một tháng. Anh vừa mến phục vừa ganh tị với Phát. Anh sợ Phát chiếm mất ảnh hưởng của anh. Anh luôn luôn dò xét và giữ gìn. Nhưng Phát không hề tỏ ra thái độ gì có vẻ tranh giành ảnh hưởng với anh. Đến một nơi nào, cần nói chuyện với nhân dân, Phát cũng nhường cho anh. Phát không như người chính trị viên cũ, ngoài mặt trận thì rúc đầu dưới hầm, về đến vị trí an toàn thì lúc nào cũng tổ chức mét tinh và đứng lên diễn thuyết. Phát luôn luôn tỏ ra nâng niu uy tín của anh. Những lần học chính trị, Phát không bắt anh phải ngồi nghe. Nếu anh em có hỏi thì Phát bảo: “Anh Bảy bận nhiều việc!” Thấy anh em dựa vào thế lực của anh mà bỏ học thì Phát đến tìm anh và bảo: “Anh em bữa nay bỏ học chính trị nhiều quá. - Phát nói với giọng như báo cáo với một cấp trên, anh rất hài lòng và sẵn sàng nghe - Anh em bảo là chỉ huy sao thì lính vậy, tôi nói là anh bận việc, nhưng anh em vẫn không chịu nghe. Nay mai nếu có rỗi, anh nên có mặt để động viên anh em”. - Có mặt để “động viên” anh em? Bảy Thâm thấy hài lòng cái tiếng “động viên” ấy. Ngồi để động viên anh em, đó cũng là nhiệm vụ của người chỉ huy. Anh tự nghĩ một cách sung sướng. Mấy lần ngồi để “động viên”, có dịp hiểu thêm những điều mới lạ. Nghe Phát đặt một số câu hỏi, tự anh, anh thấy không thể trả lời được. Anh em lính thì đáp lại một cách rõ ràng, anh giật mình, vừa xấu hổ vừa lo lo. Sau buổi học, Phát thường bảo anh em: “Có gì không hiểu, các đồng chí cứ đến hỏi ban chỉ huy hoặc hỏi tôi, hoặc hỏi anh Bảy, hoặc hỏi đồng chí Sanh”. Bảy Thâm vừa sung sướng vừa lo sợ. Nếu lỡ như anh em hỏi mình một câu gì đó thì sao? Vì cần giữ uy tín, anh bắt đầu muốn học. Lần học nào, anh cũng có mặt để “động viên”, rồi dần dần, anh thấy ham học. Thâm tâm anh, anh không coi Phát là chính trị viên, anh coi Phát như Sanh người trung đội phó trung thành của anh. Càng ngày, anh càng yêu mến Phát, có khi, anh coi Phát như một người anh, có khi, anh coi Phát như một người em và Phát là cánh tay phải của anh. Nhưng, từ ngày một số tín đồ Hòa Hảo nổi dậy, đi theo giặc, chống lại cách mạng, thì hai người luôn luôn xảy ra những cuộc tranh luận sôi nổi, xung đột đến đỏ mặt, đập bàn, đập ghế, và cuối cùng không ai chịu ai. Nhìn những hành động của tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, hai người có hai ý nghĩ khác nhau. Có một lần, Phát đã nói với anh:

- Đồng bào Hòa Hảo, đa số là bà con nông dân yêu nước, nhưng vì mê tín, nên họ bị lợi dụng, họ bị lầm lạc. Mình không nên thù hằn họ, họ theo giặc nhưng họ không giống như những tên Việt gian khác, mình phải kiên trì lôi kéo họ!

Trước mắt Bảy Thâm, những người tín đồ Phật giáo Hòa Hảo là những con người đáng căm hờn, đáng khinh bỉ và đáng ghét. Họ là đám người bán nước, họ là những con người lố bịch ăn mặc theo lối phường tuồng, họ là kẻ giết người một cách man rợ, họ giết người bằng gươm dao, giết người không gớm tay. Bao nhiêu cái xác hãy còn trôi nổi dưới sông. Bao nhiêu con người bồng bế nhau, dắt díu nhau, bỏ nhà bỏ cửa ra đi. Những cảnh tượng đau đớn ấy cứ ám ảnh anh như cái bóng đen. Cho nên, khi nghe Phát nói những lời đó, thì tay anh thấy ngứa. Anh đập bàn, anh đưa tay nắm chặt bá súng lắc run lên và lồng ngực anh như bốc cháy. Anh hét lên. Anh nói theo cái kiểu thấy sao nói vậy:

- Tụi nó đi theo giặc, giết không biết bao nhiêu đồng chí mà anh còn dám nói nó là yêu nước à? Anh bảo là không được quyền thù hằn nó à? Anh là thằng gì mà dám nói như vậy, hả? Thằng nào đi theo Tây, thằng đó là Việt gian, tôi thì bắn nát óc, tôi tru di tam tộc nó, tôi bắn không còn một con đỏ! Anh không muốn đánh họ, anh đừng có ở bộ đội của tôi nữa. Anh đi mà nói chánh trị với bọn nó. Anh không có ai bị nó giết, anh biết gì là căm thù?

Phát bối rối vì không tìm được lời để thuyết phục, Phát cũng nổi nóng, nhưng anh cố ghìm lại. Phát nhìn anh với cặp mắt sắc và lạnh lùng, hỏi lại:

- Thế còn anh? Anh cũng như tôi, gia đình anh có ai bị giết đâu?

Bảy Thâm giận tím cả mặt, đưa tay vỗ vào ngực:

- Nhưng tôi là người yêu nước! Tôi căm thù những thằng bán nước!

Phát biết mình hỏi sai, nhưng anh cũng cứ cãi lại:

- Thế còn tôi, tôi không phải là người yêu nước à?

- Điều đó tôi còn phải coi lại.

Phát mỉm cười. Thế là hai người tìm cách bỏ đi, không ai thuyết phục ai và cả hai đều khổ tâm.

Những sự xung đột như vậy, không chỉ xảy ra lúc nghỉ quân, mà xảy ra ngay cả lúc chiến đấu. Trong chiến đấu, Bảy Thâm khi thì ra lệnh, khi thì cho phép, khi thì làm ngơ cho anh em mặc tình hành động: đốt nhà, bắn bừa và đập đổ bàn thờ. Còn Phát, khi thì ra lệnh cấm, khi thì can ngăn, khi thì khuyên lơn anh em. Và trong chiến đấu, nếu gặp phải lực lượng quần chúng nhân dân thì anh đề nghị rút lui.

- Bộ đội của Bảy Thâm mà rút lui à? Anh nào nhát gan thì cứ bỏ súng lại đây, rút đi!

Không cưỡng được mệnh lệnh của anh, Phát ngầm bảo anh em bắn chỉ thiên và chỉ chiến đấu thực sự khi cần phải tự vệ. Dần dần, đơn vị của Bảy Thâm như chia ra làm hai: một bên theo Bảy Thâm, một bên theo Phát. Số người của Phát ít hơn, nhưng hầu hết là đảng viên. Bảy Thâm thấy rõ tình trạng đó. Bao nhiêu thiện cảm của anh đối với Phát đều tan biến đi. Nhiều lần, anh cũng muốn Phát xin chuyển về một đơn vị khác như người chính trị viên cũ. Nhưng Phát lại là một anh chàng gan lì và quần chúng của anh mỗi ngày mỗi thêm đông. Bảy Thâm thấy rõ cái tình trạng đổ vỡ đã sắp đến nơi rồi. Anh bực dọc, hằn học, nhưng không làm gì được. Có lần, anh đã nói thẳng với Phát:

- Bây giờ, chúng ta chia bộ đội ra làm hai đi! Cứ tập họp bộ đội lại, hỏi người nào theo anh thì đứng ra bên trái, người nào theo Bảy Thâm thì đứng qua bên phải. Rồi của ai người ấy chỉ huy.

Phát cười:

- Tại sao lại chia ra làm đôi. Bộ đội này là của anh, anh là người chỉ huy. Anh phải chỉ huy anh em chứ?

- Tôi là chỉ huy, nhưng tại sao anh em không tuân theo mạng lệnh của tôi, hả?

- Đó là nhiệm vụ của anh, anh phải thuyết phục anh em!

Bảy Thâm nổi nóng, hét to:

- Thuyết phục? Gặp giặc thì phải đánh, còn thuyết phục cái gì nữa?

- Những lần như vậy là anh em thấy những người ấy không phải là giặc, mà là đồng bào của mình.

- Không phải giặc thì cái gì hả?

Thế là hai người lại to tiếng với nhau. Và cuối cùng không ai thuyết phục được ai, hai người lại tìm cách bỏ đi. Tình trạng ấy cứ kéo dài. Nội bộ ban chỉ huy mất đoàn kết, anh em cũng mất đoàn kết. Cả hai đều muốn kết đơn vị lại thành một khối, nhưng cả hai đều hành động theo ý nghĩ riêng của mình. Cái kẽ hở của đơn vị mỗi ngày mỗi to ra.

Trong ngày hôm nay, khi nghe tin Sáu Sỏi bị bắt và sắp bị giết, Bảy Thâm vừa thấy tội nghiệp cho Phát, vừa thấy đó là một dịp để đánh gục cái tư tưởng của Phát. Thử xem, nó sẽ nghĩ về những thằng Hòa Hảo Việt gian ấy như thế nào? Có giỏi thì nói chính trị nữa đi?

Nhìn cái vẻ băn khoăn của Phát, Bảy Thâm không giấu được nụ cười.

Phát đang đi đi lại lại, nghe tiếng đàn, anh quay lại. Anh thấy rõ cái nụ cười ác độc của Bảy Thâm. Trong đơn vị, anh thuộc tâm tính từng người một. Anh hiểu Bảy Thâm đang nghĩ gì về mình. Anh thấy khổ tâm.

Mẹ mất sớm, cha đi hoạt động cách mạng, sớm lập thân, vì miếng cơm manh áo, trải qua nhiều nỗi lao đao và được dịp nghe những câu chuyện của những nhà cách mạng, anh sớm hiểu được đời sống của nhiều người. Anh nhớ mãi một cuộc chiến đấu. Một buổi sáng, đơn vị anh dừng lại một xóm nhà bên dòng sông nhỏ. Nhân dân Hòa Hảo nghe bộ đội đến, họ đã tản đi hết rồi. Phát đã qua những xóm nhà vừa xảy ra những cuộc chiến đấu hoặc những cuộc ruồng bố của địch, những ngôi nhà bị cháy, khói còn ngui ngút, một bãi tro đen, những cột kèo bị cháy đứng chơ vơ, tàng cây bị úa, thân cây nằm vắt qua đường, một cái xác chết, một vũng máu còn tanh, mùi thuốc súng còn khét, nhưng anh không bị xúc động bằng cái cảnh hoang của xóm này. Nhà của họ vẫn còn đấy, những ngôi nhà nhỏ nằm nấp dưới bóng cây. Cái sân nhà sạch bóng, điểm một vài chiếc lá vừa rơi. Con đường đất chạy xuyên qua xóm cũng sạch bóng, một đôi chỗ hãy còn dấu vết của đường chổi vừa mới quét và hoa lá vừa rơi rụng. Những tàng cây vô tư lự, xòe lá đón mặt trời. Trong ánh nắng rực rỡ của ban mai, cái cảnh hoang vắng của xóm nhà càng hiện rõ lên. Nhà vắng, đường vắng, dòng sông lạnh và đồng không. Không nghe một tiếng gà, không nghe một tiếng chó. Tất cả đều im lìm. Chỉ còn có khói hương trên những bàn thông thiên trước sân nhà là hãy còn nghi ngút, rồi cũng phảng phất và mất, những cái tàn uốn cong lại. Họ mới vừa đi đấy thôi. Và trước khi đi, họ hãy còn van vái.

Một cảm giác lạnh lẽo và kỳ lạ xâm chiếm lấy tâm hồn anh. Anh thấy mình như đi vào một cái bẫy, anh vừa thấy sợ vừa chua xót. Anh em lính cũng chẳng nói với nhau một điều gì, họ đi nhẹ bước nhưng gấp rút và lặng lẽ.

Dưới bến không một chiếc xuồng. Đơn vị dừng lại dưới bãi, đang tìm cách qua sông thì, bỗng có tiếng tù và rú dài lên, và một tiếng súng nổ, “bốc bùm”, và cũng chỉ một tiếng súng thôi, cảnh vật lại vắng lặng và nặng nề hơn. Anh em đều biết đó là tiếng súng của tín đồ Hòa Hảo. Một tiếng súng nổ rồi im, Phát thấy sợ hơn là những loạt súng điên cuồng của quân đội Pháp. Một tiếng nổ rồi im. Sự im lặng ấy sẽ xảy ra điều gì, và từ đâu đến? Xương sống anh rợn lên. Sau đó một lúc, thì bất thần, tiếng gào thét bỗng dậy lên từ cánh đồng. Đơn vị liền tản ra chiếm lấy những bờ mương. Ngoài cánh đồng, từ xa, một làn sóng người đang chen chúc nhau tràn đến. Gươm, giáo trên tay họ sáng lấp loáng. Họ mặc quần áo màu già và phất một lá cờ già. Đàn ông, đàn bà, nam, nữ, ông già và trẻ con đều có. Họ là nhân dân. Họ không có súng. - Chắc là họ chỉ có một cây súng và một viên đạn thôi.

- Bắn chỉ thiên. - Phát ra lệnh cho những tiểu đội ở gần anh.

- Bắn chỉ thiên. - Bảy Thâm cũng ra lệnh cho những tiểu đội ở gần anh.

Cùng một mệnh lệnh nhưng hai ý nghĩ khác nhau. Phát không muốn bắn vào họ. Còn Bảy Thâm, anh muốn để họ đến gần, cho vừa tầm súng, rồi quét họ ngã hàng loạt.

Nghe tiếng súng, cái lớp người ấy không tan ra, mà lại hùng hổ hơn. Họ gào thét to hơn và tràn đến như một cơn dông, mỗi lúc một gần. Không thể để cho đến gần. Tất cả họng súng đều hạ xuống ngay tầm ngực của họ. Một lớp bị ngã. Lớp sau xô nhau tràn đến. Cuối cùng, tất cả đều rút chạy hết chỉ còn một người thanh niên tay cầm ngọn kiếm cứ hăm hở lăn vào tiếng súng như lân mừng tiếng pháo.

- Đừng bắn! Bắt sống lóc thịt nó! - Có một anh hét lên.

Nhưng người con trai ấy vừa đến trước mắt Phát, nhỏm dậy, vung ngọn kiếm thì có một tiếng nổ. Người con trai đầu chít khăn xanh có thêu hai chữ H ấy lảo đảo, buông rơi ngọn kiếm, một tay bịt lấy vết thương trổ qua tim, một tay xòe ra đưa lên ngang ngực như lúc niệm Phật. Miệng anh lẩm bẩm, giọng run run “Nam mô a di đà Phật!” Anh nằm xuôi xuống, rồi bỗng như chợt nhớ một điều gì cần phải làm trước khi chết, anh cố vùng dậy, nhưng người chỉ uốn cong lên, một tay cất lên run lẩy bẩy, phều phào trong tiếng rên: “Việt Nam - độc lập - vạn tuế!” Anh nằm xuống, buông xuôi, bất động và mặt tái xanh. Ánh nắng rực lên cái xác của anh, những ngọn cỏ dài cúi rạp, lất phất qua gương mặt non trẻ của anh. Nhìn cái chết ấy, Phát đau nhói cả ruột gan và rủn cả người. Đôi mắt anh nóng ran và mờ đi. Anh muốn cúi xuống, ôm lấy cái xác người thanh niên Hòa Hảo ấy, muốn lay anh tỉnh dậy và muốn nói: “Anh đã lầm rồi!” Họ chết cho kẻ thù, mà họ cứ tưởng là họ chết vì đạo vì Tổ quốc!

Nhớ cái chết của người thanh niên ấy, anh cứ nghĩ đến những ngày đen tối của dân làng.