Chương X
Những ngày đen tối ấy là những ngày cuối năm 1944 đến giữa năm 1945.
Hễ qua một tin đồn, qua một tai nạn xảy ra, thì người làng lại rủ nhau vào đạo. Ngày thường, ô tô Sài Gòn Nam Vang cặp bến một ngày một lần. Sau khi Sài Gòn bị máy bay Huê Kỳ bỏ bom, ô tô từ Sài Gòn chạy về mỗi ngày mươi chuyến, hai mươi chuyến. Tàu cặp bến một ngày hai ba chuyến. Tiếng còi tàu rúc lên nghe như tiếng thét báo động. Tàu cũng như xe, chuyến nào cũng chật ních những gia đình tản cư. Xe ngựa đưa các gia đình chạy loạn ấy về các xóm, xe trước xe sau cứ nườm nượp. Những người đánh xe không biết vì muốn tranh nhau đi nhiều chuyến hay vì bị sợ lây mà họ mất tất cả bình tĩnh. Họ không ngồi trên nệm mà giữ cương nữa. Người đánh xe nào cũng đứng lên, tay lúc nào cũng vung roi quất “rong róc”, rồi bóp kèn, thét ngựa phi nhanh đòi vượt qua xe trước. Tiếng vó ngựa không còn giữ được nhịp điệu giòn giã êm tai nữa. Vó ngựa nghe như loạn, mặt đường lúc nào cũng bốc bụi mịt mù. Thấy những chuyến xe ấy, người ta có cảm tưởng như chiến tranh đang đuổi theo họ và đã sắp đến nơi rồi. Những gia đình chạy loạn ấy, họ mang về cho người làng tất cả tai nạn của chiến tranh trong cách đi cách đứng, cách nói năng và những câu chuyện của họ. Lúc nào và gặp ai họ cũng kể lại cảnh bị bom của Sài Gòn. Họ kể: Ngày ấy, tiếng máy bay rền cả trời đất. Còi báo động nghe như xé tai, xé óc. Tiếng bom như tiếng sấm. Đất rung rinh. Nhà lắc qua lắc lại như đưa võng. Nhà nào không sập thì kiến cũng rạn nứt hết. Những cây me hai bên đường to bằng hai người ôm bị mảnh bom cắt ra làm đôi. Mảnh bom cắt thân cây không bị bựa một tí nào, mặt gỗ bị chém đứt láng trơn như bào vậy - Cây cối còn bị chém đứt như vậy, đầu của con người thì còn ra cái gì nữa? - Người đứng nghe chêm vào một câu, tắc lưỡi và thở dài - Còn người thì bị chết một cách kinh khủng: người bị nhà đè lòi cả ruột gan, người bị chia làm hai ba khúc, người bị tan ra, tay chân bị văng ra móc tòn teng trên các ngọn cây và rơi xuống từng giọt máu trên mặt đường. Mỗi lúc có còi báo động, người ta đạp lên nhau mà chạy, ô tô phóng trên mặt đường như tên, chẹt ai cũng chẳng biết. Sau mỗi lần báo động, người ta bảo nhau đi tìm trẻ con bị đạp chết...
- Bây giờ, ở Sài Gòn, tất cả các vườn hoa đều đào hầm núp. Người nào có bà con gốc gác ở lục tỉnh thì kêu bán nhà bán cửa, bán đồ đạc, bán đổ bán tháo - Cái tủ bằng gỗ giá bán hai trăm bấy giờ chỉ bán hai mươi đồng - để thu vén chạy về quê. Bọn lưu manh thừa nước đục thả câu. Vé tàu vé xe về lục tỉnh phải mua lậu, mỗi vé đắt gấp ba gấp bảy ngày thường. Bọn lưu manh thừa cơ ấy, giả làm nghề đi xách mướn, va li vừa trao tay cho chúng là chúng biến mất. Có người vừa khóc vừa trở lại cái nhà trống trải của mình chờ bom nổ để chết cho rồi! Cũng bọn lưu manh ấy, chúng kéo vào các tiệm ăn, cứ ngồi ăn mãi, ăn “giò chéo quảy xí mại”, xong rồi lại ăn bánh bao, ăn bánh bao xong lại uống cà phê sữa, uống cà phê sữa xong rồi lại uống chè tàu ăn bánh ngọt, chúng ngồi mãi, đợi có còi báo động là đá bàn, đá ghế chạy mất, chẳng phải trả tiền - Đúng là cảnh ly loạn thật! Người nghe lại chêm vào một câu và lại thở dài... Và không biết bao nhiêu chuyện đáng sợ khác nữa. Cũng trong lúc ấy, tin đói của miền Bắc lại tràn vào. Chỉ nghe chứ chẳng ai thấy, những người xầm xì kể cho nhau nghe như là người ở Bắc mới chạy đói về làng vậy. Người ta kể: một bà mẹ kiệt sức ngã ra chết một bên đường, miệng còn ngậm cỏ đã héo khô, quần áo rách như xơ mướp, người dẹp xuống như con khô mực, bao nhiêu khớp xương trong người đều nhô ra, hai gò má nhọn như hai cái bánh ú. Kiến khoét cả hai mắt. Đứa con không biết mẹ mình đã chết cứ bò quanh theo xác mẹ đòi bú. Đàn kiến ở trong hai hố mắt của người mẹ bị động, bò ra khắp người đứa bé. Đứa bé như mặc một chiếc áo màu vàng. Đứa bé bị kiến cắn, da thịt rúm lại, rồi ngã lăn ra bên xác mẹ... Người ta bảo bọn Nhật lấy lúa đem đốt thay cho than đá. Người ngoài Bắc chết như rạ, thây người nằm chật đường.
Trong những nhóm dụm ba dụm bảy, kể cho nhau nghe những chuyện ấy, thỉnh thoảng có một người thở dài và kêu lên những tiếng than:
- Quả là sắp đến ngày tận thế rồi!
Và những người có đạo lại lim dim mắt, đọc chen vào một vài đoạn kinh thơ:
Trong lục tỉnh nghe rền tiếng nổ
Khắp thị thiền không chỗ nào yên
Sài Gòn tiếng nổ đầu tiên
Làm cho các tỉnh ngả nghiêng tan tành...
Người chạy loạn từ Sài Gòn về mỗi ngày một đông, câu chuyện về những tai nạn của chiến tranh của nạn đói càng ngày càng nhiều. Giá gạo, giá củi cũng như thịt cá rau cải ở thị trường mỗi ngày mỗi tăng cao. Ruộng bị bỏ hoang, đời sống của tá điền càng ngày càng eo hẹp, cái gì còn lại trong nhà cũng đem ra bán. Nhiều tá điền mang một ít vàng của ông bà để lại đem ra chợ bán, lấy tiền, bơi xuồng qua những làng bên Tháp Mười mua về một ít lúa - Người làm ruộng bây giờ lại phải đi mua lúa!
Có một đêm Phát gặp Hằng dưới gốc cây vông, Hằng nắm lấy tay Phát bảo:
- Anh sờ vào tai em thử xem!
- Gì đấy em?
- Đôi bông (1) của em bán rồi!
Và Hằng khe khẽ lắc đầu rồi ngả đầu vào ngực anh, hình như muốn khóc. Phát vuốt mái tóc Hằng, an ủi:
- Thôi em đừng buồn. Đến đám cưới, anh sẽ bảo bác Hai làm cho em một đôi đẹp hơn.
Hằng lắc đầu:
- Không phải em muốn nói với anh như vậy đâu. Nhà không còn gì nữa. Em sợ nhà em rồi sẽ đói!
- Không đói đâu.
- Sao anh biết?
Phát chẳng biết nói sao, chỉ biết lo buồn và đứng im.
- Nếu nhà em bị đói, em sẽ ốm (2), tóc của em sẽ bị rụng, tóc của em không dài nữa, em sẽ... anh có còn thương em nữa không, hở anh?
Hằng không nói được những tiếng bị nghẹn, nhưng Phát hiểu Hằng muốn nói rằng mình sẽ xấu đi, lòng anh nao nao, anh thấy thương Hằng quá. Anh cúi hôn nhẹ lên mái tóc Hằng:
- Anh lại càng thương em nhiều hơn chứ!
- Có thật không anh? Nếu mà như thế thì em không cho anh thấy mặt nữa đâu!
- Em đừng sợ! Không đói đâu.
- Vì sao anh biết?
- Rồi em sẽ thấy.
- Thật hở anh?
- Thật!
Hằng liền ngửa mặt, nhìn vào đôi mắt của Phát. Phát thấy rõ ánh sáng từ đôi mắt u buồn của Hằng lóe ra lấp lánh. Anh không thể quên được cái nhìn hy vọng ấy của Hằng...
Những ngày ấy, đời sống của dân làng mỗi lúc mỗi nghèo. Trước đấy, đêm đêm, những nhà giàu thắp đèn “măng sông”, nhà kém hơn thì thắp đèn khí đá, còn tất cả thì thắp bằng đèn dầu lửa: đèn hoa kỳ, đèn trứng vịt. Lúc ấy, dầu lửa, khí đá không còn. Đêm, người ta thắp đèn bằng mỡ heo. Đèn là một cái chén hoặc một đĩa bể, đựng một ít mỡ và tim đèn là một sợi giẻ rách được xe lại. Ngọn đèn nhỏ như hạt đậu leo lét mập mờ. Ánh sáng của ngọn đèn như ánh sáng của cuộc đời vậy(!) chẳng biết tắt vào lúc nào!
Số phận của con người bị thay đổi như lật bàn tay. Kẻ giàu người nghèo, kẻ được trọng người bị khinh hầu như bị lật ngược lại. Ở chợ có ông Hai Song, một mình mà làm không biết bao nhiêu thứ chủ: chủ xưởng sửa chữa ô tô xe đạp, chủ tiệm cầm đồ, chủ tiệm may, chủ chợ... Ông là một trong những người nổi bật nhất trong làng. Người ông to lớn, đầu hớt trọc, bụng to. Có lẽ vì bụng ông to quá, nên ông ít khi mặc quần, ông thường vận chiếc xà rông tơ và có lẽ vì béo quá, mỡ nhiều, ông cũng ít khi mặc áo, ông chỉ mặc một thứ áo lót ba lỗ thôi. Ngang hông ông thắt sợi thắt lưng da mỏng và đeo một xâu chìa khóa, ông đi đến đâu, chùm chìa khóa kêu xủng xẻng đến đấy. Người lôi thôi như vậy, nhưng ông đi đến đâu người ta chào đến đấy: “Ông Hai, chú Hai, cậu Hai, bác Hai”. Trong làng có đình đám gì, các vị trong hội tề cũng đều nài nỉ ông đến dự. Ông ngồi đâu, nổi bật lên đến đó, to béo và thù lù như ông địa. Người xuềnh xoàng vậy, chẳng những giàu mà lại học cao nữa. Người làng bảo ông ta nói tiếng Tây nghe như chim chìa vôi. “Cò mi” ở làng và quan quận Ghiđi người Tây mà nói tiếng Tây không đúng “luật lệ” bằng ông ta. Thật ra thì ông ta chỉ nói tiếng bồi thôi. Đồng tiền đã làm sáng thêm cái tài học của ông! Ông ta có hai vợ, hai dòng con. Mỗi vợ ở một nơi. Vợ lớn ở phố, vợ nhỏ ở ngoại ô. Hai bà vợ và hai dòng con của ông ta sống với nhau rất êm ấm. Hai dòng con của ông ta, trên dưới mười hai người, năm trai bảy gái. Các cô gái cô nào cũng diêm dúa, vòng vàng nữ trang lúc nào cũng đỏ cổ đỏ tay, nay kiểu này, mai kiểu khác, Sài Gòn có kiểu nào, các cô có kiểu ấy. Đi đâu, người ta cũng thấy các cô, không cô này thì cô nọ. Con của ông ta cô nào cũng xảnh xẹ. Còn các cậu con, đứa đi học ở tỉnh, đứa đi học ở Sài Gòn. Mùa hè, ông cho xe đến tận các trường đón con về. Các cậu về làng thôi thì phải biết. Cách sống của các cậu thật khác thường. Các cậu đi câu cá bằng ô tô mui vải. Các cậu hát nhạc Tây. Ban đêm quay đĩa hát Tây, các cậu ôm lấy các em gái mà nhảy đến giữa khuya. Người ta hơi ngờ con trai con bà lớn “tò tí” với con gái con bà nhỏ. Và các cậu đi phá gái làng.
Người ta chẳng hiểu ông ta bị phá sản vào lúc nào.
Đến những ngày ấy người ta chỉ thấy các cửa tiệm, cửa xưởng của ông đều đóng cửa. Xưởng sửa chữa của ông chỉ còn là căn phố trống. Ông kêu bán từng thanh sắt. Ngôi nhà sàn của bà vợ nhỏ ở ngoại ô, ông cũng kêu bán, cả hai bà vợ về ở chung. Chủ chợ ông nhường cho anh Bảy Chà và đen. Bảy cô con gái ông ta bán vòng bán vàng đi lúc nào chẳng ai biết, cả bảy cô đều xoay ra nghề bán bánh kiếm ăn. Cô bán bánh kẹp, cô bán bánh tầm, cô bán cháo, cô bán trái cây, cô nhỏ nhất thì bán thuốc lá. Mỗi cô ngồi một góc chợ, vừa đứng bán, vừa xấu hổ không dám mời mọc, không dám nhìn mặt người mua, khăn trùm kín cả mặt. Còn hai cô đẹp nhất, diêm dúa nhất, nghe nói đã đi làm tiền ở đất Sài Gòn. Các cậu con trai không hiểu đi đâu, chẳng thấy về. Có người bảo anh đi làm thư ký, anh đi đánh đàn cho người ta nhảy, anh đi dạy học ở trường tư, một anh không nghe tông tích, còn một anh thì lang thang chẳng biết làm gì. Hai bà vợ của ông ta cũng chẳng êm ấm với nhau nữa. Hai bà đã đánh nhau, xé tan cả áo của nhau, bà lớn xách guốc đuổi bà nhỏ chạy cùng các phố. Người ta cũng chẳng nghe thấy tiếng xủng xẻng của xâu chìa khóa ông ta nữa.
Suốt ngày ông ta ngồi ru rú trong nhà.
Một anh thợ, trước làm công cho ông ta, bây giờ lại phất lên. Anh thợ ấy đã mua lại chiếc ô tô mui vải của ông. Chiều chiều, anh thợ ấy, chở cả con cái chạy khắp cả làng, chạy đến đâu kèn bí bo tò te đến đấy. Cô gái ở trong nhà ông, người ta chẳng để ý cô bé ấy lớn lên vào lúc nào, trong những lúc ấy, người ta thấy cô bé Nhung ấy bỗng trở nên đẹp nhất làng. Những trai làng, trước đã mê các cô con của ông, bây giờ lại đâm mê người con gái ở của ông. Chuyện gia đình ông Hai Song làm xôn xao cả chợ cả làng. Trong làng, có một số nghèo đã bỏ đi, lúc ấy, khi trở về, mỗi người có mỗi kiểu phất khác nhau, ở chợ có một “lăng-ton” của nhà việc. Anh tên Dẫm, người không cao lắm nhưng gầy nên thấy cao lêu nghêu như sậy, lúc nào cũng mặc cái quần “soóc” ka ki vàng lốm đốm những miếng vá. Làm lăng ton, anh luôn luôn bị hội tề sai vặt, bị chửi bới và đánh đập. Làm nghề lăng ton không khá, không đủ nuôi vợ con, anh xin ra làm bồi cho nhà ngủ. Làm bồi cũng không khá, anh đâm ra ăn cắp, rồi bị bắt, bị đóng trăng. Mãn tù, anh bỏ đi đâu chẳng biết, khi trở về, anh mặc quần áo nhà binh Nhật, đội mũ Nhật, gươm đeo bên hông, kéo rà rà dưới mặt đường. Hội tề gặp anh cứ lấm lét. Có người thấy gươm anh, sợ quá, chắp tay chào. Như thế anh thấy chưa đủ, anh còn rút gươm ra rồi lắp gươm vào, hếch mặt, cười cười rồi lại lê gươm đi nơi khác. Anh trả thù lại họ bằng cách đi vay tiền. Anh vay bao nhiêu, họ đưa bấy nhiêu, chẳng dám nói một lời.
Lúc nào người ta cũng thấy anh mang gươm đi nghênh đi ngang ở giữa các đường.
Những chuyện ấy làm xôn xao cả chợ cả làng. Những người tín đồ Hòa Hảo lấy những chuyện đó để nói rằng: Đã sắp đến ngày đổi đời rồi, y như lời dạy của kinh sấm. Họ đọc ra những câu kinh sấm, dẫn chứng bằng những chuyện ấy.
Cuộc trần thế khuyên ai sớm ngắm,
Danh mà chi lợi lắm mà chi,
Bả công danh bọt nước có ra gì,
Mùi phú quý vừng mây tan hiệp...
Cùng trong lúc ấy, tín đồ Hòa Hảo lại đồn ra một tin: Ngày tận thế sắp đến rồi. Ngày ấy sẽ đến trong những ngày đầu năm 1945 này. Ngày ấy trời đất sẽ tối mịt mù, trời đất sẽ tối sầm lại trong ba ngày đêm liền. Trong cái đêm dài ấy, bọn quỷ sẽ đi bắt hồn những người ngoại đạo. Tin ấy, người ta nói đi nói lại mỗi ngày mỗi nhiều. Chuyện về những tai nạn của chiến tranh, của nạn đói mỗi ngày mỗi ít đi, người ta có nhắc đến là để lấy đó làm bằng chứng để chứng minh cho ngày tận thế. Ngoài chợ, ngoài đường, trong nhà, các tiệm ăn, bóng cây, bến xe, bến tàu, đâu đâu hễ chỗ nào có nhóm ba nhóm bảy là người ta nói với nhau về cái tin đồn ấy. Người ta nói với vẻ mặt lo lắng và sợ sệt. Tin ấy như một đám mây đen kéo đến, xâm chiếm tất cả tâm trí mọi người. Đôi mắt của dân làng trở nên tăm tối và u buồn. Và người ta lo chuẩn bị cho cái đêm dài ấy. Lão Ịnh, Quản Dõng và người trong đạo bảo nhau: “Đêm ấy, nhà không được có khói. Hễ có khói thì quỷ sẽ vào”. Thế là người ta bảo nhau làm lương khô. Người ta xay bột làm bánh tổ, phơi cơm và chen nhau mua cá làm khô. Người ta tranh nhau đi mượn cối xay, nếu không mượn được thì mướn. Những chiếc cối xay của những gia đình sống bằng nghề bánh tầm, bánh xèo, bánh khọt... không bao giờ được nghỉ, lúc nào cũng có người ra người vào, bột vây trắng cả áo quần. Trên các sân nhà, nhà nào cũng để phơi ngoài nắng một nia cơm, hoặc một nia cá, một quày bánh tô - Những con người ác nhất, sống không lương thiện thì bấy giờ lại rối rít nhất. Hình như ho biết tội lỗi của ho, nên họ sợ. Nhà Quản Dõng lúc nào cũng có người thay phiên nhau đến xay bột, làm bánh. Quản Dõng đưa bánh tổ lên xe ngựa, đem bố thí cho các gia đình nghèo.
Những người trước đây tỏ ra không mê tín, trong cái cảnh nhốn nháo xung quanh ấy, bây giờ cũng đâm ra lo lo. Họ không hẳn tin, nhưng rồi cũng phơi cơm và làm luôn bánh tổ như tất cả mọi người. Họ bảo khẽ với nhau: “Nếu không có gì thì cũng của mình, có mất đi đâu, nếu có thật thì cũng có mà ăn với người ta!
Những ngày ấy, Phát thấy đàn ông trong làng để tóc mỗi ngày mỗi nhiều, người mặc quần áo màu già mỗi ngày mỗi thêm đông. Người mặc áo trắng, áo hoa bỗng trở thành lạc lõng và xa lạ. Những ngày ấy, gia đình của Hằng đến Quản Dõng và lão Ịnh xin vào đạo, Hằng cũng vào đạo. Trước sự lo lắng của một tình thương mù quáng, anh không nỡ từ chối, nhưng anh cũng không muốn vào đạo. Do đó, anh đã bỏ nhà, bỏ xóm Đình, trở về chợ ở với người khác.
Tất cả sinh hoạt của cuộc sống bình thường đều bị ngưng lại.
Thợ cắt tóc bị thất nghiệp, có người xoay qua nghề làm tóc giả cho những người mới xin vào đạo mà muốn có ngay một mái tóc dài. Thợ mộc dẹp tất cả bàn ghế, lo đóng bàn thông thiên và trang thờ cho những người mới vừa quy y theo Phật. Những người trai tráng trong đạo tập hợp ở các sân học võ, dạy võ và dượt võ để chuẩn bị thành lập một đội quân của nhà Phật. Người ta cầm kiếm, đi ngựa, vác gậy, rủ nhau, kêu nhau nghễu nghến các ngả đường. Có những người thuộc đạo khác bấy giờ cũng đã bỏ đạo của mình mà theo đạo Hòa Hảo. Ông Tám Thế, thầy thuốc Nam, người bé nhỏ, mặt rỗ, trẻ con nghịch ngợm thường hay gọi trêu ông ta là ông Tám té thùng đinh. Ông vốn là tín đồ đạo Cao Đài, thờ một con mắt, lúc nào cũng mặc quần áo trắng, mũ trắng, cổ quấn khăn trắng và giầy cũng trắng - đấy là trang phục của đạo Cao Đài - Gặp ai, trong câu chuyện, bao giờ ông cũng nhắc đến Cường Để. Cường Để đang ẩn náu ở đất “Nhật Phù Tang”. Cường Để là bạn của Thiên hoàng. Quân Nhật sang Đông Dương là quân Cường Để đã mua của Thiên hoàng - Quân Nhật đánh đâu thắng đó, đánh như chẻ tre. Người Nhật là giống da vàng máu đỏ. Người Nhật là người khí khái, dám mổ bụng móc lấy ruột cho mọi người xem. Người Nhật là người có chí lớn. Người Nhật đi học ở các nước Tây, lấy được “âm mưu” làm máy móc của các nước ấy, vì không mang về nước nhà được, có người đã nuốt vào bụng rồi tự vận chết để cho Thiên hoàng mổ bụng lấy ra. Và còn bao nhiêu chuyện khác nữa của người Nhật, gặp ai ông cũng tuyên truyền cái thế lực của Nhật và kết luận: “Nhật sẽ đưa Cường Để về làm vua”. Ấy thế mà lúc bấy giờ ông lại bỏ đạo Cao Đài, xin theo đạo Hòa Hảo. Tấm trần một mắt ở giữa nhà, ông kéo xuống và thay lên đó một tấm trần điều. Hương trầm ông đốt nhiều hơn. Bao nhiêu quần áo trắng ông nhuộm lại màu già, ông nhuộm cả mũ và cả giày nữa. Đi đâu gặp ai, ông cũng bảo: “Có lẽ tôi lầm. Tôi theo đạo Cao Đài gần hết một đời người rồi, mà chẳng thấy gì, bây giờ tôi xin quy y theo đạo Hòa Hảo”. Chuyện ấy cũng làm xôn xao cả làng. Người ta thấy đạo Hòa Hảo như thiêng liêng hơn.
Cuộc sống mỗi ngày mỗi rối lên. Mỗi chuyến ô tô về, mỗi một chuyến tàu cặp bến, bao nhiêu người về chợ, về làng là bao nhiêu thứ tin tức, bao nhiêu chuyện tai nạn của chiến tranh, của nạn đói và đủ thứ lời bàn khác nhau. Người thì ca ngợi chiến thắng của Nga, của Đồng minh, người thì tung hô chiến thắng của Nhật Bổn, người lại bảo rồi đây sẽ xuất hiện một ngọn cờ mới, ngọn cờ của cách mạng, cụ Nguyễn Ái Quốc sẽ trở về, người lại bảo Nhật sẽ đưa Cường Để về làm vua, người lại nói: đền vua sau này sẽ mở ra ở núi Cấm.
Người làng chẳng biết nghe ai và tin ai. Những thứ tin tức, tin đồn và lời bàn ấy từ các nơi thổi về như một con trốt xoáy tròn lấy ý nghĩ và tình cảm của con người. Bảy Hĩ, một ông chủ tiệm buôn hàng tạp hóa, chẳng biết theo ai, bèn cho ba đứa con, mỗi đứa vào mỗi đảng, mỗi phái khác nhau. Đứa con lớn ông cho đi học tiếng Nhật, đứa kế ông cho theo đạo Hòa Hảo, đứa con thứ ba thì ông cho đi tìm đoàn thể bí mật. Còn bản thân ông, ông đứng giữa để mà nhìn “cuộc sống thế” như lời ông nói. Bên nào thắng ông cũng được phần.
Người ta đang xôn xao, rồi bỗng có một hôm cả làng đều nhốn nháo lên một tin đồn: ông đạo Cậy vừa đến làng. Ông đạo Cậy chính là người sẽ thành một con sấu khống lồ trong những ngày tối trời. Người ta bảo: sau ót ông đạo Cậy đã nổi thành vẩy rồi, giống y như vẩy sấu vậy. Ông đạo Cậy đang đứng ở bến xe. Thế là người làng rủ nhau, kéo nhau, kêu nhau, chạy ra bến xe tìm ông đạo Cậy. Người ta chạy bộ, người ta đi xe đạp, người ta đi xe ngựa, chen lấn nhau đổ ra bến xe.
Bến xe đông nghịt hàng mấy nghìn con người. Ra đến nơi, người ta không thấy ông đạo Cậy, người ta không thấy được con người sau ót có vẩy sấu. Người ta bảo: ông đạo Cậy mới vừa lên xe đi đấy thôi. Người ta bảo ông đạo Cậy đi xem lại các dòng sông. Trong số người nhốn nháo ấy như là có người mới vừa thấy ông ấy vậy. Người ta đồn, rồi người ta bàn và người ta tin theo những lời bàn của mình.
Sau đó người ta lại làm lương khô nhiều hơn.
Có những gia đình sợ quá, dỡ cả nhà cửa, bỏ làng, gồng gánh dắt díu nhau về đất Láng Linh, đất Hòa Hảo - đó là những làng được gọi là đất Phật - để được gần với Phật hơn. Người trong nhà thấy vậy, chạy theo họ, hỏi thăm đường đi đến đất Phật, rồi người ta tìm nhau bàn bạc xầm xì, người ta hỏi nhau về con đường sống, sống thế nào, đi đâu và làm gì?
Người ta không muốn sống trên mảnh đất này nữa. Người ta không thể nào ngồi yên đứng yên một chỗ. Đứng chỗ này một lúc, nói một vài câu về ngày tận thế, rồi bỏ đi đến một nhà khác hỏi một vài câu, rồi lại bỏ đi, đi lang thang, đi hấp tấp, tìm một nhóm ở đầu xóm, cuối xóm, bến xe, bến tàu, các tiệm nước, tiệm rượu... Người ta lúc nào cũng chộn rộn như là đứng trên mảnh đất lửa vậy.
Rồi cái ngày tận thế ấy đến.
Ngày hôm ấy, ngoài đường không một người, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe chạy vụt qua đường. Đêm đến, trời chưa tối mà cả bàn thông thiên đều nghi ngút khói hương. Nhà im thin thít. Người ta không dám qua lại, không nói to, không dám gây ra tiếng động và cố dỗ cho trẻ con nằm im. Tiếng động chỉ còn tiếng sóng, tiếng gió và tiếng chó thỉnh thoảng tru lên ông ổng. Tất cả đều ngồi trong nhà và thu người lại. Nhà cửa cây lá như cũng muốn thu lại cho nhỏ hơn và gần nhau hơn.
Đêm ấy, Phát không tin, nhưng anh cứ thấy lo lo. Anh không dám ngủ, thỉnh thoảng lại hé cửa ra nhìn trời, trời vẫn cao, vẫn trong xanh và đầy sao nhưng mênh mông và vắng lạnh. Cứ trằn trọc mãi rồi anh cũng thiếp đi. Vì thức nhiều, nên anh ngủ quên. Khi tỉnh dậy, nhớ đấy là một đêm dài để đổi đời anh không dám choàng dậy. Trời đã trưa rồi mà anh chẳng biết. He hé mắt, anh thấy vệt nắng xuyên qua màn. Có nắng! Anh choàng dậy. Bao nhiêu nỗi lo lắng, liền tan đi. Và anh nhìn cái ánh nắng với một cảm giác ngỡ ngàng. Có nắng rồi! Anh kêu lên, báo cho mọi người biết cái tin mừng ấy. Anh vùng dậy, chạy ra ngoài. Nắng như ngập đầy cả mọi nơi. Nắng lấp lánh trên các chòm cây. Nắng lấp lánh trên dòng sông. Nắng vàng như mật. Chưa bao giờ, Phát và người làng yêu ánh sáng mặt trời đến như thế.
Hầu như tất cả người làng đều đứng ra sân phơi nắng, họ vừa mừng vừa ngơ ngác lạ lùng.
Tưởng rằng đấy là một cơ hội tốt để đánh thức những người mê tín. Nhưng không, liền trong buổi sáng hôm đó, người trong đạo lại đi khắp các nhà, các nơi, bàn luận lại cái tin đồn ấy. Họ bảo kinh sấm có dạy năm dậu là năm đổi đời, dậu này chưa đổi đời thì tức là năm dậu của con giáp sau. Tức là còn mười hai năm nữa. Họ bảo nhau như thế vừa để tự an ủi, để khỏi phải xấu hổ, vừa để củng cố niềm tin cho họ và mọi người. Còn mười hai năm nữa, mọi người còn có đủ thì giờ để ăn năn hối lỗi, còn thì giờ để rũ sạch bụi trần, còn thì giờ để hương khói, còn thì giờ đi tìm những dấu chân của Phật thầy... Ánh sáng của mặt trời không chiếu tan nổi đám mây đen trong tâm hồn họ...
Những ngày ấy, ôi! nếu anh không được gặp những người bạn của cha anh, thì cái năm tan tác đã qua - cái năm đã xảy ra nhiều tai họa, tai họa của ngày khởi nghĩa bị thất bại, tai họa của chiến tranh đang tràn đến, tai họa của cảnh đói đang hăm dọa, tai họa của cảnh chết vì nạn dịch, tai họa của những cảnh chia ly - thì biết đâu, trong cái đêm tối của đời sống, anh cũng đã bị những câu kinh buồn thảm ru ngủ anh, mê hoặc anh, đưa anh đi tìm một con đường sống ở cõi hư vô và số phận của anh cũng sẽ đáng thương như người thanh niên ấy. Những người bạn của cha anh, đều mang đến cho anh một ánh sáng, một ánh sáng nhỏ, nhưng không bao giờ bị tắt và ánh sáng ấy đã đưa anh đi. Anh là người may mắn hơn họ. Rồi anh chợt nhớ đến Hằng và những người cùng làng. Anh hiểu vì sao họ vào đạo, anh hiểu rõ từng cuộc đời, từng hoàn cảnh riêng của họ. Cái chết của người thanh niên ấy cứ ám ảnh anh. Biết đâu, rồi anh sẽ lại gặp Hằng, hình ảnh của Hằng và hình ảnh của người thanh niên ấy cứ cùng hiện trong một lúc, rồi lẫn lộn vào nhau, gây cho anh một mối lo sợ và nỗi đau đớn cứ giày vò anh. Hãy thương lấy họ. Hãy tha thứ cho những hành động mù quáng của họ. Hãy quay mũi súng về kẻ thù. Anh muốn nói những lời tha thiết ấy với mọi người, anh muốn van xin với tất cả mọi người. Hãy đến những người lầm lỗi ấy với một lòng yêu!
Có một số đảng viên đã nghe theo anh.
Nhưng, trong những cuộc xung đột đã xảy ra, anh em đồng chí chung quanh, ai ai cũng đều bị một vết đau. Có người, cả gia đình cha mẹ, vợ con và anh em đều bị giết, ít nhất là một trong những người thân thuộc bạn bè. Những cái xác chết vẫn còn trôi nổi trên dòng sông. Những đứa bé đầu chít khăn tang hãy còn thất thểu trên đường. Những người vợ góa chồng hãy còn vừa lau nước mắt vừa ôm con đi tản cư, những ngôi nhà hãy còn đang bốc cháy. Tất cả những hình ảnh ấy như đang kêu gọi những người còn sống hãy trả thù. Thế là càng ngày càng xảy ra những cuộc xung đột lớn. Những hành động trả thù mù quáng, những hành động không cộng sản đều được đổ dồn lên đầu những người cộng sản, và những người cộng sản phải mang lấy tất cả! Dòng máu căm thù của người chung quanh cứ cuồn cuộn như một dòng suối lũ. Anh và những người như anh đã cố hết sức dang tay cản lại, nhưng bất lực và yếu sức, nhiều lúc anh đã bị dòng suối lũ ấy cuốn đi.
Sáng nay, nghe tin cha anh bị bắt và sắp bị giết, anh bàng hoàng cả người. Trong anh em đã có tiếng xì xào: “Thử xem ông ấy có thù cái bọn Hòa Hảo không, cho biết!”. Cuộc đời của anh chỉ còn có cha, anh yêu cha, anh muốn cứu cha anh ra khỏi cái chết, nhưng anh vẫn giữ vững được tình cảm và ý nghĩ của anh đối với người Hòa Hảo. Anh thấy đau đớn và cay đắng hơn thù hằn họ. Đôi lúc anh không muốn tự mình đưa đơn vị về làng. Nếu cha anh có bề gì, anh sợ không kìm được lòng mình, anh không muốn người làng phải chết khi anh trở về. Huyện ủy, từ lâu vốn rất tin anh, nhưng lần này, các đồng chí cũng thấy ngại như anh. Nhưng không cách nào khác hơn. Các đơn vị khác đang ở xa, không thể nào về làng anh kịp trong đêm nay. Trước khi đơn vị rời khỏi chỗ đóng quân, đồng chí phó bí thư huyện ủy - bạn già của cha anh - đứng dưới bến, cầm tay anh rất lâu, với giọng ân cần, đồng chí đã dặn dò:
- Huyện ủy từ lâu rất tín nhiệm cháu, đây là một hoàn cảnh khó khăn, cũng là một lần thử thách, cháu nên cẩn thận.
Trong cái bàn tay siết chặt và giọng nói buồn buồn của đồng chí phó bí thư, tự dưng Phát bị xúc động mạnh và chẳng hiểu sao anh muốn khóc.
Trên đường hành quân, anh chỉ nghĩ đến người cha. Mọi lần, mỗi khi hành quân, được ngồi trên xuồng, đi đến đâu, anh cũng nhìn cảnh vật. Anh hay chú ý đến những mùa hoa, thường hay hỏi anh em những cây cỏ lạ mọc theo ven sông. Lần này, anh chẳng thấy gì hết. Hai bên ven sông, chỉ là một màu xanh. Anh chỉ ngồi im, mắt đăm đăm và thẫn thờ.
Phát vốn có cái tính bình tĩnh, đứng trước một việc gì, anh cũng đều suy xét thận trọng, kỹ lưỡng, anh đào sâu sự việc đến tận gốc, nhận định một việc gì, rất ít khi bị nhầm lẫn. Nhưng lần này, nhận định về số phận của cha anh, anh chẳng căn cứ vào một điều gì cả. Trong những ngày này, cái việc bắt giết những người kháng chiến đối với người Hòa Hảo là một việc thông thường, đã thành là một việc tất nhiên. Họ đã nêu khẩu hiệu: “Thà giết oan chứ không thả oan”. Phát như quên tất cả những điều đó. Anh vẫn tin là cha anh sẽ không thể chết được, hai cha con sẽ gặp lại nhau. Niềm tin của anh không căn cứ nhưng chắc chắn, không gì lay chuyển nổi. Không phải là anh không nghĩ. Nhưng mỗi khi chợt nghĩ đến điều không may sẽ xảy ra, anh liền dập tắt ngay, cố bảo vệ cho trọn vẹn cái niềm tin của mình.
Cha anh không thể nào chết được! Anh cứ nghĩ như thế và cố nghĩ như thế.
Phát mồ côi mẹ từ năm lên bốn. Mẹ anh chết sau một cơn đau bụng quằn quại - Bà nội anh kể lại như vậy. - Anh không thể nào nhớ được tình yêu của người mẹ. Mẹ anh mất đi, chẳng để lại cho anh một dấu vết gì, để từ đó, anh lần mò ra hình ảnh và tình yêu của mẹ. Tình yêu đối với mẹ, anh dồn tất cả cho người cha. Cha anh sớm giác ngộ cách mạng, ít khi ở nhà, lúc thì xách cái hòm cắt tóc, đi lang thang từ làng này sang làng khác, khi thì lẩn tránh hằng năm, khi thì bị tù đày. Lúc còn nhỏ, Phát thường ở với nhà người bà, được sự chăm sóc của bà. Người bác cho anh ăn học. Tuy xa cha, nhưng Phát biết rất rõ về cuộc đời của cha, Phát biết cả những câu chuyện của cha mình lúc hãy còn bé nữa kia! Năm lên chín, lên mười, đến lúc biết nghĩ, đêm đêm, bà thường kể cho anh nghe về cuộc đời của cha anh. Bà anh có sáu người con, nhưng chỉ nuôi được hai người. Giọng của bà nghe như kể chuyện thần thoại, Phát ngồi trọn trong lòng bà, lắng nghe từng tiếng một và hình ảnh của người cha cứ hiện ra trước mắt anh. Bà anh kể “- Hai anh em thật khác nhau. Người anh vui vẻ, hoạt bát và lanh lợi. Người em - cha anh - trầm lặng, ít nói, đôi mắt lúc nào cũng phảng phất một nỗi buồn. Lớn lên, người anh chọn nghề thợ bạc, một cái nghề dễ làm giàu. Người em không thích chọn nghề gì, tối ngày cắm cúi trên trang sách, những quyển sách cấm và đọc cho đến khi đèn cạn hết dầu. Đến năm phải đi kiếm ăn, chưa có nghề gì, người em đi thu thuế chợ cho một người bà con xa. Người em đã trở thành là người góp chợ thuê. Những buổi đi thu tiền, người góp chợ có để ý đến một cô gái bán bánh cam. Đó là cô gái người mảnh khảnh và hiền từ. Người góp chợ đòi bao nhiêu, cô trả bấy nhiêu, cô không hề giật nài, không cười cợt, không có lời đanh đá như những cô bán hàng khác. Cô gái ấy mồ côi từ bé, ở với người dì trong xóm ruộng. Người góp chợ đem thương cô gái mồ côi. Nhân lúc thu tiền, người góp chợ đã để rơi lại một lá thư. Lá thư là một tờ giấy trắng, không thấy một dòng chữ. Lá thư ấy viết bằng nước chanh. Đêm khuya, một mình ngồi chiên bánh, người con gái đem lá thơ giấy trắng ấy hơ lửa. Những dòng chữ từ từ nổi lên. Và hai người yêu nhau. Nhưng người dì của cô gái ấy không chịu gả, vì hai người cùng một họ Nguyễn, cùng một họ là người cùng một dòng máu, không lấy nhau được. Người góp chợ buồn quá, bỏ làng đi, rồi học lấy cái nghề cắt tóc. Người con gái mồ côi ấy không chịu lấy ai, cứ chờ mãi người góp chợ, nhưng không thấy người góp chợ trở về. Người con gái mồ côi ấy mỗi ngày mỗi héo hon, rồi định bỏ nhà đi tu. Người dì thấy vậy, liền cho người lên đánh tiếng với đàng trai. Người góp chợ thuê trở về với một cái hòm cắt tóc. Hai người thành vợ chồng. Hai người dựng lên một mái nhà nhỏ ở mé sông. Chồng đi cắt tóc, vợ bán bánh cam. Hai năm sau, hai vợ chồng ấy sanh được một đứa con trai, đặt tên là Phát. Đến năm đứa con lên bốn thì mẹ của đứa nhỏ qua đời. Người cha cứ ở vậy nuôi con. Nhưng người cha là người lo việc nước, lận đận lao đao, vào tù ra khám. Hai cha con không mấy lúc được gần nhau. Đứa bé phải ở lại với bà và làm khổ cho cái thân già!”.
Bà kể đến đây thì dừng lại, suỵt bảo im, rồi nghiêng tai nghe ngóng. Bà bỗng chồm dậy:
- Ai như là cha con về!
Phát chạy theo bà ra mở cửa. Nhưng bên ngoài trời vẫn tối. Tiếng động mà bà nghe là tiếng lá rơi trước sân nhà.
Bà anh đã chết rồi, nhưng anh vẫn nghe mãi cái giọng buồn buồn của bà.
Phát chịu đựng tất cả cái thiếu thốn của một đứa bé mồ côi. Rồi cha sẽ lại về thôi! Phát đã biết tự an ủi mình. Phát nhẫn nhục và chờ đợi. Rồi, bất thình lình, nửa đêm, cha anh trở về thật. Có một lần, đang ngủ, nghe cái cảm giác có người cúi hôn mình, Phát liền choàng dậy, dang tay và ôm chặt.
- Con biết ai mà ôm chặt dữ vậy? - Bà vừa cười vừa khóc, hỏi anh.
- Cha! Con nghe hơi là con biết mà.
Có cha về, những ngày tủi nhục được bù lại. Phát hãnh diện với bạn bè về những món quà của cha. Những món quà rẻ tiền: một hộp bút chì màu, một quyển sách con gà... nhưng đó là quà của cha. Đến ngày khôn lớn, bà mất, hai cha con về dựng nhà ở xóm Đình, anh đi học nghề thợ mộc, cha đi cắt tóc, lần đầu tiên hai cha con được sống với nhau trong ba năm. Rồi Nam Kỳ khởi nghĩa. Cha anh lại bị bắt. trở về ở với người bác độ nửa năm, tự thấy mình cần phải có một nghề và nhớ cô con gái ở cạnh nhà, anh lại trở về với cái ngôi nhà nhỏ của mình. Nghe nhiều người bị giết, anh không tin là cha mình trở về nữa. Nhưng anh vẫn chờ đợi và hy vọng. Đến Cách mạng Tháng Tám thành công, tù Côn Đảo về làng, anh gặp lại cha. Cuộc đời của anh ấm hẳn lên. Anh đã khôn lớn rồi - đã trở thành một đảng viên cộng sản như cha - nhưng lớn khôn đến mấy, khi được gặp cha, anh vẫn là một đứa trẻ con. Anh muốn mách với cha những điều đã xảy ra, muốn khoe với cha những việc làm, và thấy tiếc tại sao mình lại quá lớn, để bị mất những cái hôn. Từ đó đến nay, hai cha con, mỗi người mỗi việc và lại xa nhau. Hai cha con sống với nhau ít quá! Cha anh không thể nào chết được!
Đi đi lại lại dưới tàng cây vú sữa, anh cứ nghĩ như thế. Anh tìm đủ lý do để gây dựng cho mình một niềm tin. Cha anh trở về với giấy tờ của người lãnh tụ của họ. Họ mê tín, họ tin “Phật thầy”, họ không dám giết người có mang đầy đủ giấy tờ của “Phật thầy”. Cha anh về một mình với một chiếc xuồng, không có gì khiêu khích họ. Cha anh là người làng. Và ở xóm còn có những người không mù quáng. Hằng, Phú, lão Ịnh, ông Năm Bầu. Có việc gì, những người ấy sẽ cứu nguy cho cha mình.
Niềm tin của anh mỗi lúc mỗi vững thêm. Nhưng khi chợt nhìn cái nụ cười ác độc của Bảy Thâm, thì niềm tin trong người anh như bị lung lay. Nụ cười ấy như kéo anh trở về với một sự thật. Anh tránh cái nhìn và cái nụ cười của Bảy Thâm.
Anh quay mặt, nhìn vê làng. Hàng cây bên kia bờ sông xanh sẫm, phẳng lặng.
Mặt trời đã ngả xuống khỏi rặng cây, lẫn trong một đám mây đen và hừng lên. Chân trời trước mặt anh như ứa máu.
Chú thích:
(1) Đôi bông: đôi hoa tai
(2) ốm: gầy.