Chương XII
Cũng chiều hôm ấy, bóng tối ảm đạm của mây đen vẫn đè nặng xuống xóm làng, đem tới cho lòng người những nỗi buồn u ẩn và những mối lo sợ rợn người.
Trong nhà của Quản Dõng, một ngôi nhà sàn to mà sàn nhà là những miếng gỗ gõ ghép khít lại đen mun và bóng mượt như thoa mỡ, nhìn xuống có thể soi được mặt mình. Những vẻ mặt vừa tối tăm vừa giận dữ, với những cặp mắt đỏ hoe như mắt cá chài, họ đứng nhốn nháo, hút thuốc, tán gẫu để chờ hội nghị.
Họ là tá điền của Quản Dõng, trước đây họ không mấy khi được bước chân lên ngôi nhà này, nay là người cùng đạo, nên họ như không còn sợ sệt gì và cứ đi luôn tuồng. Người thì xem các bộ tranh Tam quốc Tây du diễn nghĩa treo trên vách, người thì nhún thử cái giường lò xo, người thì mân mê cái bộ trà kiểu xưa, anh lại rờ rẫm và không ngớt lời khen cái tủ kính. Chỗ bàn về đạo lý, chỗ nói tin tức các nơi, chỗ nói về cái tương lai khi trời mở hội Long hoa.
Còn Chiến, anh chàng to lớn, đầu chít khăn đen bít qua trán có thêu hai chữ H màu đỏ, hông đeo một cây gươm dài, anh ta đang ngồi xâm xoi chiếc xe đạp con ba bánh của con nhà Quản Dõng. Anh ta lật qua lật lại một lúc, rồi dựng nó dậy và ngồi lên. Anh ta dạng chân chỏi xuống sàn nhà, đạp cho xe chạy vòng quanh nhà, thỉnh thoảng cất tiếng đánh chuông miệng “kính keng! kính keng!” rồi ngửa mặt ra cười.
Ai nấy, xem chừng cũng có vẻ hăm hở và vui tươi lắm. Duy có riêng lão Ịnh là khác thường. Lão ngồi trên chiếc ghế xa lông giữa nhà, im lặng như một pho tượng, chỉ có bộ râu đen dài tận ngực là động đậy rung rinh, lất phất vì những ngọn gió bên ngoài tạt vào.
Thường thường, trong những dịp hội hè như thế này, người lớn tiếng nhất và hăng hái nhất thường là lão. Lão luôn mồm giảng cho mọi người nghe những điều sâu xa trong kinh sấm.
Từ ngày vào đạo, được ngồi ngang với Quản Dõng, lão lấy làm kiêu hãnh lắm. Cái tình nghĩa bổn đạo tuy đã xóa hết mối thù xưa nhưng khi đứng trước mặt Quản Dõng, lão vẫn thấy cần phải tỏ ra là người ngang hàng, là người hiểu biết những lẽ màu nhiệm của Phật trời. Cái kiêu hãnh đó cũng an ủi được ít nhiều cho nỗi nhục nhã và cay đắng của đời lão.
Nhưng giờ đây thì lão chỉ ngồi trơ ra như đá. Ngọn lửa rừng rực trong đôi mắt cũng đã tắt đi rồi. Lão nhìn con nhện hùm đang giăng lưới bắt mồi trên trần nhà với con mắt tối đờ như cặp mắt của người chết còn mở ra nuối lại để chờ ai.
Bên ngoài, mưa rơi từng hạt như những giọt nước mắt nghẹn ngào.
Tiếng hát của đoàn người đi dự pháp trường ở bờ sông bị tiếng sóng ì ầm đập tan đi và vẳng vào.
Lệnh vua hành quân trống kêu dồn
Quan với quân lên đường
Đoàn ngựa xe cuối cùng, vừa khuất theo thôn
Phất phơ ngậm ngùi bay...
Tiếng hát ấy không có gì giận dữ hằn học của kẻ sắp giết người mà mang theo một âm điệu vừa não nùng vừa u uất như tiếng rên của những người đang quằn quại trong cõi chết.
Tiếng hát ấy mang đến cho tâm hồn lão một nỗi buồn nản ê chề. Lão khẽ thở dài và kêu thầm:
- Trời! Anh Sáu! - Lão đưa bàn tay to lớn và đầy lông chụp lấy chùm râu, run run.
Lão chớp mắt nhìn Quản Dõng đang ngồi ngang mặt mình, đầu đang cúi xuống đống công văn, chỉ thị của đạo. Tự dưng, lão thấy con người cũ của hắn cứ hiện lên: đầu đội nón cối, mặt để râu trê, tay cầm cù quéo, đi theo sau là một đám lính mã kỵ mặt mũi đen sì, cù quéo hắn chỉ nhà nào thì nhà nấy liền bốc lửa. Trong cái ngày đất nhà lão bị mất vì cha hắn, hắn cưỡi con ngựa ô, đầu cũng đội nón cối, tay cầm cù quéo, dừng ngựa trước nhà lão, nghiêng mắt nhìn vào, một cái nhìn nham hiểm và đe dọa... Tất cả hình ảnh đó quay cuồng trong đầu lão, và cái tiếng “Quản Dõng đúng là Dư Hồng” của Sáu Sỏi lại dồi dội vào tai lão.
Quản Dõng ngồi đối diện với lão Ịnh, miệng ngậm ống vố, khói tỏa lù mù. Hắn đã thay đổi nhiều. Bộ râu ngạnh trê của hắn đã cạo nhẵn và sau ót có thêm cái búi tóc to bằng cái kèn bí bo. Hắn mặc trang phục màu già và dài, trông có vẻ là một nhà tu lắm. Duy có cặp mắt của hắn ta là vẫn như xưa, vẫn nấp dưới hàng lông mày rậm và ẩn sâu vào bên trong như ẩn giấu những điều gì khó hiểu, vẫn nham hiểm với cái nhìn như chích vào tim người và chiếc mũi vẫn gầy đét khô khan trên gương mặt vừa nhọn vừa vuông của con người vừa gian giảo vừa ba đá. Hắn là một tay chúa đất trong làng. Hồi Pháp thuộc, hắn giữ chức Hương quản trong ban hội tề. Hắn khét tiếng là một tên tàn ác, đã từng dẫn lính Tây về đàn áp phong trào cách mạng và lùng bắt những người yêu nước.
Sau năm Nam Kỳ 40 khởi dậy, cũng vì tay hắn mà làng xã trở nên tiêu điều. Rồi, đời lại biến đổi: Nhật vào và Tây xuống thế. Chỗ dựa của hắn bị lung lay. Hắn bắt đầu lo cho số phận và muốn thay đổi hướng đi. Trong làng bỗng xuất hiện ra một ngọn cờ mới với những con người khác lạ: đàn ông đầu để tóc, mình mặc áo già múa kiếm, phi ngựa lúc ban chiều và những cô con gái ăn mặc theo lối Phàn Lê Huê, Lưu Kim Đính dượt võ dưới ánh trăng. Tất cả những người đó là tá điền của hắn. Người nào hắn cũng đều có mang nợ máu cả. Họ đã vào đạo Phật giáo Hòa Hảo. Họ như những con người của những thời trong các bộ truyện Tàu vừa sống lại; nhìn vào họ, hắn thấy có một cái gì ghê gớm sắp xảy ra. Trong cái cảnh tiêu điều của làng, đêm ngày cứ khói hương ngui ngút và rền rĩ những câu kinh sấm não nề, một không khí vừa huyền ảo vừa ghê rợn bao vây hắn, hắn bắt đầu lo sợ, rồi cũng như bao nhiêu người khác, hắn mượn kinh sấm về xem. Những cái câu: “Ác lai ác báo” cứ ám ảnh hắn như những giấc mộng nặng nề.
Rồi những tín đồ ấy, ở một số nơi khác, kéo nhau ra nhà việc xé cờ “Đại Pháp”, đạp chân lên hình Pêtanh và vác dao mác đi trả thù, đòi những điền chủ phải trả nợ máu.
Trong những ngày ấy, nhờ quận Ghiđi đánh mật tin cho biết trước, nên hắn kịp lánh mặt ra xe đi thẳng lên Sài Gòn và ẩn náu trong nhà đứa em út trên con đường “Sátsơluha”. Sau đó hắn gặp quận Ghiđi lúc quận Ghiđi sắp sửa xuống tàu về Pháp. Trong giờ phút gặp gỡ ấy, tên quận Ghiđi chỉ kịp dặn dò hắn là phải vào đạo Hòa Hảo. Hắn không hiểu được cái ý nghĩa sâu xa trong lời dặn ấy mà tương rằng: đó là những lời khuyên bảo thật thà. Hắn nghĩ: quận Ghiđi là một người Tây mà còn tỏ ra tôn sùng đạo như vậy thì huống chi là hắn. Trong giây phút ấy, hắn có một ý nghĩ chân thành là muốn cải tà quy chánh để chuộc lại tội lỗi của mình. Hắn liền cạo nhẵn bộ râu ngạnh trê, vứt bỏ cù quéo và tìm đến một gánh hát cải lương nài nỉ cho kỳ được một bộ tóc giả để trùm lên đầu. Rồi, hắn lên xe, đi thẳng một mạch lên tận làng Hòa Hảo.
Đến nơi, trước mặt hắn là cả một việc lạ lùng, những người nắm quyền tối cao trong đạo toàn là những người bạn cũ của hắn; nào Cai tổng, nào Hương cả và một số tay anh chị trong làng dao búa. Đối với hắn, quả là việc không ngờ. Trong số người cầm đầu đó, hắn đặc biệt chú ý đến một người tên là Ngô Quang Vĩ, con người có một gương mặt nhọn, miệng hô, nhòn nhọn như mỏ chuột và cả bộ râu mũi cũng xệ dài như râu chuột. Người ta gọi ông ta là ông Vĩ mặt chuột. Đối với hắn, con người ấy quả là con người kỳ lạ, khó hiểu và đáng tôn là quân sư. Năm phong trào bình dân, ông ta luôn luôn đi sát cánh với Tạ Thu Thâu, khi thì viết báo, khi thì tranh cử hội đồng, khi thì mở diễn đàn. Con người ăn nói thật lưu loát và hùng hồn. Theo hắn ta biết thì đó là người cộng sản. Lúc ấy, hắn ta thấy sợ hơn là thấy thù. Năm phong trào bình dân xẹp xuống, có một hôm, con người Ngô Quang Vĩ bất thình lình xuất hiện ra trong làng hắn. Hắn sợ ông ta về “gây cộng sản”, liền đem lính đến bắt ngay và lập tức báo lên cho quận Ghiđi. Quận Ghiđi liền gọi hắn lên, bảo phải thả ra và trách hắn là người không biết luật pháp.
Hắn không hiểu vì sao quan quận Ghiđi lại có vẻ nể nang người cộng sản như vậy, quan quận Ghiđi lầm chăng? Hắn liền thưa lại. Quan quận Ghiđi cho hắn biết bằng một giọng quát tháo ầm ĩ:
- Nó là thằng Trốtkýt!
Lần đó là lần đầu tiên hắn biết thêm một danh từ “Trốtkýt”. Hắn không hiểu rõ lắm, nhưng hắn cũng hiểu đại khái cái ý của quan quận Ghiđi là: cộng sản Trốtkýt thì không nên bắt.
Bây giờ, gặp lại Ngô Quang Vĩ trong số người cầm đầu đạo, hắn càng khâm phục tên quận Ghiđi, quả thật là người Tây thấy xa hiểu rộng. Và bấy giờ, hắn mới hiểu được lời dặn của tên quận Ghiđi vào đạo không phải để tu hành mà để mưu lại cơ đồ(!), dùng đạo Phật để lôi kéo tín đồ. Hiểu được điều đó hắn cảm thấy như vừa phá được cái bí mật của trời đất. Có lúc ngẫm nghĩ lại, hắn tự cười và tự nhạo mình là có lúc đã định đi theo Phật. Và cũng vì đó mà con đường “sự nghiệp” của hắn bị sa sút.
Trong những ngày ở đó, hắn được gặp lão Ịnh. Ngô Quang Vĩ liền bày mưu cho hắn là nên mời lão Ịnh trở về làng. Trong cuộc họp lần cuối trước khi hắn trở về làng, Ngô Quang Vĩ bảo là nên để lão Ịnh làm trưởng ban trị sự, còn hắn thì giữ chức phó, vì lão Ịnh là người cùng một cảnh ngộ với tá điền, như vậy họ dễ tin hơn. Rồi, không biết ông ta suy nghĩ như thế nào, ông ta lại bảo lại: “Không được! Tôi thấy là nên đổi lại”. Quản Dõng còn nhớ rõ câu ông ta nói: “Tôi xin lỗi anh Quản! Tiền bạc đất đai thì anh còn không kém, nhưng về nước cờ chánh trị thì anh kém lắm! Để anh làm phó ban, anh khó lòng mà giữ được giềng mối lắm. Rồi sau này, muốn nhấc cho anh leo lên thì cũng mệt lắm!”
Thế rồi hắn về làng và làm theo lời chỉ bảo của quan thầy Ngô Quang Vĩ. Hắn mở kho bố thí cho kẻ nghèo, hắn bỏ tiền vào quỹ để mua ngựa cho tín đồ tập dượt.
Hắn thấy rằng: Tá điền chẳng những không đòi hắn phải trả nợ máu, mà còn tôn kính và yêu mến hắn nữa. Và cũng chính vì nước cờ ấy mà hắn đã bắt họ phải quay đầu lại và quét sạch bọn “Việt Minh cộng sản”.
Những lần hội nghị chuẩn bị có cuộc nổi loạn, ý của hắn là muốn có sự giúp đỡ của quân đội Pháp - Những lần hội nghị ấy đều do Ngô Quang Vĩ làm chủ tọa - Một số hội tề cũ cũng đều đồng ý với hắn. Nhưng Ngô Quang Vĩ đã bác hết. Hắn còn nhớ cái lý lẽ của Vĩ. Trước khi nói, Vĩ điểm một nụ cười, nụ cười của người hiểu biết, Vĩ nói:
- Tất nhiên là chúng ta dựa vào lực lượng của quân đội Pháp. Nhưng ngay trong lúc đầu thì chưa nên công khai, mà phải hết sức kín đáo, kín đáo một cách tuyệt đối, kín đáo như là đàn bà đi lấy trai vậy. - Vĩ cười hóm hỉnh, chuyện lớn mà vẫn bình tĩnh, coi như chuyện đùa - Nếu không, bọn Việt Minh cộng sản sẽ dựa vào đó mà phản tuyên truyền chúng ta, đồng bào tín đồ vốn là người đã bị nó mê hoặc, họ rất dễ tin theo nó. Chúng ta không phải là không có lực lượng. Bộ đội Ba Cụt, bộ đội Năm Lửa, Hai Ngoán, Nguyễn Giác Ngộ, không phải là ít. Nếu đem so với lực lượng vũ trang của bọn cộng sản thì chúng ta có phần kém hơn, nhưng cái chính là lực lượng của bà con tín đồ. Nói như vậy, không có nghĩa là quân đội Pháp không giúp gì cho chúng ta. Xin thưa để cho các ngài được yên tâm là có. Chánh phủ Pháp sẽ giúp cho ta những cái lớn. Vả lại trong lúc này, quân đội Pháp cần phải dồn sức ra Bắc Kỳ. Những ngày đầu, chúng ta sẽ gặp nhiều gay go, nhưng không đáng ngại, mà ngược lại, rất là đáng mừng. Tạm thời, chúng ta sẽ chịu nhiều thất bại. Những khi bị nhiều thất bại, thế nào mà không có người chết. Bà con tín đồ sẽ căm thù bọn chúng hơn. Đến lúc đó, không cần phải nói, bà con sẽ tự hiểu là mình “thế cô sức yếu”, thấy cần phải có một chỗ để dựa lưng. Chừng đó, ta sẽ nêu khẩu hiệu “Tạm hàng Tây để diệt trừ quỷ dương cộng sản” như Quan Công tạm hàng Tào. Chừng đó, cái chủ trương ấy sẽ thành là nguyện vọng của tín đồ. Bọn cộng sản sẽ không nói vào đâu được. Nó càng chửi đồng bào là Việt gian, đồng bào sẽ càng nổi điên, nổi khùng với bọn chúng nó. Sao? Các ngài và các vị thấy thế nào? - Vĩ hỏi mọi người với một vẻ hài lòng. - Thật là chí lý! Đúng là một nhà chính trị! Quản Dõng tấm tắc như vậy. Nhưng đến cái đêm nổi loạn, xuồng của Sáu Sỏi vượt được sông thoát khỏi, thì hắn chửi rủa Ngô Quang Vĩ không tiếc lời. Nếu có một chiếc tàu tuần của quân đội Pháp thì Sáu Sỏi có chạy đàng trời!
Sáu Sỏi còn, là tai họa của hắn sẽ còn. Hắn cứ phập phồng.
Trong những ngày gần đây, hắn lại được một cái công văn của Ngô Quang Vĩ. Công văn có đoạn viết: “...Gần đây, bọn Việt Minh cộng sản đã bí mật trở về, bọn chúng nó mang theo cả giấy tờ của Phật thầy. Một số nơi, có một vài cá nhân tín đồ tỏ ra hèn nhát, đã bắt liên lạc với bọn chúng. Đồng bào đâu đâu cũng xôn xao về những chuyện “mọi rợ” đó. Cần phải trừ khử tất cả bọn cộng sản trở về. Nếu đồng bào có hỏi thì phải giải thích - “hoàn cảnh khó khăn này, thầy phải nói ngược lại. Thầy bảo đoàn kết thì tức là phải đánh, thầy bảo đánh tức là đoàn kết”.
Quản Dõng có phong phanh nghe những chuyện “cộng sản mang giấy Phật thầy đi các nơi, kêu gọi đoàn kết”. Tình thế thay đổi bất ngờ, hắn không yên. Được cái công văn ấy, hắn thở phào, nhẹ nhõm.
Khi lão Ịnh mang thư của Sáu Sỏi báo tin về, hắn có một cảm giác sung sướng và phập phồng như được thấy một con cọp đang đi vào bẫy.
- Phải giết ngay tức khắc! - Hắn lẩm bẩm và nói với lão Ịnh: - “Phải giết tức khắc!” - Hắn coi Sáu Sỏi là kẻ thù riêng của hắn.
Giết được Sáu Sỏi, người hắn sẽ nhẹ nhàng như rút được cây đinh ra khỏi mắt. Trước đây, Sáu Sỏi đã cầm lèo lái cho tá điền nổi dậy bắt hắn phải giảm tô, giảm thuế. Năm 40, bắt được Sáu Sỏi đày ra Côn Đảo, hắn tưởng là trừ được cái mũi nhọn ấy rồi. Không ngờ, năm 45, Sáu Sỏi lại trở về và giữ chức chủ nhiệm Việt Minh. - Nhờ giữ chức trưởng ban trị sự nên Sáu Sỏi không dám làm gì hắn. Hắn nghĩ như vậy, nhưng hắn vẫn lo sợ. Hắn biết: Sáu Sỏi còn, là hắn còn nhiều kẻ thù. Sáu Sỏi luôn luôn nhắc lại chuyện cũ của hắn để vạch mặt hắn với tín đồ. Hắn muốn tự tay mình giết Sáu Sỏi thì mới hả cái nư giận, nhưng hắn không muốn. Hắn nghĩ: phải giết một mà thành hai thì mới thượng sách. Ở đời phải khôn như Tào Tháo mới được. Hắn nghĩ đến lão Ịnh. Lão Ịnh là bạn của Sáu Sỏi, trước đây lão luôn luôn theo chân Sáu Sỏi mà chống lại hắn. Bây giờ, lão Ịnh tuy là người dưới tay hắn, nhưng hắn vẫn ghét và khinh bỉ. Hắn ghét nhất là lão luôn luôn muốn tỏ ra người ngang hàng với hắn. Và hắn biết rằng: lão Ịnh là một tay nguy hiểm. Nếu lão Ịnh giết Sáu Sỏi rồi, sau này dù có gì đi nữa lão cũng không thể nào chạy về với kháng chiến.
Nghĩ đến đây hắn chớp mắt nhìn lão Ịnh, rồi quay sang mọi người, cất tiếng hỏi:
- Ngài đội trưởng Hiếu tới chưa các vị?
Hiếu không có chân trong ban trị sự, cũng không có chân trong ban ám sát, nhưng hội nghị hôm nay anh vẫn được mời đến dự. Vì anh là thầy dạy võ. Quản Dõng vừa hỏi thì Hiếu cũng vừa đến. Hiếu bước vào, mặt ngó thẳng không nhìn mặt ai, tấm vải hồng bên vai tung lên chập chờn theo bước đi, cây gươm dài bên hông kéo rà rà dưới mặt sàn, anh đi thẳng lại một góc kẹt, rồi ngồi xuống, mặt lầm lì, chẳng nói chẳng rằng.
Quản Dõng đứng dậy, vỗ tay bôm bốp:
- Xin các vị vào họp!
Tất cả đều quây quần, kẻ đứng người ngồi quanh bộ ghế giữa.
Quản Dõng lấy ống vố ra khỏi miệng, và bắt đầu nói, khói từ trong lồng ngực hắn bay theo từng lời nói của hắn, tỏa lù mù:
- Hôm nay là ngày lấy đầu thằng quỷ dương Sáu Sỏi để tế sống cho vong linh tín đồ, ban trị sự mời các vị đến đây để bàn xem ai là người xứng đáng đứng ra hạ thủ.
Chiến liền nghiêng vai chen vào, chồm mặt ra giữa bàn, vung quả đấm thẳng ra trước mặt và nói:
- Bổn phận của ban ám sát thì để cho ban ám sát chớ còn ai nữa?
- Ban ám sát thì còn nói gì. Chú bình tĩnh, chú không mất phần đâu! - Quản Dõng đưa tay đè quả đấm của Chiến xuống và nói tiếp - Thằng Sáu Sỏi thì các vị cũng không lạ gì. Hồi trước, anh Phó của mình đây - Hắn liếc nhìn lão Ịnh và tiếp - là bạn bè chí thiết với nó.
Hiếu từ góc kẹt liền đứng dậy phản đối lại:
- Cha tôi không phải là ban ám sát!
Mọi người đều kinh ngạc trước cái giọng hét phát ra từ cái lồng ngực to lớn và mạnh mẽ của anh. Cặp mắt mở tròn của anh nhìn mọi người sáng quắc lên như thu hết tất cả ánh sáng của những cặp mắt chung quanh. Mọi người đều không dám nhìn lâu đôi mắt ấy, họ nhìn nhau lẳng lặng như thầm hỏi và dồn tất cả sự bất bình vào lão Ịnh. Mái đầu màu muối tiêu của lão Ịnh như bị cái nhìn của họ đè xuống nên cứ cúi gầm gầm.
Riêng Quản Dõng vẫn giữ được thái độ bình tĩnh, hắn đưa tay hướng về Hiếu và vẫy xuống, ra lệnh cho Hiếu ngồi:
- Có gì mà chú Hiếu phải nóng! Nếu đưa cho ban ám sát xử thì hội họp mà làm gì? Đây là mình muốn người đứng ra xử là người thuộc trong họ hàng hoặc thân thích để khỏi mang tiếng giết người là vì thù nhơ oán chạ, mà vì đạo, vì nước, mà mình làm. Cao quý hay không, vì đạo hay không là ở chỗ đó. Chú đừng vội nóng, ngồi xuống bình tĩnh mà suy xét.
Một người nói tiếp:
- Thôi! Mình cũng không nên ép.
Câu nói có vẻ dịu dàng và an ủi ấy không làm dịu được cặp mắt rừng rực và giận dữ của Hiếu, anh vẫn tiếp:
- Tôi không muốn mấy người bắt ép cha tôi phải giết người.
Nói xong, tay sẵn giữ đốc gươm, anh rút gươm ra rồi đập vào đánh rốp một cái. Không nói gì nữa, anh vuốt mái tóc cho ngược lên đầu, để lộ một vết sẹo vắt dài theo bên chân mày phải, nện mạnh cái bàn chân to lớn xuống sàn nhà, bước ra.
Mọi người nhìn theo anh với vẻ bất bình và sờ sợ. Họ không lạ gì cái tính của anh, như lão Ịnh hồi trẻ, hễ nổi nóng lên thì không biết sợ ai bao giờ. Khi anh đi khuất, mọi người xì xào: “Nó ỷ quá!” Không làm gì được anh, họ lại dồn mắt nhìn vào lão Ịnh.
Lão Ịnh ngồi trơ ra đó, lão đã hiểu rõ thêm về sự thay đổi của con mình, nhưng lão không thấy đau đớn gì thêm như lão tưởng.
Không dám nhìn mọi người, lão lơ đãng nhìn ra ngoài.
Những cơn gió bên ngoài rú lên như tiếng hú. Ngọn cờ màu già trước ngõ phành phạch vỗ tung lên. Tự dưng lão phát rùng mình. Lão cảm thấy mình như có những phút xa đạo. Lão liền đưa tay chụp lấy chòm râu và ngẩng mặt lên:
- Xin anh em miễn thứ cho nó. Mời anh em bàn tiếp xem ai là người giết Sáu Sỏi - Lão cố ý nói lớn những tiếng “giết Sáu Sỏi” để lấy nghị lực cho mình và để xoa dịu cái tức giận của chung quanh đối với Hiếu.
Quản Dõng liền tiếp lời:
- Thôi! Xin mời bổn đạo mình bàn tiếp, về phần chú Hiếu mình sẽ dạy dỗ thêm sau, trai tráng thì nóng nảy vậy thôi, xin các vị bỏ qua cho. Các vị xem ai là người giết Sáu Sỏi? - Và hắn nói luôn - Theo ý tôi, nếu không chú Hiếu thì nên anh Phó, có phải không các vị?
Nhiều người cùng nhao nhao lên:
- Đúng. Đúng lắm!
Ông Năm Ngũ vừa nói vừa đưa chân trèo lên ghế cho cao lên và nói tiếp với một giọng rõ to:
- Anh Tư mà hạ Sáu sỏi thì phải lắm, không miệng nào dám nói là mình vì thù nhơ oán chạ, có phải vậy không anh em?
- Phải! Phải!
Thấy lão Ịnh còn trù trừ, Quản Dõng đưa mắt ra hiệu cho Năm Ngũ ngồi xuống và sau khi phà ra một hơi khói dài, hắn liếc nhìn chung quanh, hắn nói tiếp với một giọng trang trọng:
- Các vị không nên ép anh Phó! Anh Phó nên nghĩ kỹ lại và tùy ở anh, nhưng tôi muốn nhắc lại với các vị một câu chuyện này. - Giọng hắn sôi nổi lên - Chắc các vị còn nhớ hai anh em Sùng Hầu Hổ với Sùng Hắc Hổ thời Trụ Vương chứ? Thời ấy, hai anh em họ Sùng cùng thờ vua Trụ. Nhưng khi Châu Võ Vương đứng lên phạt Trụ thì em là Sùng Hắc Hổ mới sang đầu Châu mà trở lại phạt Trụ. Trước khi sang Châu, Sùng Hắc Hổ đã bắt anh mình là Sùng Hầu Hổ mà nạp Châu Võ Vương. Sùng Hắc Hổ thời đó vì theo chân chúa mà cắt đứt tình em. Đó là gương xưa, còn mình bây giờ, vì đạo vì nước mà sao anh Phó lại ngại? Hơn nữa, Sáu Sỏi với anh Phó có phải là ruột thịt gì cho cam, anh Phó nên nghĩ lại đi anh Phó!
Nói xong, hắn đưa mắt nhìn quanh để dò hỏi. Mọi người rầm rộ khen ý kiến của hắn.
Ông Năm Ngũ lại trèo lên ghế, nói dồn tới:
- Anh Trưởng nói đúng đó anh Tư! Người xưa mà còn vậy thì huống chi là mình? Anh Tư à! Anh là người cầm đầu, anh phải làm gương cho bổn đạo chớ, phải không anh em trị sự?
- Phải! Phải rồi! - Mọi người đều la rân lên và đưa tay đồng tình.
Chiến thì mặt đỏ bừng bừng, anh chồm tới và nói như hét:
- Ông Phó không nhận thì cho ban ám sát chúng tôi. - Rồi anh trở giọng cằn nhằn - Chuyện có như vậy mà cứ bàn qua bàn lại! Hừ!
Trong lúc đó, lão Ịnh thò bàn tay vào làn áo, nắm lấy một chòm lông ngực giữ chặt và run run như sắp dứt ra một cái gì thật đau đớn và khó khăn, rồi gật đầu xuống một cái:
- Được! Để cho tôi!
Tiếng vỗ tay liền nổ vang lên giòn giã như ốc đổ. Chiến thì nhìn lão Ịnh, nói mát:
- Dữ không!
Ngoài Quản Dõng ra thì Năm Ngũ là người hài lòng nhất. Vì con của ông ta - là Hằng - trước là người yêu của Phát. Hai người đã sắp sửa kết nghĩa xuôi gia. Nếu lão Ịnh mà không nhận, người ta rất có thể đùn cho ông. Giết ai, ông cũng có thể xuống tay được, nhưng nói đến giết Sáu Sỏi thì ông cứ thấy sờ sợ.
Lúc mọi người tản ra về, ông ta còn đi kề bên lão Ịnh, nói:
- Không có gì khó đâu anh Tư, anh thấy tôi thì biết, tôi lúc đầu cũng như anh vậy thôi! Một vài lần rồi thì nó quen tay đi!
Lão Ịnh không nói không rằng, lững thững như cái xác không hồn, đầu cúi gầm xuống đất, từng bước, từng bước đi về cái hướng con ngựa hồng đang sẵn yên cương và đang gõ vó đồm độp ở bên đường...
Vừa lúc ấy, tháp chuông bên Cù lao Giêng đổ lên một hồi dài. Đấy là tiếng chuông thường lệ của nhà thờ công giáo. Thường thường, dân làng mỗi khi nghe hồi chuông ấy là biết: đã sáu giờ. Nhưng hôm nay, hồi chuông ấy, người ta nghe như tiếng chuông của tử thần đang kéo đến. Tiếng chuông ngân rền theo bóng tối đang tràn về.