Chương XIII
Ngoài pháp trường cây gừa, giờ giết Sáu Sỏi chưa đến, nhưng đã có một số người đến trước để giành chỗ rồi. Họ ngồi đứng bao quanh lấy cây gừa. Trong lúc chờ đợi, người ra mí nước đưa tay hứng lấy bọt sóng, người đốt đuốc quơ qua quơ lại cho thấy mặt nhau và bắt đầu cất tiếng hát:
Lệnh vua hành quân trống kêu dồn...
Họ cũng lại hát bài “Hòn vọng phu”...
Trong lúc đó, lão Ịnh cũng đã về đến nhà. Ngọn đèn dầu trên bàn thờ ông bà ở giữa nhà nhỏ như một giọt máu và lay lắt tỏa ra một thứ ánh sáng mơ hồ. Người lão in trên vách. Cái đầu to tướng, tóc xõa dài, cùng với cây gươm trường đeo bên hông biến hóa thành một hình thù dị kỳ.
Cái bóng đêm u ẩn dưới mây đen, những tiếng chó đầu trên xóm dưới tru rú lên và tiếng sóng vỗ ì ầm, tất cả cái ấy như mang nặng những nỗi đau đớn đến vò xé tâm can lão. Cái thân người quằn quại của Sáu Sỏi dưới ngọn gươm của lão sắp xảy ra, cái gương mặt giận dữ của Phát, tất cả hình ảnh ấy cùng hiện lên trước mặt lão như một cái bóng đen.
Lão ngước mắt lên hướng tay phải nhìn tấm trần điều trên trang, lão ngước mắt về giữa nhìn bàn thờ ông bà, lão ngước mắt qua trái nhìn chân dung của Quan Công và lão cúi nhìn Hiếu đang nằm quay mặt vào vách.
Nhìn quanh nhà, thấy ghế bị ngã, thấy cột nhà bị nhiều lằn gươm mới chém, thấy cây gươm dài của Hiếu còn dính sâu trong cạnh phản, thì lão hiểu: Hiếu vừa qua một cơn điên loạn.
Nhìn con, lão thấy tội nghiệp làm sao! Trước đây, khi Hiếu là một tay học trò giỏi trong nghề võ, lão hằng mơ tưởng: Hiếu sẽ đi khắp nơi để truyền nghề cho bổn đạo, Hiếu sẽ trở nên một vị anh hùng. Mỗi lần mơ tưởng đến, lòng lão tuy có se thắt lại vì nghĩ đến cái cảnh phải xa con, nhưng lão vẫn cứ hằng ao ước như thế. Lão nghĩ: con đi vì đạo, lão cũng được phúc lây. Nhưng sau khi Phát, Sáu Sỏi từ U Minh trở về làng không bao lâu thì lão đã thấy Hiếu không còn hăng hái nữa, đã sanh ra buồn rầu và ủ dột rồi. Và sau nầy, hễ có dịp là nó hỏi lão:
- Tại sao lại đi theo giặc?
- Đồ ngu! Đây là diệu kế của đạo, đạo gì mà đạo theo giặc hả! Đồ ngu! - Lão trả lời lại với con bằng một giọng quát tháo và đàn áp như vậy. Nhưng đêm nay, đứng nhìn con thì lão tự hỏi:
- Trời! Ai ngu? Nó ngu hay là mình ngu?
Trong lúc cần có người an ủi, lão càng thấy thương con hơn.
Lão đến bàn thờ giữa nhà cầm lấy chai rượu cặp vào nách, đến lay chân Hiếu dậy, khẽ bảo:
- Hiếu! Ngồi dậy uống một miếng rượu cho ấm bụng, con!
Rồi lão đưa chai lên miệng, uống ừng ực một hơi dài. Như bất thình lình, Hiếu ngồi bật dậy, quát vào mặt lão:
- Có phải cha giết bác Sáu không?
Hiếu nhìn thẳng vào lão với con mắt tròn xoe sáng quắc và đầy vẻ căm hờn. Lão phát sợ đôi mắt ấy, lão buông chai rượu xuống phản, lùi ra, người hơi khom xuống và môi run run:
- Có phải tại tao đâu!
- Bác Sáu là cái gì của cha mà cha giết, hả?
Hiếu vừa quát vừa bỏ chân xuống bộ phản, bước tới, ngực anh như trùm lên đầu lão.
“Hừm!” Cái hung hãn và hơi men trong người lão bốc lên, lão đứng phắt dậy, nghiêng vai, mặt kề sát vào con và rít lên trong hai hàm răng:
- Hừ! Tao giết! - Và toàn thân lão run lên vì giận. Bốn con mắt nảy lửa chòng chọc nhìn nhau. Hồi lâu, thấy không thể xúc phạm nhau được, đôi bên cùng lùi dần ra.
Hiếu lại nằm ngả xuống bộ phản. Còn lão, lão ngồi xuống ghế, nhìn ra, đánh một hơi thở dài.
Lão ngồi im như một pho tượng. Phút chốc, những chuyện đau khổ đâu đâu và xa xôi đã xếp thành dĩ vãng từ dưới đáy đời bỗng sống dậy lên trong lòng lão. Lão thấy người như đang rụng dần từng khớp xương thớ thịt. Nước mắt của lão trào tuôn ra, lăn dài theo chòm râu. Lão thấy cần có một bàn tay an ủi, lão nhớ đến vợ, lão muốn làm lành lại với con.
- Mày là con, dầu gì thì mày cũng phải nhớ chớ! Con người ta thương mẹ thương cha không hết, có đâu như mày.
Lão bước đến bộ phản, tay nắm giữ lấy chòm râu, tay cầm chai rượu đưa lên miệng, uống ừng ực. Rượu theo hai bên mép lão chảy dài xuống râu. Đặt chai rượu xuống, khà một cái, lão nhìn con, nói với một giọng phân trần, nho nhỏ và tha thiết:
- Con có biết đâu, cha đã gặp bác Sáu con, khuyên giảng không biết là bao nhiêu lần rồi. Con cũng biết, có người nào bị bắt mà được đối đãi như bác Sáu con đâu! Hồi trưa này, cha đã tới xin cho bác Sáu con được lên khỏi hầm bí mật để mà giảng cho bác Sáu con nghe cái điều phải trái. Cha đã nói, nếu bác chịu quy y theo đạo thì cha sẽ xin tha cho. Nhưng bác thì cứ một mực, bác còn chửi cha là đầu hàng, là mắc mưu giặc. Cha đã hết lời hết tiếng, nhưng tại cái phần số của bác, cha còn biết ăn nói làm sao!
Hiếu lồm cồm ngồi dậy, cơn nóng vẫn còn sôi sục trong lòng anh, anh vẫn hỏi gằn lại từng tiếng:
- Bác Sáu về đây có phải để trả thù trả oán gì đâu. Bác về để giải hòa đôi bên, hợp tác lại để đánh Tây, tại sao không chịu?
Vẫn cái đôi mắt sáng và nảy lửa của Hiếu khiến cho lồng ngực lão nóng ran lên, nhưng lão cố đè giọng nói cho dịu bớt xuống:
- Ảnh nói điều gì tao nghe, tao biết hơn mày, mày tưởng muốn đánh Tây là được liền sao? Hả? Tao đẻ ra mày! Hồi trước, cuộc khởi nghĩa nào ở trong làng mà tao không đi theo bác Sáu mày? Năm ba mươi, bốn mươi, bao nhiêu người chết, hỏi vậy đã làm gì được nó? Hả?
Nói đến đây, lão bỗng vụt nhớ đến những hình ảnh thất bại đau đớn trong ngày Nam Kỳ 40 trỗi dậy: người chết, nhà cháy, kẻ bỏ nhà “vong gia thất thổ”, kẻ bị đày đi lưu xứ, những bàn tay bị xỏ xâu... mất đất, mất vợ, mất chồng, xa con lạc mẹ, tiêu điều và nước mắt...
Nghĩ đến đây, lão quay nhìn qua con, rồi buông xuống một tiếng thở dài:
- Con ơi! Muôn sự là tại trời!
Những lời phân trần của lão không đủ để xoa dịu cơn tức tối của Hiếu, đôi mắt anh vẫn nảy lửa và giọng nói vẫn giận dữ:
- Nếu không chịu hợp tác với người ta thì thôi, tại sao thừa lúc người ta đi tay không mà bắt giết hả?
Lão không ngờ Hiếu cứ vẫn hung hãn như vậy, vẫn cứ xoáy vào cái đau đớn của lão, lão không êm dịu được nữa rồi, lão đưa bàn tay run run chụp lấy chòm râu, nhìn thẳng vào Hiếu, tia mắt của lão như hai luồng lửa, lão rít lên:
- Hiếu! Ai đã mê muội mày hả?
- Không ai mê muội được tôi hết. Tôi thấy bác Sáu không phải là là... - Anh không tìm được tiếng, cứ là là... như người cà lăm.
- Là cái gì hả?
- Không phải là người bán nước.
- A!... Mày muốn theo bọn đó rồi hả?
- Tôi không biết! Ai đánh Tây thì tôi theo.
- Trời! - Lão rít lên với giọng đầy kinh hãi; đôi mắt của lão như to hơn và như lấn ra khỏi mí mắt. Mặt lão xám lại, lão buông chòm râu ra, hai tay khuỳnh lên, tràn tới, hung hãn như con gà trống phùng mang, phùng cánh trước một kẻ thù.
- Hiếu! Mày giỏi thì mày đi thử tao coi! Hiếu!
Tiếng hầm hừ trong cổ họng lão như tiếng gầm gừ của một con thú dữ.
Hiếu không chịu nhịn lão, anh nhổ cây gươm trường chém dính ở cạnh phản ném xuống đất:
- Cha có giỏi thì cha giết tôi nữa đi! - Anh ngước nhìn lão với một vẻ thách thức.
Cái tiếng gươm khua khiến cho lão rợn người. Đôi mắt của lão hoa lên dưới ánh thép và thằng con của lão đứng dạng hai chân bên ngọn gươm, cái thân người nghiêng tràn tới với gương mặt bừng lửa, nó như vụt lớn lên.
- A! Mầy muốn đấu gươm với tao đó à?
Lão lùi lại, một tay chụp lấy chòm râu, một tay xua ra lia lịa và giọng run lên:
- Đi! Mầy đi ra khỏi mắt tao, đi, đi ngay lập tức!
- Cha khỏi đuổi. - Giọng Hiếu cộc lốc. Anh vừa nói vừa quay mình bước ra sân.
Khi bóng của Hiếu hòa tan trong bóng tối thì lão buông mình ngồi phệt xuống phản.
- Thôi! Thế là hết!
Lão khẽ lắc đầu, rãi rơi những giọt nước mắt.
Trời bên ngoài, gió vẫn xao xuyến qua hàng dương bên đình.
Vừa lúc ấy, tiếng tù và từ cây gừa túc lên “bun bun” từng chập một, như giội vào đêm tối từng luồng khói đục.
Giờ giết Sáu Sỏi đã đến rồi. Lão Ịnh ngồi nghe tiếng tù và như tiếng gió độc thổi vào lồng ngực mình. Lần đầu tiên lão nghe một cảm giác buồn nặng khác thường và có cái gì nhoi nhói qua tim mình. Lão đưa năm ngón tay sờ lên đốc gươm và lẩm bẩm:
- Giết hay là không giết?
Lão bỗng vùng đứng dậy chạy ra sân, nắm lấy bờm ngựa và nhảy thốc lên yên. Trời, không khí nhuộm đen màu mực tàu, như bị mây đè ép xuống dày đặc, khó thở và nặng nề. Và mưa bắt đầu rúc rích.
Lão ngồi trên yên ngựa trơ như bức tượng đồng đen. Lão đưa mắt nhìn những ngọn đuốc cháy chấp chới ở pháp trường cây gừa. Lão đưa tay lên ngực, mắt ngẩng nhìn lên trời và lẩm bẩm:
- Dám xin thưa các vị thiên thần hai bên vai vế, các vị có linh thiêng hãy về đây xua đẩy giùm tà ma, quỷ quái ra khỏi người tôi, giúp cho tôi quên đi tất cả tình nghĩa bạn bè chí thiết. Hãy giúp cho lòng dạ tôi được cứng như sắt, vững như đồng. Hãy giúp cho tôi được trung thành với đạo. Nam mô a di đà phật!
Vái xong lão khẽ chợt rùng mình, rồi dang rộng hai chân đạp mạnh vào hông ngựa, tay phải giật cương, cúi rạp mình xuống, nhựa cất vó phóng lên và sải tới. Cái búi tóc sau ót lão bị sút ra, xõa dài sau lưng, bay tung lên và chập chờn trong những bóng đêm tràn xuống.