Chương XIV
Họ đã giết xong Sáu Sỏi. Họ quơ cao ngọn đuốc ra về và trổ giọng hát. Họ cũng hát bài hát Hòn vọng phu. Lão Ịnh ngồi lắc lư trên mình ngựa. Hai bàn tay của lão như dính phải chất nhờn, run buốt lên vì cái chết của Sáu Sỏi, như hãy còn giãy giụa trong lòng lão. Đầu lão choáng váng. Lão xuống ngựa, nhờ Năm Ngũ dắt ngựa về giùm, rồi tách ra khỏi đám đông. Bỗng lão sờ soạng.
Ngựa đi ngoài xa hí vang trời
Chiêng trống khua trăm hồi
Ngần ngại trên núi đồi
Rồi vọng ra khắp nơi
Thắng bao niềm chia phôi…
Giọng hát hòa tan trong tiếng sóng tràn theo sau lưng lão. Họ gào thét bài hát ấy, nhưng giọng hát cũng chỉ não nề, ai oán một tâm hồm u uất. Giọng hát cùng ánh đuốc vờn lên đêm tối. Ánh đuốc của họ không làm sáng được bầu trời, mà ngược lại, ánh đuốc vừa đi qua thì bóng tối tràn ụp vào, tối tăm hơn.
Tiếng hát ấy hiện lên trước mắt lão rõ ràng hình ảnh một người đàn bà bế con, đứng trên đỉnh núi cao trông ngóng chồng về. Trông mãi, trông mãi, người thành ra tượng đá thành Hòn vọng phu. Âm điệu của bài hát Hòn vọng phu mang theo tâm trạng tuyệt vọng của người đàn bà trông chồng đi chinh chiến. Độc nhất bài hát đó. Họ hát bài hát đó khi họ chào cờ, khi động viên nhau ra mặt trận, hát trong lúc mặc niệm và hát cả trong lúc vui mừng chiến thắng nữa.
- Vì sao thế?
Họ đang vui mừng chiến thắng mà sao từ dưới đáy lòng họ lại thốt lên lời ca tuyệt vọng? Vì sao thế?
Đêm nay, tự dựng lão Ịnh đặt ra câu hỏi ấy. Có lẽ linh tính báo cho họ và ta biết, ta và họ đang đi trên con đường tuyệt vọng chăng? Lão nghĩ như thế, rồi bước đi những bước chậm và nặng nề.
Quản Dõng ngồi trên lưng con ngựa ô, tay cầm đuốc, thấy một người to lớn mập mờ ở phía xa, hắn biết đó là lão Ịnh. Hắn muốn cất tiếng kêu, nhưng không hiểu nghĩ thế nào rồi hắn lại thôi. Hắn thúc ngựa chạy lên phía trước, thẳng tay quay tròn ngọn đuốc và hô to:
- Hòa Hảo vạn tuế!
- Vạn tuế!
Mọi người dừng lại, quơ kiếm, quơ đuốc và gào lên.
- Hòa Hảo vạn tuế!
- Vạn tuế!
- Vạn tuế!
- Vạn, vạn tuế!
Rồi họ lại hát, tiếng hát lan dần ra khắp nẻo. Khi mọi người tan về, Quản Dõng mới quày ngựa về hướng lão Ịnh.
Hắn sợ và cứ rùng mình vì những lời cuối cùng của Sáu Sỏi. Trước khi bị chém, Sáu Sỏi còn kêu lão Ịnh và ngẩng mặt về hắn mà nói: “Anh Tư! Thằng mà anh giết là thằng Quản Dõng kia kìa!” Chính vì cái câu ấy mà lão Ịnh trù trừ. Trong khi lão Ịnh trù trừ, Sáu Sỏi đã có đủ thời giờ ngước nhìn mọi người, có đủ thì giờ để nói với tất cả mọi người xung quanh: “Bà con! Nếu bà con có gặp thằng con của tôi, bà con hãy nói lại giùm tôi, bảo với nó, bảo nó phải bắn vào đầu kẻ giặc, phải bắn vào đầu tên Quản Dõng kia, còn đối với bà con, thì bảo nó đừng có trả thù!” “A! Cái thằng...!” Lúc ấy, hắn điếng lên. Không thể chần chờ được nữa. Hắn liền thúc ngựa tới, hét to. Hắn chẳng nhớ rõ là hắn hét cái gì nữa. Hình như là hắn hét lão Ịnh. Đến lúc đó, lão Ịnh mới dám bước tới trước mặt Sáu Sỏi. Trong ánh đuốc chập chờn, hắn thấy lão Ịnh vừa chém vừa nhắm mắt. Hắn hối hận: tại sao mình lại giết “nó” trước mặt mọi người. Tại sao không cho “nó” mò tôm? Cái đau đớn, cái trầm lặng có vẻ suy nghĩ của lão Ịnh khiến cho hắn lo sợ. Hắn thúc ngựa chạy nhanh hơn.
Gặp lão Ịnh, hắn liền xuống ngựa, tay cầm cây đuốc, tay chụp vai lão Ịnh lắc rung lên:
- Anh Phó! Anh làm tôi coi cũng được đấy! - Rồi hắn ngả người ra sau nhìn lão và tiếp - Nhưng tiếc cái anh Phó còn hơi trù trừ, để nó còn kêu đạo mình ra mà chửi.
Đoạn, hắn đưa tay lên ống vố đỏ rực lửa, hít một hơi dài, rồi vừa nhả khói vừa nói:
- Anh Phó chắc còn nhớ lúc đức Phật Thích Ca Mô Ni hồi còn là một vị bồ tát? Hồi đó, đức Phật đi che chở một đàn năm trăm người xuống biển mò ngọc trai, khi về thì có một tên cướp định giết năm trăm người đó mà đoạt của quý. Đức Phật là người nhân đạo, không giết tới con kiến chớ đừng nói đến chuyện giết người. Lúc đó đức Phật mới nghĩ, nếu không trừ tên tướng cướp đi thì năm trăm người kia sẽ bị giết, vì thương năm trăm người đó mà Đức Thích Ca đâm cái thằng tướng cướp đó. Đức Phật giết nó, không những để cứu năm trăm mạng người mà còn cứu cả cái thằng cướp đó nữa. Nếu để cho nó giết năm trăm người kia, nó sẽ bị tội, linh hồn nó sẽ bị sa xuống địa ngục, cũng vì thương nó mà đức Phật chịu nhận cái tội giết người cho nó. Cũng như anh giết Sáu Sỏi hôm nay, chẳng qua là anh cứu cho Sáu Sỏi khỏi cái tội quấy nhiễu con đường mưu sự cơ đồ cho đất nước mình đó thôi.
Hắn đưa tay vỗ nhẹ vào vai lão Ịnh:
- Chuyện làm của mình như vậy, có gì mà anh Phó phải buồn. Anh làm như vậy, bổn đạo biết được họ cười chết, anh Phó!
Cái gương cao cả và xa xôi không căn cội ấy của Quản Dõng đưa ra không an ủi được nỗi đau đớn của lão. Giờ đây, bao nhiêu kỷ niệm tình chí thiết với Sáu Sỏi đều sống dậy trong lòng lão, nhưng lão vẫn đưa tay nắm lấy chòm râu kéo đầu gật xuống, gật lên. Lão cố tạo ra một thái độ hài lòng và vừa đi vừa nói:
- Không! Tôi không buồn về việc Sáu Sỏi đâu anh Trưởng. Tôi biết, mình làm đây chẳng qua là vì đạo. Tôi buồn đây là buồn cái thằng Hiếu của tôi nó dám lớn tiếng với anh em... - Nói đến đây, lão ngừng lại và chớp mắt nhìn Quản Dõng. Lão thấy mình đã lỡ lời để lộ cái không hay của con cho người khác biết. Nó có bề gì, lão không thể sống được, lão đã thấy mọi người không được vừa ý nó rồi. Lão im lặng và đi những bước chậm. Cái im lặng của lão khiến cho Quản Dõng suy nghĩ. Hắn vừa đi vừa liếc nhìn cái vẻ ủ rũ của lão. Hắn thấy rõ cái nỗi đau đớn của lão hiện rõ lên trong cái vẻ ủ rũ ấy. Lão khổ khi lão giết một kẻ thù của hắn. Hắn thấy cần phải đề phòng cái nỗi khổ này của lão. Cái ý nghĩ phải đánh rơi cái chức phó ban của lão Ịnh liền trở lại với hắn. Có như thế, sau này, nếu lão Ịnh có trở tay chống hắn, lão Ịnh cũng không còn quyền hành gì, lão sẽ không lôi kéo được ai. Nghĩ đến đây, bỗng nhiên hắn thấy sợ con người to lớn với chòm râu đen dài đang lầm lì đi bên cạnh hắn. Hắn nhảy phóc lên lưng ngựa, định chạy đi; nhưng hắn cố giữ lại trầm tĩnh và nghiêng mình đưa tay níu lấy vai lão Ịnh:
- Anh Phó ghé qua nhà tôi uống rượu một chút cho ấm bụng!
- Thôi được anh Trưởng, tôi cần đi đốc thúc anh em canh gác cho cẩn mật.
- Anh Phó nghĩ tới đó là phải. Mình giết nó mình phải đề phòng cho cẩn thận mới được. Hay là như thế này, anh bảo thằng Chiến phi ngựa qua Nhân Mỹ. Nghe nói là bộ đội của Ba Kềnh Càng đang đóng ở đó. Bảo thằng Chiến phải khéo lời, mời bộ đội Ba Kềnh Càng, tốn bao nhiêu “sở hụi” ban trị sự mình sẽ chịu. Còn tôi, tôi báo với quan hai Tây được biết, có gì thì ủng hộ cho mình một vài trái đại bác! Như vậy nghe anh Phó! Đêm nay tôi nghi quá! Thôi, tôi về! - Hắn thúc mạnh vào hông ngựa, ngựa chồm sải tới.
Lão Ịnh vẫn trầm lặng và đi những bước chậm.
*Sau khi gặp Chiến, bảo Chiến đến nhà Năm Ngũ bắt ngựa; về đến nhà, không thấy Hiếu lão có ý hơi mừng. Lão pha vào diệm nước một ít rượu và xòe hai bàn tay run run ngâm vào. Hai bàn tay của lão cứ run run, buốt buốt, tê tê, lão thấy như không phải chính hai bàn tay của mình: Cái bàn tay cầm ngọn đao làm rụng đầu người bạn chí chiết!
- Bàn tay của anh có thể cắt được tình nghĩa anh em, nhưng bàn tay anh không thể che được ánh sáng của chánh nghĩa đâu!
Lồi nói của Sáu Sỏi lúc phản đối lời kêu hàng của lão trước đây, vẳng đến tai lão như lời nguyền rủa. Càng nhớ, lão càng kỳ cọ hai bàn tay. Nhưng bàn tay của lão vẫn chưa trở lại bình thường, lão trút thêm rượu và nhổm mình cao lên, dồn tất cả sức lực vào tay và kỳ cọ từng ngón một. Nước rượu vỗ vào thành diệm trào lên. Chốc chốc, lão đưa bàn tay lên, nhìn, rồi nhúng vào, rồi kỳ cọ. Dòng máu của Sáu Sỏi làm hoa mắt lão, lão thấy nước rượu trắng trong qua ánh sáng của ngọn đèn dầu đã đỏ ngầu như máu, mà hai bàn tay của lão vẫn chưa hết chất nhờn nhờn và tê tê, buốt buốt ấy.
Bây giờ, lão mới bấu víu lấy cái gương xa xôi của đức Phật do Quản Dõng nói ra mà an ủi nỗi đau đớn của mình. Lão kêu thầm:
- Anh Sáu ơi! Linh hồn của anh sẽ không sa xuống địa ngục!
Đoạn, lão chùi nhanh hai bàn tay vào quần, đi nhanh về hướng trang thờ, đốt lấy ba nén hương và ra đứng trước bàn thông thiên. Thân lão đứng thẳng, hai bàn chân khít lại, hai bàn tay chấp ba nén hương đưa lên ngang trán, đầy đủ cái tư thế thành kính nhất, lão thì thầm:
- Nam mô a di đà Phật. Cầu Phật tổ Phật thầy, chư vị năm ông, trăm quan cựu thần, chư vị sơn thần năm non bảy núi phổ độ bá tánh vạn dân tiêu tác, tỉnh sự giải thoát mê ly...
Ngoài cái câu chánh thức ấy, lão lại vái thêm:
- Nam mô a di đà Phật! Tôi là Nguyễn Văn Ịnh năm nay năm mươi tư tuổi, sanh đẻ ở làng Mỹ Long Hưng, thuộc quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên, đêm nay tôi có giết anh Sáu Sỏi là người bạn thân. Hôm nay, anh Sáu vì đi sai con đường của trời Phật mà tôi phải xuống tay. Tôi giết anh không phải vì thù nhơ oán chạ, mà vì lòng trung với đạo với nước. Xin các vị chư phật chứng kiến cho. Nam mô a di đà Phật...
Lão cúi đầu xá, cắm hương, rồi hai bàn tay chắp khít lại để ngang ngực, mọp đầu lạy: hai đầu gối, hai cánh và đầu mọp cho tới đất, hai bàn tay thì lật ngửa lên kèm theo hai bên trán. Lão lạy như thế là ba lạy.
Sau khi cầu nguyện xong, lão thấy trong người được nhẹ nhàng đi một ít. Và cho đến bây giờ, lão mới sực nhớ ra rằng: từ chiều đến giờ, lão chưa ăn một hột cơm nào.
Lão vào nhà, soi đèn xuống bếp. Nồi niêu đều trống rỗng và bếp thì lạnh tanh. Lão biết Hiếu không có nấu cơm chiều. Bụng lão cồn cào vì bị chất men đốt cháy. Nếu như mọi lần, lão đã đến nhà Quản Dõng để nhậu rồi, nhưng hôm nay thì lão nghĩ đến ông Năm Bầu, người bạn nghèo của mình.
Lão đến nhà ông Năm Bầu, thập thò ngoài cửa nhìn vào.
Thằng Chiến đi rồi, chỉ thấy ông Năm Bầu một mình trên bộ phản. Cạnh bên ông là một cái xương cá lóc nướng trui nằm vắt ngang miếng lá chuối. Chai rượu đã cạn, thân vẩy cá nằm đen trên manh chiếu.
Còn ông Năm Bầu, ông ta đang ngoẻo đầu bên cần cây đàn cò.
“Í i i ò, i ỉ ì ỉ í i ò...”
Đó là tiếng đàn hay là tiếng khóc? Lão nhìn ông Năm Bầu đang cầm cây cung đàn kéo qua kéo lại mà tưởng như ông ta đang cầm con dao cứa qua cứa lại khúc ruột mình. Rồi, lão thẫn thờ quay ra và đi lẫn trong bóng tối mịt mù.