Chương XV
Đêm hãy còn sớm mà trời như giữa khuya.
Nhà của Hằng lạnh tênh. Phi Hùng đã đi gác. Mẹ Hằng đang mọp đầu dưới trang thờ. Hằng đang quỳ dưới bàn thông thiên trước sân nhà. Ông Năm Ngũ đang ngồi uống rượu suông trên bộ phản. Nhà không để đèn. Chỉ có ánh sáng của những đóm lửa li ti của bó hương.
Ông đang vắt óc tìm ra những tội lỗi của Sáu Sỏi để chứng minh cho cái chết của Sáu Sỏi là phải. Ông mở trừng mắt, nhìn vào đêm tối. Hình ảnh của Sáu Sỏi hiện dần ra trước mắt ông. Tháng giêng năm 1932, Sáu Sỏi về xóm, dựng nhà cạnh bên nhà ông với đứa con trai mười hai tuổi. Cái thằng con thích đuổi theo chim én là đà trên mặt đường, mà Hằng rất thích. Sáu Sỏi cắt tóc cho Hằng, Phi Hùng, và cắt tóc cả cho ông mà không lấy tiền. Một anh thợ lành nghề! Trước khi cắt, tay lần tóc nhổ cho ông một sợi tóc bạc, rồi gãi gãi cái chỗ ngứa cho ông. Còn “cái nước” cạo nữa chứ! Cái dao cạo từ ót cạo dài đến nửa lưng, đã ngứa làm sao! Cả câu chuyện của Sáu Sỏi cũng gãi đúng cái chỗ ngứa của ông, nào chuyện làm ăn, chuyện “quốc sự”, chuyện Trương Định đánh Tây ở đám lá tối trời, chuyện những đâu đâu đang biểu tình chống sưu chống thuế. Những câu chuyện ấy cứ làm cho ông rộn rực mãi, vừa lo vừa thú, không ngủ được.
Ông đang tìm, đang moi móc những tội lỗi của Sáu Sỏi, thì những hình ảnh ấy lại đến với ông. Ông đưa tay gãi gãi ngay cái sợi tóc mà Sáu Sỏi đã nhổ cho ông cách đây đã hơn mười năm. Ông vội lắc đầu, xua đuổi những hình ảnh ấy! Và ông cố nhớ lại từng cử chỉ nhỏ của Sáu Sỏi từ lúc ở tù về. Một ông chủ nhiệm của huyện mà chẳng có vẻ gì là ông chủ nhiệm cả. Vẫn những bộ quần áo bà ba bạc màu, vẫn như xưa, chỉ có khác trước là tay không xách cái va li nhỏ đựng bộ đồ nghề, mà tay ôm một chiếc cặp bàng công văn giấy tờ. Vào đạo, ông để tóc, ông chủ nhiệm không cắt tóc cho ông nữa, nhưng thỉnh thoảng lại cạo râu cho ông. Sau khi được cạo râu, ông lại còn được ngoáy tai nữa chớ! Vừa được cạo râu vừa được nghe chuyện. Không như những người ngoại đạo khác, - cha cũng như con - ông chủ nhiệm không bao giờ cười cái đầu tóc của ông, không bao giờ hỏi ông chừng nào thì đi dự hội Long Hoa với giọng chế giễu, một ông chủ nhiệm ngoại đạo mà lại hiểu về đạo lý một cách sâu xa.
- Anh Năm có biết cái trần điều ở trang thờ có cái ý nghĩa gì không?
Ông là tín đồ, ông không biết sao được! Nhưng ông không nói, mà hỏi vặn lại:
- Vậy theo anh thì nó có cái nghĩa gì?
Ông “chủ” vừa cạo râu cho ông vừa nói:
- Tấm trần điều màu đỏ. Màu đỏ là máu, màu máu là màu cách mạng. Thờ trần điều tức là thờ cách mạng, tức là phải làm cách mạng, phải đánh Tây, phải đoàn kết với mọi người để đánh Tây.
Như được gãi đúng vào chỗ ngứa, ông thấy hãnh diện cho cái đạo của mình... Trong những cuộc vui trước anh em, vui miệng đôi khi nửa đùa nửa thật, Sáu Sỏi thường gọi ông là anh xuôi. Được làm xuôi với ông chủ nhiệm! Ông thấy tự hào!
Ông Năm Ngũ lại lắc đầu, xua đuổi những hình ảnh đó. Ông bỗng chợt nhớ ra rồi. Có, có một lần. Ông lẩm bẩm. Lần ấy, cũng là lần Sáu Sỏi cạo râu cho ông. Ông cố bám vào hình ảnh, cố nhớ lại thật rõ ràng. Một buổi chiều ba mươi Tết. Gió bấc non thổi rao rao qua cây xoài. Chim én lượn qua sân. Ông ngồi trên chiếc ghế đẩu dưới gốc xoài. Một lá xoài, rơi xuống trước mặt ông. Sáu Sỏi mặc bộ quần áo bà ba đen. Sáu Sỏi lấy ra con dao cạo trong chiếc cặp bàng, liếc con dao trên gan bàn tay.
Sáu Sỏi vừa cạo râu cho ông, vừa nói về đạo lý. Bỗng ông chợt hỏi:
- Chú biết nhiều đạo lý, thuộc nhiều kinh sấm, hay là chú vào đạo với tôi đi.
Sáu Sỏi cười, (ông nhớ cái nụ cười ấy) nói:
- Tôi không nói anh cũng biết, tôi thì tôi không tin trời Phật đâu!
Nghe nói, ông thấy nóng mặt, ông hỏi lại:
- Vậy thì ông chủ tin ai? Làm người ông không theo một cái đạo nào à?
- Tôi không tin ở trời Phật, nhưng tôi tin ở sức lực, ở con người và tôi cũng có một cái đạo, đạo làm người.
Lúc ấy, ông nổi nóng thật, nhưng ông cố dằn, ông hỏi lại với giọng châm chọc:
- Ông tin ở cái sức của ông, vậy ông quên cái ngày Nam Kỳ bốn mươi rồi à? Ông tin ở cái sức của ông, sao lại đi tù?
Nói xong câu đó, ông nghĩ là ông chủ nhiệm sẽ nổi điên lên. Nhưng không, ông chủ nhiệm cũng lại cười, cái nụ cười có vẻ coi ông là một đứa trẻ con, thế mới ức chớ! Ông chủ nhiệm cười, rồi nói:
- Anh là người có đạo mà anh lại quên cái câu kinh, câu sấm này rồi à? - Ông chủ nhiệm đọc luôn, giọng trầm trầm: - “Chuyện thế gian như thể cuộc cờ, thắng với thối một hai nước tướng”. Đấy! Ăn thua nhau một hai con cờ mà nhằm gì, ăn thua nhau là ở nước cuối. Nam Kỳ bốn mươi bị thất bại thì Cách mạng Tháng Tám lại thành công!
- Cách mạng Tháng Tám thành công là nhờ có lá cờ già của đạo Phật giáo Hòa Hảo.
- Anh nói cũng đúng thôi! Nhưng nếu chỉ có lực lượng của bà con Hòa Hảo không thì cũng chưa đủ, cái chính là lực lượng của toàn dân.
Lúc ấy, ông đuối lý, nhưng ông vẫn tin theo ý nghĩ của ông. Nếu ở “thế gian” này mà không xuất hiện lá cờ già thì làm gì lấy lại nước được.
Đúng rồi, anh ta có bảo là anh ta không tin trời Phật. Làm người mà tại sao không tin trời Phật? Có cái tội nào to hơn như thế nữa không? Nhưng rồi ông thấy cái câu nói ấy của Sáu Sỏi không đủ cho cái chết. Ông lại thấy bứt rứt.
- Đúng! - Ông bỗng kêu thầm lên. - Làm chủ nhiệm của huyện mà không tin trời Phật, nên làng xóm mới ra nông nỗi này. Chết là đáng! - Ông nói thầm. Nhưng ông lại thấy mình nói gượng.
Ông lại lắc đầu. Đầu ông căng lên như muốn vỡ tung ra. Thôi. Không nghĩ nữa! Ông tự giận lấy mình. Ông cầm chai rượu, uống ừng ực, uống một hơi cạn cả hai phần ba lít. Ông uống một hơi dài.
Ruột gan ông nóng như lửa đốt. Đầu ông nặng như đá. Ông đưa tay chùi hai mép. Ông nằm ngả xuống. Ông lấy cái chai làm ghế kê đầu. Nhưng cái chai không nằm im, cái chai trượt xuống ót ông, thành ra ông kê cái cổ lên chai.. Đầu ông ngửa lên, miệng ông há ra. Bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu ý nghĩ lẫn lộn vào nhau, xoay tròn trong óc ông. Và ông không còn thấy gì nữa.
Mẹ Hằng lạy xong, lấy manh chiếu đắp cho chồng, ngồi cạnh bên chồng.
*Hằng quỳ dưới bàn thông thiên nhưng không mơ thấy những hình ảnh ở cõi hư vô nữa. Cái chết của Sáu Sỏi cứ hiện lên trước mắt nàng.
Đầu hôm, Hằng định không đi dự pháp trường. Nhìn cái cảnh ấy Hằng sẽ chết mất. Nhưng khi tiếng tù và vừa dội lên thì Bảy Thẹo đã đi qua nhà, hỏi vọng vào:
- Cô Hằng có dự pháp trường không? Bà con lối xóm, người ta đã đi hết rồi.
- Anh đi trước đi, tôi sẽ đi sau.
Đêm chập choạng, nhìn thấy cái bóng to, lùn của tên Bảy Thẹo, Hằng bỗng nhố đến những lời đồn: đêm đổi đời, bọn quỷ dương đi nghểu nghến ngoài đường, gõ cửa gọi tên người. Hằng rùng mình.
Hằng định vào giường, trùm chăn cho kín, thì hai cô ả con gái của Quản Dõng bước vào. Một cô cùng tuổi Hằng, một cô nhỏ hơn Hằng hai tuổi. Cô em hơi xinh, cô lớn xấu như quỷ. Cả hai cô đều ăn mặc theo điệu Phàn Lê Huê, Lưu Kim Đính. Cả hai cô đều giắt kiếm, vỏ kiếm bằng da may rất khéo. Cô lớn hỏi:
- Sao bây giờ mày còn ở đây, hả?
Cô nhỏ hỏi:
- Mày có thấy anh Bảy Thẹo đi ngang qua đây không?
- Dạ có!
- Anh có rủ mày đi không?
- Em bảo ảnh đi trước, rồi em đi sau.
Hằng biết là họ muốn ghép mình cho tên Thẹo, nàng thấy kinh tởm và buồn cười. Họ làm như cả làng này không được một người đàn ông nào vậy.
Một hồi tù và lại dội lên. Cô lớn giục:
- Thôi, mặc quần áo vào, đi đi chớ?
- Mấy cô đi trước đi, em cho heo ăn rồi em sẽ đi.- Hằng tìm cách từ chối.
- Bây giờ mà còn heo với củi. - Cô nhỏ nói.
- Em có được như các cô đâu. Nhà em dạo này bấn lắm.
- Thôi, đừng có viện lẽ. Chắc là còn nghĩ tình cha chồng rồi! Không đi thì cứ nói thật thôi. Ai làm gì đâu mà sợ.
Câu nói ấy ác quá! Nếu cô ta cứ cầm ngọn kiếm kia mà đâm vào tim mình, mình còn gì đau hơn. Hằng nghĩ. Nhưng Hằng lại cười ngất lên, mái tóc cứ rung lên theo chuỗi cười của nàng. Cái cách cười của nàng khiến cho hai cô của nhà Quản Dõng phát sợ.
Hằng luôn luôn chống chế lại bằng một chuỗi cười như vậy, rất nhạy như một thói quen của bản năng.
- Cha chồng của em đấy à? Thằng ấy thì để em giết mới vừa. - Nước mắt cùng tràn lên theo câu nói ấy của Hằng, nàng vội quay đi, rồi nàng nói với giọng liến thoắng. - Ừ! Đi đi hai cô.
- Thay quần áo đi! - Cô nhỏ bảo.
- Em cứ ăn mặc thế này thôi. Quần áo em đã giặt hết rồi.
- Tiếng tù và đang túc kên nữa kìa, đi đi thôi!
Thế là Hằng phải đi pháp trường. Hằng đi với hai cô con nhà Quản Dõng. - Cô tên Loan, cô tên Phượng. - Hằng đi giữa, hai cô đi hai bên. Hai bên hai ngọn kiếm. Hằng như bị họ giải đi. Hằng đi dự pháp trường, mà thấy mình như bị đem ra xử. Tất cả ống xương trong người nàng như mềm lại. Nàng thấy mình yếu như một cộng bún.
Đến nơi, pháp trường đầy đủ mặt người, có hơn nghìn người, những người ở xóm khác cũng đến.
Pháp trường là cái cột bằng cây săn, chôn dưới đất, cao hơn thước, dùng để buộc chặt người bị giết vào đó. Sau pháp trường là dòng sông, dòng sông lúc nào cũng hằm hè và từ xa khơi bủa lên những ngọn sóng bạc đầu.
Họ đốt đuốc vây một vòng hình cánh cung trước cây cột của pháp trường. Những ngọn đuốc, lửa không rực rõ, không tươi sáng. Ngọn lửa đỏ sậm, bốc lên một làn khói đen. Cái màu lửa thật tối tăm. Hằng bỗng chợt nhớ đến ngọn lửa dưới địa ngục của một bầy quỷ hình thù dị kỳ mà người ta vẽ trong các bức tranh. Trong ánh đuốc, mắt của mọi người đều đỏ hoe như những cặp mắt nhuộm bằng máu.
Quản Dõng ngồi trên mình ngựa cạnh bên cây cột. Hắn mặc bộ đồ già phủ phục đến gối. Tóc của hắn không bới, buông xõa và bị gió thổi tung lên. Bảy Thẹo đứng cạnh bên, cầm đuốc, thẳng tay đưa cao lên, gần mặt Quản Dõng. Trong ánh đuốc, nước da của Quản Dõng biến thành màu đồng điếu. Ngồi trên mình ngựa, tay giữ đốc gươm, tay cầm một tờ giấy màu đỏ đưa lên trước mặt, hắn cố gào lên cho át tiếng sóng, đọc xong một câu, hắn dừng lại, trợn mắt như muốn hăm dọa mọi người:
- Đêm nay, ta đem ra xử một thằng Việt Minh cộng sản, một thằng phản quốc, một thằng quỷ dương - thằng Sáu Sỏi. Nó đã chỉ huy bọn Việt Minh, giết hại bà con tín đồ chúng ta, bà con bổn đạo của làng chúng ta, đã chết hơn mười lăm người, đốt hai mươi ngôi nhà. Nó đã đập phá không biết bao nhiêu trang thờ của chúng ta, xé không biết bao nhiêu tấm trần điều của chúng ta, đốt không biết bao nhiêu hình ảnh đáng ngưỡng mộ của Phật thầy!
- Giết nó! Giết nó! Đả đảo.
Có nhiều tiếng bỗng thét lên. Tất cả đều gào theo, quơ đuốc, vung gươm vung kiếm. Gươm kiếm chạm vào nhau, nghe lạnh cả người. Quản Dõng tiếp:
- Nó độc tài, nó giành hết chánh quyền để đàn áp bà con bổn đạo của chúng ta. Nay, bọn nó đang bắt ép Thầy.
Cả một khối người liền xôn xao, nhìn nhau, xầm xì.
- Nó định mang giấy của Thầy về đây để do thám, nói là đế đoàn kết kháng chiến, nhưng nó là bọn tà tâm, nó về đây để lập mưu giết hại bà con bổn đạo chúng ta. Phật thầy đã vì bá tánh chúng sanh mà phải lao đao lận đận...
Trong khối người có tiếng sụt sịt khóc, có tiếng tắc lưỡi, tiếng thở dài và tiếng nghiến răng. Thầy bị nạn và cái chết của Sáu Sỏi, cả hai cái tin, Hằng đều bị xúc động. Hằng không đứng vững nữa. Hằng phải vịn vào vai của một người đứng cạnh. Giọng của hắn vẫn gào lên nhưng có vẻ đau xót:
- Trong cái cảnh gian truân này, như người bị nạn vì bá tánh, Thầy phải nói ngược lại. Thầy bảo đánh thì đoàn kết, mà Thầy bảo đoàn kết thì phải đánh. Giấy của Thầy đưa cho nó đi viết là đoàn kết, tức là Thầy dạy chúng ta phải giết nó.
- Đả đảo! Đả đảo!
Khối người bỗng vung đuốc, vung đao kiếm, gào thét lên như tiếng sấm.
Lúc ấy, ở phía sau, có tiếng lòi tói khua lên mỗi lúc mỗi gần. Chiến đang đưa Sáu Sỏi ra pháp trường.
- Đả đảo! - Quản Dõng vung tay gào lên.
- Đả đảo! - Mọi người đều gào theo, mỗi lúc mỗi to, mỗi lúc mỗi dữ dội hơn.
Chiến đưa Sáu Sỏi đến trước mọi người, rồi buộc chặt Sáu Sỏi vào cái cột. Tiếng gào thét, chửi rủa, thù hằn cứ nổi lên. Quản Dõng cho ngựa trở về, đứng cạnh bên khối người.
Khi Sáu Sỏi ngước nhìn thì, tiếng gào thét mỗi lúc mỗi thưa, mỗi dịu đi, rời rạc rồi im hẳn.
- Lão Ịnh đâu?
Quản Dõng quát hỏi. Mọi người nhìn nhau, lơ láo và kêu réo một hồi. Một hồi tù và dội lên, rồi lại một hồi nữa. Mọi người xôn xao, hỏi nhau, ngó quanh ngó quất, tìm lão Ịnh. Một lúc sau, người ta nghe tiếng vó ngựa. Và lão Ịnh đến. Trong ánh đuốc nhập nhoạng, người ta vẫn thấy được người lão Ịnh ướt đẫm mồ hôi. Lão Ịnh xuống ngựa, tay cầm một ngọn kiếm dài.
Hằng không dám đứng ở hàng đầu. Hằng ẩn ở giữa. Hằng thấy Sáu Sỏi bị buộc vào cây. Hằng quên hẳn cái tin của Thầy đang bị nạn (cái tin bịa của Quản Dõng). Vả lại, Thầy bị nạn thế nào, người ta không nói rõ và Thầy là một đấng thiêng liêng đáng ngưỡng mộ, nhưng đối với Hằng thì Thầy là một người không quen biết, trước mắt Hằng là Sáu Sỏi, một thân hình thật đáng thương, quần áo nhơ nhớp, mặt mày hốc hác. Nước mắt của Hằng dâng đầy và mờ đi. Những nét nhăn của Sáu Sỏi như mờ dần, Sáu Sỏi như trẻ lại, đôi mắt sáng, mũi dọc dừa, trán hơi cao, mái tóc húi cao và Hằng thấy như Phát đang bị trói, không phải là Sáu Sỏi nữa. Ánh đuốc chờn vờn qua gương mặt của Sáu Sỏi. Hằng thấy như hình ảnh của Phát đang lởn vởn đâu đây.
Hằng đưa tay bóp chặt lấy bụng, người run lên.
Khi lão Ịnh vừa xuống ngựa thì Quản Dõng phất cờ, hét lên một tiếng dài, “Sát!” và tất cả đều quơ đuốc gào theo.
Lão Ịnh bước tới. Hằng đưa tay bịt mắt lại trong cái cảnh hỗn độn ấy, Hằng nghe rất rõ tiếng của Sáu Sỏi.
- Anh Tư!
Rồi tất cả im lặng, như một cái máy xộc xệch đang rít, đang nghiến, bỗng dừng lại. Chỉ còn nghe tiếng nổ lách tách của ngọn đuốc.
- Thằng mà đáng giết là thằng Quản Dõng kia kìa! - Hằng như mất hết cảm giác, nàng chỉ thấy lạnh cả người.
Quản Dõng lại hét lên một tiếng dài “Sát”, nghe như tiếng rống của một con thú dữ bị thương. Khối người lại quơ đuốc, quơ kiếm, gào theo.
- Anh Tư!
Tiếng gào la, tiếng gươm kiếm va vào nhau lại nhỏ dần, rời rạc, rồi im lặng.
Giọng của Sáu Sỏi vang lên. Hằng nghe như từ xa vẳng đến:
- Bà con ạ!... Nếu bà con có gặp lại thằng Phát con của tôi, bà con nhớ nói lại nó giùm cho tôi, bảo với nó, bảo nó hãy bắn vào kẻ giặc, bắn thẳng vào thằng Quản Dõng kia, còn đối với bà con thì bảo cho nó đừng có trả thù.
Hằng nghe rõ tiếng cờ phất trên tay của Quản Dõng và tiếng con ngựa rùng mình bỏ vó - có lẽ nó cất đầu chồm lên.
- S a a á t!
Khối người lại ùn lên. Đuốc, đao, kiếm, gươm giáo lại quơ. Lần này, Hằng nghe cái tiếng gào la của mọi người như không thật. Có một vài tiếng kêu thét, nạt nộ nổi lên:
- A! Thằng Tư Ịnh!
Hằng thấy lão Ịnh bước tới và ngọn kiếm đưa cao lên.
Hằng vội ôm lấy mặt. Hằng không thấy, nhưng Hằng nghe tiếng ngọn kiếm xả xuống người Sáu Sỏi.
Từ lâu, tuy không gặp lại Phát, nhưng giữa Hằng và Phát hãy còn một sợi dây ràng buộc lấy hai người. Sợi dây ấy vô hình và mong manh, nhưng không bao giờ bị đứt, Hằng vẫn hy vọng, hai người sẽ lần theo sợi dây ấy mà tìm lại nhau. Sợi dây ấy như đã giữ Hằng lại những lúc sắp ngã. Hằng đã nắm chặt sợi dây và nhờ đó mà Hằng đã đứng vững. Hằng không đi theo con đường của mọi người, Hằng vẫn không yêu ai. Sợi dây ấy như đã bị ngọn kiếm của lão Ịnh chặt đứt rồi. Hằng thấy chới với và mắt tối sầm lại.
Cái chết của Sáu Sỏi làm rung động cả lòng người. Những người đi dự pháp trường, họ chờ đợi người bị giết khạc ra những lời thù hằn. Nhưng người bị giết lại nói ra những lời tha thiết và bạn bè. Trước khi chết, còn lo cho số phận của họ.
Lồng ngực họ đã căng lên vì căm thù, như một quả bóng đầy hơi, chực nổ tung ra thì bỗng thóp lại và xẹp dần xuống. Họ chờ đợi những tia lửa thù hằn trong đôi mắt của người bị giết nhìn về phía họ, để họ lấy đó mà đốt lên ngọn lửa trong lòng mình. Nhưng người bị giết lại nhìn họ với đôi mắt đau khổ và chan chứa một tình yêu. Và tia mắt của người bị giết như chia tách họ ra với một số người.
Ra khỏi pháp trường, họ cố gào la để át đi những kỷ niệm tốt đẹp của người bị giết đang lần lượt trở về. Họ cố gào la để ghìm lại những giọt nước mắt. Họ gào la đến khàn cả cổ. Họ không dụm ba dụm bảy để bàn thêm cái chết như mọi lần nữa. Họ không giết gà, mổ heo, uống rượu, cười nói và la ó như mọi lần nữa.
Họ đã kiệt sức rồi.
Họ tản ra về, mỗi người một ngọn đuốc mập mờ trong các lùm cây trên khắp các ngả đường. Đuốc tắt và tiếng hát cũng tan đi.
Còn Hằng thì ôm mặt chạy về nhà, vội vàng thắp lấy một nắm hương, quỳ dưới bàn thông thiên. Cùng với cái chết của Sáu Sỏi, hình ảnh của Phát cứ hiện lên trước mắt Hằng. Nàng thấy Phát trở về, khi thì Phát đốt nhà, đập phá, khi thì Phát nổ súng, bắn người này đến người khác. Hằng thấy mình đang chạy đến Phát, ôm lấy đôi chân của anh ấy như ngày nào, nàng khóc và kêu lên:
- Anh! Anh! Bác bảo anh hãy bắn vào thằng giặc, hãy bắn vào tên Quản Dõng, còn đối với đồng bào thì đừng có trả thù.
Hằng thấy khi thì Phát xô nàng ra, tay cầm súng lao vào ngọn lửa, khi thì cúi xuống, đỡ nàng đứng dậy.
Cây cỏ, nhà cửa và cả cái làng Mỹ Long Hưng đều chìm sâu trong đêm tối. Bầy đom đóm đậu trên tàn gừa chỗ pháp trường như những ngọn đuốc vừa thu nhỏ lại, thoi thóp và lập lòe. Tiếng động chỉ còn có tiếng sóng của dòng sông, tiếng lá khô lông lốc trên mặt đường và tiếng gió rít qua hàng dương. Mây đen vẫn cứ vần vũ và không mưa được. Trời oi bức.
Một vài tiếng sấm rền lên ở nơi xa.
Hằng quỳ dưới bàn thông thiên mà không niệm Phật. Hằng quỳ dưới bàn thông thiên, mà tưởng mình như đang quỳ dưới chân Phật.
Và nước mắt đầm đìa cả mặt nàng.