← Quay lại trang sách

Chương XVI

Trong lúc ấy, mẹ Hằng ngồi bó gối trên bộ phản, miệng nhóp nhép nhai trầu. Bà ngồi đấy, khi thì nhìn chồng đang ngủ trong cơn say, khi thì nhìn đứa con gái đang quỳ dưới bàn thông thiên, khi thì lắng tai nghe tiếng động chờ đứa con trai trở về.

Mẹ Hằng cũng là người đàn bà mê tín. Chính bà là người đầu tiên khuyên bảo chồng con hãy vào đạo. Nhưng lòng mê tín của bà không bị cuốn đi. Bà là người mẹ, người đàn bà trong gia đình, cũng như bao nhiêu người đàn bà khác, lúc nào bà cũng lo cho cái ăn cái mặc và thu vén cho gia đình. Chính những điều lặt vặt như cơm cá, mắm muối, tiêu hành, đèn dầu luôn luôn níu lấy ý nghĩ của của bà trở về với cuộc sống thực.

Trước đây, Hằng còn lo lắng việc nhà, nhưng gần đây nó cũng bỏ mặc cho bà, như thế là một tay của bà phải xoay xở cho năm miệng ăn. Không như chồng con, như người khác, bà biết rằng đất mà bỏ hoang thì nhà không gạo, tằm không nuôi, dâu không trồng, khung cửi không dệt thì quần áo sẽ rách rưới, không nuôi con gà, con heo thì không có tiền để mua lấy những vật dụng trong nhà. Lúa đã đi vay nhà Quản Dõng thì sau này phải trả. Bà không tin Quản Dõng, bà thấy thương lão Ịnh và tất cả tín đồ. Bà mong muốn mọi người hãy yêu thương nhau, hãy cùng nhau đánh Tây cứu nước, hãy quần tụ dưới ngọn cờ của Phật và đức Cha già đáng tôn kính của dân tộc - đó là Hồ Chí Minh. Bà thấy anh em trong làng không có để thù hằn nhau cả, tất cả đều là con một cha, nhà một mẹ. Bà hiểu nhiều lắm, và bà cũng hiểu trong cái lúc hỗn độn này, trong lúc tâm trạng của mọi người đang sôi nổi như điên, tốt nhất không nên nói một điều gì trái với ý nghĩ của họ. Bà biết mình đang bất lực, cho nên bà đành phải âm thầm. Bà chỉ biết lo và tìm mọi cách chăm sóc, an ủi chồng con thôi. Hai ba lần thấy chồng từ xa về, chân đi chữ bát, quần dài không mặc, chỉ còn mặc một cái quần đùi, quần dài quấn qua đầu, thì bà vội vàng đi lùi một củ khoai, nấu nước khoai để cho chồng uống để giã rượu.

Thấy con trai đi khuya thì bà dọn dẹp giường ngủ cho con, thấy con gái bận đi hội họp thì bà lo thổi nấu. Bà vừa đau xót cho cái chết của Sáu Sỏi, người bạn sắp lập sui gia, vừa thương xót cho mối tình dang dở của con, vừa vu vơ nghĩ đến những ngày nước lũ sắp về.

Sẽ không còn bao nhiêu ngày nữa, dòng sông Cửu Long sẽ dâng tràn cả đường xá và cánh đồng. Nước sẽ đưa cá Biển Hồ về làng, cá từng bầy từng lũ dưới mặt nước dày đặc như bánh canh. Bà thầm đếm lại những cái lờ, cái lọp, cái đó, cái đăng. Bà tính đến những gì trong nhà còn có thể bán được để có thể lấy tiền mua muối. Mùa nước năm nay bà sẽ chăm chút hơn, bà sẽ thức khuya dậy sớm để đổ lờ, đổ lọp nhiều hơn. Bà sẽ làm khô, làm mắm nhiều hơn để đổi cái ăn cho cả nhà. Con gà, con heo bà mang ra chợ bán lấy tiền mua gọi để khỏi phải đi vay từng giạ lúa của nhà Quản Dõng nữa.

Nghĩ hết mùa cá bà lại nghĩ đến mùa xoài. Bà chẳng có vườn xoài nào cả, đất để ở còn phải đọng thuế, đất đâu mà làm vườn. Mùa xoài sắp tới chắc là ít người lo tới. Bà sẽ dành dụm, nếu không thì mua trước trả sau. Bà sẽ đi buôn xoài, mỗi ngày ít nhất sẽ thu đôi ba đồng.

Bà cứ ngồi đấy nghĩ miên man. Chợt nhớ đến việc nhà, bà đốt ngọn đuốc bước ra sau hè, đóng lại cánh cửa chuồng gà.

Hiếu không đi dự pháp trường. Giận cha, anh bỏ đi nhưng chưa biết phải đi đâu. Anh định đến Lành nhưng Lành cũng không an ủi anh được nữa rồi. Khi nghe tiếng tù và túc lên báo hiệu giờ giết Sáu Sỏi đã đến, anh liền chạy thẳng đến cây cầu trong làng, chỗ bến đò, cây đa. Anh vào trạm gác nói khào với mấy anh lính gác một lúc rồi tìm cách lẻn đến khoảng vắng của khu vườn. Đấy là nơi vắng vẻ, nhà cửa thưa thớt, cây cối um tùm, nơi mà những đồng chí kháng chiến hay trở về. Hiếu vừa chạy vừa kêu thầm: “Anh Phát ơi! Đến bây giờ mà sao anh chưa chịu về?”.

Gió rít ù ù và thổi bay manh áo anh. Anh vẫn cứ chạy, thỉnh thoảng anh ngoái đầu nhìn lại.

Khi đã ra khỏi xóm, tai không nghe tiếng tù và, và mắt không thấy những ánh đuốc chỗ giết Sáu Sỏi nữa, thì anh dừng lại.

Anh vừa thở vừa nhìn vào những lùm cây để mong gặp lại một người về, nhưng chung quanh anh cũng chỉ là lùm cây, bóng tối và tiếng sóng vỗ ì ầm. Dòng sông vẫn mênh mông, vẫn vắng lạnh và vẫn trào lên những ngọn sóng bạc đầu. Thế là không có một ai về rồi! Hy vọng cứu Sáu Sỏi không còn nữa, Hiếu nghĩ đến việc đã xảy ra với cha mình. Anh thấy hối hận và đau đớn. Anh không khóc, nhưng anh nhớ lại những giọt nước mắt đọng long lanh trên chòm râu của cha. Cha anh suốt đời có bao giờ biết khóc! Anh nghe những giọt nước mắt hiếm hoi ấy từng giọt, từng giọt rỏ buốt xuống lòng mình. Bao nhiêu hình ảnh của người cha suốt đời chịu cay đắng nhọc nhằn vì con, lũ lượt quay về trước mắt anh.

Cái cảnh bao la mờ mịt của dòng sông và tiếng ầm ì của sóng gió như mang một nỗi buồn trơ trọi đến vò xé tâm can anh. Đôi mi anh nóng ran lên vì nước mắt. Bỗng chốc anh thấy tha thiết nhớ đến cha như đã xa nhau từ lâu lắm. Giờ này, chắc cha anh đang vật vã vì đã giết Sáu Sỏi, và đang cần đến sự an ủi, đang nhớ anh?

Thấy những ngọn đuốc của những người đi dự pháp trường rải rác trở về trên các ngả đường, anh lững thững trở về.

Hiếu về đến nhà thì lão Ịnh đã ra đồng. Anh chỉ thấy hương khói trên các trang thờ, cảnh nhà thật âm u.

Thấy diệm rượu còn để trên bộ phản, tưởng là diệm nước, anh đưa tay vốc lên rửa mặt. Rượu thấm vào mắt anh cay xè. Thuận tay, anh ném cả cái diệm ra ngoài. Cái diệm vỡ tan.

Hiếu ôm mặt nằm sấp xuống mặt phản. Anh không còn muốn nghĩ gì nữa. Anh muốn quên tất cả. Anh nhắm nghiền đôi mắt cay xè, cố dỗ giấc ngủ...