Chương XVII
Lão Ịnh bước ra khỏi nhà ông Năm Bầu, trong lúc lẩn quẩn chưa biết đi đâu, sẵn đi trên con đường mòn, thuận chân, lão bước thẳng ra cánh đồng và ngồi lại dưới gốc cây vông cạnh những đầm sen. Những cơn gió dữ dội đã gom đám mây đen về một bên trời. Trên trời tây nhấp nháy một vài vì sao.
Cánh đồng trước mặt lão chỉ còn là cánh đồng hoang của cỏ lác, cảnh vắng lặng ấy chỉ còn có cánh vạc đi ăn đêm, những bầy đôm đốm lập lòe và tiếng dế giun ri rỉ. Những cơn gió miên man đưa hương sen dìu dịu thổi vào lồng ngực lão. Lão nghe như những cơn gió trong của cánh đồng khuya ấy đang thổi tan dần những chất độc đã thấm đen trong người mình, lão thấy tâm hồn được mát nhẹ, thấy mình như người đang mê trong cơn điên loạn của giết chóc và tang tóc được dần dần tỉnh lại.
Lão ngước mắt nhìn những vì sao và đưa tay vuốt vuốt lại những lọn tóc như sắp xếp lại những ý nghĩ bị lôi cuốn ở trong đầu.
Một đàn chuột có hơn mười con - đã được sống và lớn lên trong sự thờ ơ về mùa màng của con người - to bằng con chồn, nối đuôi nhau chạy qua trước chân lão, nó vừa chạy vừa kêu rúc rích như cười. Con cuối cùng bỗng dưng quay đầu lại, nhúc nhích bộ râu, kêu “chúc chích” mấy tiếng như muốn nói “cám ơn bác” rồi như giật mình, nhảy ngược lại một cái và phóng chạy theo đàn.
Nhưng lão Ịnh có nghĩ gì đến việc mùa màng ấy, lão hãy còn đang nghĩ về việc làm của mình. Nói cho đúng hơn là lão đang nghĩ lại về con đường đi của mình.
- Tà hay chánh? - Lão lẩm bẩm và tự hỏi.
Như để trả lời cho câu hỏi đó, lão nhớ lại lần lượt tất cả những cái gì đáng nhớ một cách tuần tự, rõ ràng và bình tĩnh. Lão nhớ rõ lại cái ngày mà lão bỏ làng đi, và cũng là cái ngày mà lão bỏ hàng ngũ của mình. Ngày ấy là ngày... năm bốn mươi của Nam Kỳ khỏi nghĩa.
Đêm hôm đó, tất cả chuông trống, mõ và tù và cùng một lúc đều nổi dậy. Cũng như bao nhiêu tá điền trong làng, lão cũng cầm đuốc, cầm dao đi cướp đồn của tên quận Ghiđi giành nước, giành lại đất cho dân cày. Và lão là một trong những người đi đầu. Bao nhiêu sự chờ đợi và hy vọng của lão đều hướng vào cái đêm ấy. Niềm tin chất chứa trong lồng ngực căng phồng của lão cháy lên ngùn ngụt không khác nào những ngọn đuốc của đoàn biểu tình. Cái đêm ấy, người lão cứ ngây ngất như say. Đôi vai to lớn của lão lách người này, người nọ, chen ra phía trước để được đi gần Sáu Sỏi.
Nhưng... chuyện không thành.
Sáng hôm sau, khi mà tên quận Ghiđi và Quản Dõng bọn lính mã kỵ mặt mũi đen sì về làng đốt phá, lùng bắt và khi mà Sáu sỏi mặt mày bị sưng húp, áo rách te tua như xơ mướp, ngực bị bầm đen, tay bị trói ngược ra sau đi giữa hai hàng lưỡi lê sáng chói, thì lão nằm trốn dưới bệ thờ thần của đình làng. Nằm nghe những tiếng súng nổ, tiếng nhà cháy, tiếng kêu khóc của trẻ con, tự dưng lão thầm van vái nhờ các thần linh của đình làng che chở cho.
Giữa đêm, lão đến ông Năm Bầu gửi Hiếu, rồi cùng với hai đứa con nhỏ bơi chiếc xuồng cui, vượt sóng đến tận làng Hòa Hảo xin ẩn náu trong gia đình của người anh bà con họ.
Lão còn nhớ rõ cái buổi chiều đi trên chiếc xe ngựa do người anh họ xa ấy đưa đi. Lão nhìn ra bên đường, thấy sân nhà nào cũng dựng lên một bàn thông thiên. Khói hương cứ quẩn quất một nỗi buồn. Và người thì già trẻ, trai gái gì sau ót cũng tòn teng cái búi tóc. Quả là một đất nước lạ lùng. Chỉ có mấy năm mà thay đổi hẳn đi rồi.
Trong tiếng vó ngựa chậm rãi và đều đều của buổi chiều hiu hắt ấy, ông Chín Cối, người anh họ của lão, với một giọng trầm trầm và thành kính, ông ta đã cắt nghĩa cho lão rằng:
- Cái làng Hòa Hảo này bây giờ đã thành cái đất Phật rồi đó, chú Tư!
Ông Chín gò cương cho ngựa chạy chậm lại, chốc chốc ngoảnh cái gương mặt đượm vẻ buồn tư lự về phía lão mà bảo:
- Chú thấy người trong làng ai nấy đều để tóc chắc là chú tức cười lắm, phải không? Không nên đâu chú Tư ạ! Ông bà tổ tiên mình ngày xưa có ai đi cắt tóc như mình bây giờ đâu! Cái đám hậu sanh của mình đây, vì bị cái thằng “Tây lỗ mũi lõ” nó qua đây, nó “truyền nhiễm” cho mình đó chớ!
Nói đến đây, ông Chín Cối chồm lên đưa roi đánh đốp vào lưng ngựa một cái. Ngựa chồm lên, xe chạy lắc lư. Ông Chín Cối lại gò cương cho ngựa chạy êm lại, rồi với một vẻ mặt hối hận, ông nói:
- Tôi hối lắm chú Tư à! Chú thấy cái đầu của tôi bây giờ mà còn trụi lủi đây thì chú biết, thật là tôi có lỗi với ông bà, trước đây vì bị con mắt trần tục mà tôi không thấy, nên tôi sợ người ta cười. Ngay từ lúc này, tôi đã bắt đầu để tóc rồi đó, chú Tư!
Ông Chín càng nói càng say sưa, và đôi mắt càng trở nên mơ màng, ông xoay người hẳn lại đối diện với lão, cho ngựa chạy chậm lại và tiếp:
- Tôi biết chú lên đây là không phải lên để làm thuê làm mướn gì đâu! Mà chú lên đây để mưu việc nước, tôi biết, chú đừng giấu... Nhưng mà... - Ông Chín Cối ngừng lại như ngại ngùng không muốn nói và đưa mắt nhìn khắp người lão hồi lâu rồi mới tiếp: - Không làm gì nổi nó đâu, chú Tư! Tụi nó là giặc trời chứ có phải là giặc thường đâu! Giặc trời mà không có phép Phật thì nó không tan đâu chú Tư! Chú cũng nhớ cái câu “mưu sự tại nhân mà thành sự thì tại thiên” chứ? Nằm đêm, chú ngẫm lại mà xem, từ xưa cho đến nay, dân mình có biết bao nhiêu lần nổi dậy, nhưng hỏi chú, có lần nào được nó không? Nào là thời Trương Định, thời Nguyễn Trung Trực, thời Nguyễn An Ninh, cái thế của mình như một ngọn lửa dưới một trận mưa, bởi vậy, không bị dập tắt làm sao được. Rồi bây giờ, qua đến cái thời của những ông làm cách mạng, hỏi vậy cái năm bốn mươi này, mình làm gì được nó? Tại sao mà cơ sự nó ra nông nỗi như vậy, hở chú? Có phải là tại vì mình không chịu quy y theo đạo để nhờ phép tắc thần thông của Phật thầy không? Hồi ngày xưa, lúc Tam Tạng đi thỉnh kinh, Tôn Hành Giả là người biết thăng thiên độn thổ, đã từng làm náo động cả thiên cung, mà đến lúc hiểm nghèo, Tôn Hành Giả còn phải đi cầu Phật thầy! Chú lên đây rồi chú sẽ thấy. Chú có biết ông Ngô Quang Vĩ không? Đi làm cộng sản từ ở xứ Badi (Pari) về bên này, bây giờ ông còn quy y theo đạo thầy, huống chi là mình, hở chú!
Trong cái tiếng vó ngựa thưa thớt và đều đều ấy, giọng của ông Chín Cối tuy sôi nổi, nhưng mỗi lúc một buồn tênh, ông tiếp:
- Cái việc năm nay, chết chóc như vậy chưa phải là hết đâu! Còn nữa - ông ta kéo dài cái tiếng còn nữa ấy - còn chết như là rạ chú Tư à! Chú đi làm việc nước, chắc là chú cũng biết cái thời ly loạn này rồi chứ? Nhật vào Đông Dương rồi Đồng minh đánh phe trục, còn nữa, có phải như vậy mà thôi đâu! Bởi vậy cho nên kinh sấm có truyền lại rằng... - Ông Chín Cối ngẩng đôi mắt mơ màng nhìn lên xa xăm một lúc, rồi cất lên một giọng trầm trầm như một dòng nước đục:
Mười phần chết bảy còn ba
Chết hai còn một mới ra thanh bình!...
và ông cắt nghĩa luôn:
- Đấy! đấy! Nghĩa là mười phần thì phải chết hết bảy còn ba, rồi phải chết hai còn một thì mới ra được cái sự đời chú Tư ạ! Bởi thế cho nên, lời Phật có khuyên bảo bá tánh chúng sanh như thế này... - Rồi ông ngâm luôn:
Người đời nay như ốc mượn hồn
Chim tìm tổ mới gọi chim khôn
Người hiền đức mới là người chí
Xin bổn đạo từ nay kim chỉ
Đói với nghèo sắp đến bây giờ...
Cái giọng ngâm nga trầm trầm và buồn bã ấy của ông Chín Cối, lão nghe như tiếng ai ru cho hồn mình và ngọn lửa hừng hực sẵn có trong ngực lão tự dưng dìu dịu xuống.
Lão xin ở nhờ trong cái chòi giữ lúa của ông Chín Cối. Ban ngày, lão gửi hai con cho bà Chín. Đêm, lão mang hai con ra chòi, một cái chòi trơ trọi giữa đồng. Ngày ngày, lão đi làm mướn, lão biết khá nhiều nghề: gặt, xắc thuốc, tát đìa, đào mương, bẻ dừa và những công việc nặng nhọc khác. Lão chỉ muốn làm đủ sống qua ngày, nuôi con để chờ cơ trở về làng. Nhưng lão sống không yên. Lão đi đâu cũng bị người ta dòm với cặp mắt dò xét, nghi ngờ. Người ta đang xầm xì to nhỏ với nhau, hễ thoáng thấy lão thì người ra hiệu, suỵt bảo nhau hãy im và dồn mắt nhìn khắp cả người lão. Lão luôn luôn thấy mình là con người xa lạ, luôn luôn bị người ta xa lánh. Bởi một lẽ rất giản đơn: lão không ăn mặc quần áo màu già, đầu không để tóc.
Lão toan trở về làng, nhưng sợ cảnh khủng bố. Hình ảnh của Sáu Sỏi bị trói giữa hai súng lưỡi lê hiện lên, lão lại thôi. Lão muốn đi lánh mặt ở những làng khác, nhưng làng nào cũng bị lùng bị bắt. Chỉ còn có cái đất Phật bọn lính kín và Tây mới ít qua ít lại thôi. Trong lúc ấy, những người ở khắp mọi nơi kéo nhau về đây xin theo đạo, nườm nượp như ngày hội lớn. Xuồng ghe trên các bến chen nhau như bến chợ. Xe ngựa qua lại dập dìu trên các ngả đường. Mỗi một chiếc ghe, trước mũi đều có bàn thông thiên, trầm hương ngui ngút suốt ngày. Đi trên đường, họ cũng cầm một bó hương, mùi thâm trầm của khói hương như tạo ra một không khí huyền bí luôn luôn phảng phất trong đời sống con người. Người ta như không dám làm gì gây ra tiếng động. Gặp nhau người ta không mừng nhau bằng cách vồ vập, không bắt tay theo kiểu Âu, mà chắp hai tay lên trước ngực xá chào, vừa thâm nghiêm, vừa kính cẩn như gặp nhau trong cảnh chùa. Người ta không to tiếng, nói gì cũng xầm xì, thỉnh thoảng lại suỵt một tiếng, bảo im. Những người ấy, đến đây, họ mang theo những nỗi buồn khổ của họ, mỗi một con người với mỗi cuộc đời, mỗi số phận khác nhau.
Đâu đâu, người ta cũng nghe nói đến cảnh khổ và mọi sự chán chường. Đất Hòa Hảo bỗng trở thành là nơi tố khổ của mọi người! Ngoài những cảnh ngộ riêng, người ta còn xì xầm với nhau về những chuyện khủng bố của giặc Pháp. Lão lắng nghe tất cả những tin đó, mặc dù người ta không nói với lão. Những người cộng sản, những người cầm dao cầm đuốc trong ngày khởi nghĩa, lần lượt đều bị bắt. Người bị bắt bị xỏ vào gan bàn tay thành từng xâu người, bị đày ra Côn Đảo, bị bắn ở giữa chợ, bị thả ra biển khơi. Đâu đâu, bọn cò Tây, bọn lính mật thám cũng đi lùng. Chúng lùng từng nhà, từng bụi rậm. Người nào chúng cũng xét hỏi giấy tờ. Ai là người có đạo, có để tóc, có mặc quần áo màu già, chúng mới cho tự do. Làng nào, xóm nào chúng cũng đến, chỉ còn có cái làng Hòa Hảo nầy, bọn chúng mới còn nể mặt thôi.
Đêm nằm gần hai con trong cái chòi giữa cánh đồng không hiu quạnh ấy, bao nhiêu tin tức ấy cứ hiện lên trước mắt lão bằng những hình ảnh do lão tạo ra. Lão thấy mình bị bắt, bị đày đi Côn Đảo. Chân tay lão bị xiềng. Lão nằm co ro trong ngục tối, bên ngoài là sóng biển gào thét ầm ì. Lão thấy mình bị xỏ vào gan bàn tay với Sáu Sỏi, bị đẩy xuống tàu sắt đen sì, bị xô xuống biển, bị sóng dồi dập, bị ngạt, rồi xương thịt rã tan ra. Ôi! Nếu lão mà bị bắt như thế, thì con của lão sẽ sống với ai? Mẹ nó đã mất rồi. Nhìn hai đứa con đang ngủ, nhớ Hiếu, lòng lão cứ se thắt lại.
Gần một năm sống lẩn lút, lão chưa hề gặp được người anh em đồng chí nào. Không có ai để bàn bạc đế lo lắng. Không có ai cắt nghĩa cho lão hiểu tường tận vì sao khởi nghĩa bị thất bại. Không có ai thêm sức cho lão. Không có ai mang đến cho lão một điều gì hy vọng đế lão nhìn theo đó mà đi. Suốt ngày, lão chỉ thấy có những con người trầm tư, lúc nào lão cũng nghe những tin đồn hoặc khủng khiếp, hoặc huyền bí một cách lạ lùng. Lúc nào lão cũng nghe kinh sấm với những lời lẽ cũ kỹ, chán nản với nhiều giọng buồn nản khác nhau. Kinh sấm ru người ta ngủ như một thứ thuốc mê, càng ngày càng thấm sâu vào tâm hồn. Nhiều đêm, lão thấy buồn như thắt ruột thắt gan. Làng, đã bỏ đi, nhà không có, hy vọng không còn, tiền làm mướn chỉ đủ nuôi con, không được thừa cho một cút rượu để khỏi phải nghĩ ngợi đến chuyện đời. Nghị lực sắt đá trong người lão như rã dần. Lão không muốn, nhưng lão cũng bắt đầu nghĩ đến lời lẽ trong kinh sấm, càng nghĩ lão càng thấy nản đời. Một đêm, lão đang trằn trọc thì ông Chín Cối mò ra chòi, gọi lão.
Lão vừa đánh diêm châm đèn thì ông Chín Cối thổi tắt và bảo:
- Đốt đèn mà làm gì. Ánh hào quang của nhà Phật - ông Chín Cối vừa nói vừa ngẩng nhìn những vì sao - đang chớp nháy đầy trời kia, không đủ soi sáng cho lòng dạ của mình hay sao? Chú tắt đèn đi chú Tư, tôi ra đây khuya khoắt như thế này kể cũng phiền cho giấc ngủ của chú. Nhưng vì tôi có một chuyện muốn “trần tình” với chú.
Qua giọng nói nghiêm nghị và vẻ mặt trang trọng của ông Chín Cối, lão đoán biết là chuyện gì rồi. Lão hơi bối rối:
- Anh Chín ngồi xuống đây... Tôi đến đây, tôi sống, tôi chết là cũng nhờ anh. Có chuyện gì, anh nói đi, tôi sẽ nghe theo lời khuyên bảo của anh.
Lão không ngờ mình lại nói được những lời dịu dàng và có vẻ đàn em như vậy. Từ xưa đến nay, lão vốn là con người ngang tàng. Lão vừa thấy nhục, vừa thấy mủi lòng.
Ông Chín Cối nhìn vào đôi mắt của lão một hồi lâu, rồi nói:
- Chuyện nói với chú đây, chẳng có gì là mới lạ. Vốn tôi là người không thích nói nhiều, mà tôi cũng đã nói với chú nhiều rồi. Đêm nay, tôi không ngủ được. Tôi biết là Phật trời khiến cho tôi ra đây để trần tình với chú lần cuối cùng. Chú lên đây đã gần một năm rồi, nhưng mà chú ngẫm nghiệm chưa ra cái lẽ đời. Những người “làm cộng sản” hơn chú, bao nhiêu lần bị tù đày, bị lưu vong, bị thất bại, người ta cũng đã hồi tâm mà quy y theo đạo rồi, ai ai cũng quy tụ dưới chân Thầy. Còn chú? Kinh thơ của nhà Phật có câu: “Người đời nay như ốc mượn hồn. Chim tìm tổ mới gọi chim khôn”.
Chú như chim đã về đến tổ rồi mà chú chưa biết. Chú ở đây mà hồn của chú cứ vỗ cánh bay đi như một con chim lạc đàn vậy. Thôi thì cũng tùy chú, tôi không dám ép, âu cũng là cái số phận của chú thôi. Nhưng phiền một nỗi, nếu bọn Tây tà biết chú mà mò tới đây thì ai là người che chở cho chú? Tôi sẽ vì chú mà bị liên can, rồi tan nhà nát cửa, rồi cả cái làng Hòa Hảo này có khi vì chú mà bị cháy ra tro. Nếu mà như vậy, tôi sẽ có lỗi với Phật trời, với bà con bổn đạo đến dường nào. Chú vì bị nạn mới lên đây nương náu, tôi không nỡ, nhưng chú cũng nên nghĩ cho cái tình cảnh của tôi. Thôi, đêm nay tôi ra đây là để trần tình với chú mấy lời như vậy nữa thôi. Chú hãy tùy theo lòng dạ mình mà lo liệu.
Ông Chín Cối nói xong, liền đứng dậy ra về.
Thế là ông Chín Cối muốn đuổi lão ra khỏi cái chòi rồi! Lão thấy nghẹn đắng ở cổ và nước mắt cứ trào ra.
Lão kêu theo:
- Anh Chín! Anh Chín!
Ông Chín Cối như không nghe, cứ lầm lũi đi. Lão chạy theo:
- Anh Chín!
Lão đuổi kịp ông Chín Cối, nắm lấy vai ông Chín Cối, nói nghẹn ngào trong nước mắt:
- Anh Chín! Anh hiểu cho tôi. Tôi chẳng phải là người không biết nghĩ. Nhưng tôi không muốn vào đạo cho lấy có, đã vào đạo thì phải thờ đạo cho hết lòng. Anh Chín nói với bà con để cho tôi vài hôm nữa.
- Tôi thương chú, tôi mới nói. Chứ đừng có giận tôi.
- Tôi biết, anh Chín! Gần một năm nay, ba cha con tôi sống là nhờ anh.
Chia tay với ông Chín Cối, lão đi lang thang mãi trên những con đường bờ. Lão có biết một số anh em đồng chí đã vào đạo rồi. Anh Sỏi ơi! Hiện giờ anh ở nơi đâu? Anh đã bị đày ra Côn Đảo hay đã bị vùi sâu dưới đáy biển, hay là anh cũng đã vào đạo rồi? Những anh em đồng chí ấy vào đạo với lòng thành hay vào đạo để che mắt bọn Tây, bọn mật thám? Sao mình không vào đạo để che mắt bọn Tây như anh em? Lão tự hỏi rồi bỗng chợt một ý nghĩ: tại sao lúc bỏ làng đi mình không băng qua sông về ở với người cháu bên Tháp Mười, mà lại ngược dòng sông, cưỡi sóng lên đây? Hay là Phật trời đã xui khiến cho mình? Câu hỏi ấy cứ giày vò tâm trí lão...
Trở lại chòi, nghe tiếng động, hai đứa con của lão giật mình thức giấc. Đứa lớn như hiểu được tâm trạng của lão, nó hỏi:
- Ba ơi! Sao ba không vào đạo đi?
Hai đứa vì không phải là con của người có đạo, cho nên nó không được trẻ con hàng xóm rủ đi chơi. Một đứa lên mười, một đứa lên tám. Cả hai đứa đều không có quần áo màu già, cả hai là con gái mà vẫn chưa để tóc. Còn những đứa trẻ khác, cùng một lứa tuổi với chúng nó, con trai nghèo không quần mặc mà cũng đã có cái búi tóc nhỏ như củ tỏi rồi. Hai đứa đều mang máng hiếu rằng: nếu ba vào đạo thì nó sẽ được lũ trẻ hàng xóm rủ đi chơi, sẽ được bà Chín cho quà.
Sau khi bảo lão vào đạo, đứa lớn lại đưa tay chỉ một ngôi sao và hỏi:
- Ngôi sao ở đây sao mà lớn quá vậy ba? Con sợ quá. Như là con mắt cứ nháy nháy với con hoài.
Trước đây, ở nhà, đêm nó ngủ đến sáng, nó có được ngắm sao khuya bao giờ đâu! Bây giờ, nó thấy ngôi sao là con mắt!
- Ừ! Thì ba vào đạo. Con ngủ đi! - Lão gãi lưng con, dỗ con ngủ, rồi lại lăn trở, trằn trọc và ngắm nhìn những ngôi sao. Nhìn những vì sao, lão lại vơ vẩn nhớ những chuyện đâu đâu. Mỗi một con người là một vì sao. Sao mờ, sao tỏ là định mệnh của con người. Một vì sao sa là một người chết. Chẳng biết vì sao nào là vì sao định mệnh của mình.
Sau đó, lão xin vào đạo. Lão mặc quần áo màu già, lão để tóc, để râu. Những lúc cúi nhìn xuống ao nước, lão không nhận ra mình được nữa. Bọn lính kín khó mà nhận ra mình lắm, lão thấy yên tâm hơn và được mọi người gần gũi yêu mến hơn.
Vào đạo, ba cha con lão được về ở chung với gia đình ông Chín, lão được đi hội họp, được bàn luận, được đọc kinh thơ và các thứ sấm. Kinh sấm của đạo đối với lão và mọi người như những mồi thuốc phiện. Đọc xong, trầm tư ngẫm nghĩ, lão vừa thấy buồn nản, vừa chê chán cuộc đời. Được nghe kinh sấm nói về nỗi khổ con người, lão thấy mình như được ai đó an ủi, vỗ về, được ru ngủ và như tìm thấy một lẽ sống đẹp đẽ hơn. Bao nhiêu lời kinh sấm, đọc đi đọc lại, lão ngẫm nghiệm ra được những ý chính: con người Việt Nam là loại người bị nạn, bị đau khổ. Muốn hết đau khổ thì phải đánh Tây, giành lại đất nước, giành lại đất cho dân cày. Muốn đánh được Tây, giành được đất thì phải theo đạo, phải hành động theo lời chỉ dạy của Phật. Rồi sau đó sẽ lập nên một triều vua mới... Càng ngẫm nghiệm những điều ấy, lão càng thấy đúng, càng thấy hợp với ý nghĩ của mình. Lão càng ngẫm, lão càng thấy thích cái câu “mưu sự tại nhân mà thành sự thì tại thiên” - Sức của con người không thể làm nên chuyện lớn!
Vào đạo, phần hồn, lão thấy được yên ổn, phần xác - thời thế ấy - lão thấy mình được tự do hơn. Lão đi ra chợ huyện đầu có búi tóc, quần áo màu già, lão không bị khám xét. Có một buổi chợ, vào quán uống chén rượu, đi ngang qua nhà dài chợ, thấy ảnh Pêtanh, hứng chí, lão đưa tay chỉ mặt Pêtanh chửi đổng mấy tiếng mà chẳng ai dám làm gì lão. Lão vừa chửi vừa phanh áo ngực vừa nghiêng vai nhìn mọi người. Lão thấy bọn lính đang cầm dùi cui nhìn lão lấm lét rồi lảng tránh. Còn người chung quanh thì nhìn lão với con mắt vừa khâm phục vừa lạ lùng. Đúng là cái bọn Tây đã phải nể mặt cái đạo Hòa Hảo này rồi! Thế là lão thấy hãnh diện. Lão nghĩ thương Sáu Sỏi, nghĩ thương anh em đồng chí. Lão muốn tìm gặp lại anh em đồng chí để bàn luận, lão mong muốn anh em đồng chí cũng cùng vào đạo như mình.
Lão muốn trở về làng. Nhưng lão chưa kịp về thì một tai nạn xảy đến. Nạn dịch tả từ Sài Gòn Chợ Lớn tràn đi khắp mọi nơi. Đứa con lớn của lão bị đi chảy có một đêm rồi lăn ra chết. Nấm mồ của đứa con lớn chưa khô thì đứa con nhỏ của lão lại chết theo. Trong làng, ngày nào cũng có người chết. Người chết như rạ. Ngày nào cũng có đám ma. Đám ma đi bằng xe ngựa, đám ma đi bằng xuồng, người chết cứ nối nhau nhiều đến nỗi không có hòm để chôn nữa. Người ta bó người chết bằng chiếu, bằng đệm. Lúc nào cũng nghe tiếng khóc, đâu đâu cũng thấy khăn tang. Người trong đạo cắt nghĩa cái cảnh tượng ấy bằng một câu kinh:
Mới thấy đó bỗng liền mất đó
hoặc:
Mười phần chết bảy còn ba,
Chết hai còn một mới ra thái bình...
Và người ta cắt nghĩa thêm: “Những người chết ấy là những người không thật lòng với đạo. Còn những đứa bé kia là những đứa chịu tội thay cho cha mẹ nó!”. Đứa con nhỏ của lão trước khi nhắm mắt, nó vừa đưa tay bắt chim chim, vừa gọi lão mà hỏi: “Ba ơi! Sao ba không vào đạo đi?...”. Có phải chăng, nó muốn nhắn nhủ lại lão lời cuối cùng? Khiến cho lão nhớ lại ý nghĩ đầu tiên của mình khi vào đạo - vào đạo để che mắt bọn Tây tà với mật thám - Lão vừa xót xa hối hận, vừa sợ sự trừng phạt về linh hồn.
Cảnh làng như một đám tang. Rồi người ta lại tự an ủi bằng một câu kinh khác:
- Ai chết trước được mồ được mả
Ai chết sau sẽ rã thây thi…
Mất hai đứa con, tâm hồn lão như một đêm tối và quạnh hiu như một dòng sông vắng. Lão càng nhớ đến Hiếu và thấy cần phải trở về làng.
Trong những ngày sắp sửa về làng, lão gặp lại Quản Dõng. Lão gặp Quản Dõng trong một buổi chiều sau khi đi chôn cất một người đàn bà ở đầu xóm bị chết vì nạn dịch. Lão đi một mình trên con đường đất xuyên qua xóm, đang thẫn thờ vì cái chết, bỗng lão nghe tiếng gọi:
- Anh Tư!
Lão quay lại. Nhìn một lúc, lão mới nhận ra người gọi mình là Quản Dõng. Sau khi vào đạo, lão luôn luôn hy vọng: ngày nổi dậy, lão sẽ tìm bắt cho kỳ được tên Quản Dõng, lão sẽ tự tay hành hình hắn và sẽ lấy đất của hắn trả lại cho mọi người. Nhưng bấy giờ, khi gặp lại Quản Dõng thì lão thấy thương thương. Quản Dõng không còn là tên Quản Dõng hống hách và ác hiểm như ngày xưa nữa. Bộ râu ngạnh trê của hắn đã cạo nhẵn đi từ lúc nào, đầu không đội nón cối, đầu hắn đã có một mái tóc dài, tay không cầm cù quéo nữa, tay hắn cầm một bó hương thơm và người thì mặc một chiếc áo màu già phủ phục đến tận gối. Hắn cũng đã vào đạo rồi ư? Lão hãy còn đang ngỡ ngàng thì Quản Dõng tay chấp lấy bó hương đưa lên trước ngực xá chào lão. Hắn bước gần đến lão một cách rụt rè:
- Anh Tư! Mới có mấy năm mà anh đã quên tôi rồi sao anh Tư?
- Cậu Quản đó à? Cậu dạo này khác quá.
Quản Dõng nói:
- Tôi quy y vào đạo rồi anh Tư ạ! Đêm nằm nghĩ đến chuyện xưa, tôi hối quá. Tôi quả là người có lỗi đối với anh.
Chưa bao giờ lão nghe hắn nói với giọng buồn buồn như vậy, lão mềm lòng, không nỡ nói một câu gì cho nặng lời.
Quản Dõng bước gần đến lão nói tiếp:
- Bấy lâu nay, tôi tưởng anh đi đâu, không ngờ anh đã về với đất Phật. Sao anh không trở về thăm làng thăm nước? Bà con ở làng mình cũng đã quy theo đạo nhiều rồi. Tôi cũng muốn xin vào đạo ở tại làng. Nhưng ngẫm vì mình có nhiều tội lỗi, nên tôi muốn lên đây để được gần với Phật hơn. Kể cũng may cho tôi, anh Tư ạ! Lệnh trên đã phán xuống cho tôi, tôi chưa phải là người đến nỗi đã đi muộn. Thì giờ vẫn hãy còn đủ cho tôi tu tâm dưỡng tánh...
Sau đó, Quản Dõng còn nói cho lão nghe bao nhiêu câu chuyện về làng nữa.
Đã gần ba năm rồi, lão mới nghe nhắc đến chuyện làng. Cuộc đời của lão nghèo khổ, nhưng lão chưa hề lận đận như thế. Trước đây, lão cũng có nghe người làng đến xin vào đạo, nhưng lão chẳng tìm ra. Ôi! Cái làng! Cái làng của lão, làng Mỹ Long Hưng! Một cái làng nằm dài theo Cửu Long giang. Làng có một cái chợ to như thị trấn lớn, mấy làng chung quanh đều quần tụ về đấy mua bán. Chợ có bến ô tô, bến xe ngựa và bến tàu, lúc nào cũng rộn rịp, ồn ào. Từ thị trấn có ba con đường lớn đi về các nơi. Một con đường đá chạy về chợ huyện - huyện Chợ Mới -đấy là con đường xuyên qua xóm Đình của lão. Một con đường nhựa chạy thẳng Sài Gòn và một con đường đất chạy tắt qua cánh đồng đỗ tận bờ Hậu Giang, nhìn về thị trấn tỉnh Long Xuyên. Một cái làng với cánh đồng bát ngát, nhà cửa san sát cặp dài theo những con đường, những con kinh. Một cái làng xanh bóng cây, bờ bãi xanh mướt những hàng dâu. Cả làng đều nghe tiếng sóng, tiếng gió rì rầm trên tàng cây, tiếng vó ngựa gõ trên mặt đường, tiếng khung cửi, tiếng còi với mùi ét xăng của ô tô và tiếng còi tàu từ Nam Vang, Sài Gòn đổ về xin bến và chào bến ra đi. Một cái làng trù phú và sầm uất. Nhưng cuộc sống của con người thì cay đắng và nhọc nhằn. Tuy thế, lão vẫn nhớ, vẫn yêu nó, xa nó nhưng bước chân của tâm hồn lão bao giờ cũng quanh quẩn ở xóm Đình.
Lão hỏi thăm con và tất cả người làng. Nghe Quản Dõng nhắc đến làng với giọng trầm buồn, lão tưởng như Quản Dõng mang cả cái làng đến cho mình. Lão thấy thân với Quản Dõng hơn.
Vì chuyện làng, lão không muốn vội chia tay. Và khi chia tay, lão còn nhận lời gặp lại nhau một lần nữa.
Đêm ấy, lão vừa nhớ làng, nhớ con, vừa nghĩ đến Quản Dõng.
Lão quỳ dưới bàn thông thiên rất lâu. Tay chấp hương trước ngực, mắt ngẩng nhìn những vì sao của định mệnh, lão thành kính hứa với Phật trời, sẽ hiến trọn đời mình cho đạo:
- Ôi! Nếu như đạo không thiêng liêng, nếu đạo không quyền lực, nếu đạo không có sức mạnh của Phật trời thì những con người như Quản Dõng làm gì biết ăn năn, biết hối lỗi, biết cải tà quy chánh và quy y theo đạo!...
Nhớ tới cái đêm thề dưới bàn thông thiên, lão chợt kêu thầm:
- Anh Chín ơi! Anh đã chết rồi! Linh hồn của anh đã lên cõi Niết bàn hay là đã sa xuống địa ngục? Con đường tà chánh đang lẫn lộn trên cõi đời này, chỉ có anh và tất cả những bổn đạo tín đồ đã chết mới là người biết rõ nhất, hồn anh có linh thiêng thì hãy về đây mách bảo cho tôi với!
Chung quanh lão, chỉ có cánh đồng hiu quạnh với bầy đôm đốm lập lòe và những cơn gió rì rào trên tàng vông, không có ai trả lời cho lão hết.
Lão lại lẩm bẩm đến lời dạy của đức Thích Ca Mô Ni: “Xét phải đoán những điều gì mà ta làm...” và lão tự hỏi:
- Nếu ta theo Sáu Sỏi để đánh Tây thì có làm trái lại lời dạy của Phật không? Linh hồn của ta sẽ ra sao? Nếu ta gạt bỏ tình nghĩa riêng tư cứ một lòng theo đạo thì còn gì nhục nhã bằng, ta là người đầu giặc! Mà không, đạo ta có phải đầu giặc đâu, ta đã lẩn thẩn rồi, nam mô a di đà Phật, đạo ta hàng giặc đây là hàng đỡ... Nhưng, trong tất cả kinh thơ, có câu nào dạy cho ta tạm hàng giặc? Tại sao những người kháng chiến không vô đạo mà lại đánh Tây? Ai bảo ta đi tạm hàng giặc? Lệnh trên! Trên là ai? Việt Minh là kẻ thù của đạo ta ư? Vì sao? Việt Minh là quỷ dương thực đấy ư? Hay là những người như Quản Dõng? Hay chỉ là Tây thôi?
Đầu óc của lão lại rối lên vì những câu hỏi đó.
- Ôi! Lòng dạ ta tối tăm quá!
- A! - Lão bỗng vụt kêu lên. Lão vừa nảy ra một ý nghĩ mới:
- Ta sẽ không hàng giặc, ta sẽ đánh Tây, vì Tây là kẻ cướp nước, ta không thể hàng nó được. Như thế, sẽ không ai dám nói ta là kẻ đầu giặc và ta đánh cả Việt Minh, như thế, sẽ không có bổn đạo nào dám nói ta là phản đạo! Ta là người làm đúng lời Phật nhất! Đúng nhất!
Ý nghĩ mới mẻ và táo bạo ấy lôi cuốn lão. Lão vùng đứng dậy, đi thẳng vào nhà. Lão định đến ông Năm Bầu và tìm Hiếu đế nói rõ cái ý định đó. Rồi lão và con lão sẽ lập thành một đạo quân, sẽ chiếm cứ cả một vùng này. Lão vừa đi vừa say mê, sung sướng nghĩ đến tương lai: lão là chủ tướng một đạo quân, lão sẽ cùng con xông vào các chiến trận, sẽ tung hoành như các vị tướng của thời xưa.
Lão đi qua mảnh đất cũ của mình nằm cạnh bên một đìa cá. Những con cúm núm giật mình hốt hoảng, lũi đầu chạy rào rào trong đám cỏ. Lão đang đi nhanh như chạy, tự dưng lão dừng lại. Lão nhìn mảnh đất cũ của mình. Mảnh đất mà ngày xưa đời ông cố, ông nội của lão về đây khai phá và để lại cho con cháu sau này. Rồi đến khi thân sinh của lão chết, mảnh đất này thuộc về tay nhà Quản Dõng. Từ đó cho đến nay, tuy vẫn cày bừa trên mảnh đất phù sa màu mỡ này, nhưng lão không phải là người chủ của nó nữa. Lão vẫn hằng khao khát một hy vọng: sẽ giành lại mảnh đất này!
Mùi đất, mùi cỏ dại, mùi bùn xông lên như nhắc với lão: “Đừng bỏ ruộng hoang nữa!”. Đáng lý ra, những ngày này đã cày bừa xong, lúa cũng đã cao lên đến rốn rồi. Nhưng trong năm nay, cũng như bao nhiêu tín đồ khác, lão đã nghe lời dạy “Lấy phảng mài thành gươm giáo”, và tin rằng: đời sắp đổi rồi, cần gì đến ruộng nương nữa.
Lão đứng nhìn mảnh đất một hồi lâu và nghe lòng thổn thức. Cái ý nghĩ mới mẻ lúc nãy lại lôi cuốn lão. Đi đúng theo lời Phật, thì không những có lại mảnh đất, mà sẽ có tất cả những cái gì trên đời này. Lão lại bước đi theo bờ mẫu nổi gồng lên dưới ánh sáng của các vì sao. Như ý chừng sợ cái ý định của mình là táo bạo và không thành, lão dừng lại, ngẩng mắt nhìn lên, lẩm bẩm cầu khẩn xin các thần sao soi sáng cho bước đường đi của mình. Nhưng lão có biết đâu, các vì sao xa xôi trên trời kia chỉ có thể soi sáng được con đường đi trên mặt đất, chứ có bao giờ soi rõ được con đường đời cho con người...