Chương XVIII
Sau khi Sáu Sỏi đã bị giết và những người đi dự pháp trường đã về hết, đơn vị của Phát mới về đến làng. Ở ngoài khơi, họ nhìn thấy một đám đuốc, nhưng họ không biết rõ là chuyện gì. Hơn hai mươi chiếc xuồng cui cặp lại bờ, cách bến đò cây đa hơn ba trăm thước - nơi có một trạm gác đầu làng của lực lượng Hòa Hảo. Đêm tối. Đấy là một khoảng vắng của vườn xoài rậm lưa thưa năm bảy cái nhà - thuộc làng Long Điền. Theo kế hoạch: Hoành và ba đồng chí trinh sát sẽ cầm thư đến trạm gác ở cây đa, nhờ họ chuyển cho ban trị sự đạo. Nhưng xuồng vừa cặp lại, Hoành chưa kịp đi thì có tiếng tù và túc lên.
Tiếng tù và thôi thúc từng hồi ngắn rồi dội ra một hồi dài. Tiếng tù và của lệnh báo động. Tiếng tù và nghe lạnh cả người.
Nhanh nhẹn và vội vàng, tất cả đơn vị đều nhảy lên bờ, xuồng cặp lại bến, chiếm lấy khu vườn.
Bảy Thâm đứng cạnh bên đường, gầm gừ trong cuống họng:
- Được! Tao sẽ cho mày báo động! Cứ tập trung lại đây!
Anh nói với giọng thách thức.Anh nhìn anh em đang tìm vị trí trong khu vườn, anh hỏi:
- Hoài Nam đâu?
- Dạ, tôi đây!
- Coi chừng cái bàn tay! - Trước khi nổ súng, bao giờ anh cũng căn dặn Hoài Nam như vậy. Rồi anh liếc nhìn Phát như muốn bảo: “Anh đã thấy chưa, hả?”.
Phát đưa tay chữa lại chiếc nón cối, anh nghĩ đến đám lửa ở cây gừa, anh cố trấn tĩnh:
- Họ báo động như thế là thường thôi! - Phát nói mà không tin vào lời nói của mình. Anh hỏi:
- Hoành đâu? Ba đồng chí trinh sát đâu?
- Tôi đây! - Hoành, người gầy và cao từ trong khu vườn bước ra, đứng trước mặt anh. Ba đồng chí trinh sát mang súng tiểu liên cũng đứng cạnh bên anh.
- Nó đang báo động mà anh định cho anh em đi đấy à? - Bảy Thâm hỏi.
- Không! Tình hình này thì chưa nên đi đâu. - Phát vừa trả lời với Bảy Thâm vừa nói với Hoành và ba đồng chí trinh sát - Nhưng các đồng chí phải luôn luôn chuẩn bị. Khi ban chỉ huy gọi đến, các đồng chí cứ theo kế hoạch mà thi hành. Thôi, các đồng chí về vị trí.
- Chúng ta đi quan sát vị trí đi anh Bảy! - Phát nói. Hai người như làm lành lại với nhau.
Bảy Thâm dẫn một tiểu đội đi len theo khu vườn, tiến dần lên. Trung đội phó Sanh chỉ huy anh em đào công sự. Phát đi đến các tiểu đội, tìm các đồng chí đảng viên, dặn dò anh em.
Trong lúc ấy, tiếng tù và mỗi lúc mỗi rộ lên.
- Đúng là một cái cảnh thần sầu quỷ khốc ma kêu! Thà nó cứ bắn lên, tao nghe còn thích hơn. - Một anh lính tên An nói với bạn.
Minh nói:
- Hồi nhỏ, nửa đêm, hễ nghe tiếng tù và của ghe đò, là tao cứ tưởng là tiếng ma hú, tao cứ nằm rúc đầu vào chị tao.
- Lần này tao đập nát những cái tù và! Nếu nó không có súng thì cho nó vài cây, cần thì cứ bắn lên, nghe nó còn hay hơn.
- Đánh với Hòa Hảo hoài như thế này, bàn tay của tao bây giờ ngán bóp cò quá!
- Tao cũng vậy, mấy tháng nay, chẳng đánh với một thằng Tây nào hết. Nó rút đi đường nào ấy.
- Có Hòa Hảo ở đây, tụi nó đã bị điều đi các chiến trường khác hết rồi. Ở đây, chỗ nào quan trọng lắm, nó mới để lại một vài thằng.
- Nhiều đêm, tao muốn xin đi bộ đội các tỉnh khác, đánh với tụi lính lê dương, có chết cũng hả được cái dạ. Còn ở đây...
- Tao cũng nghĩ như mày. Này Ân, trước đây, đồng bào Hòa Hảo họ cho mình ăn đến ngập mặt, trong nhà có cái gì, họ cho mình ăn cái nấy, bây giờ, sao họ lại như vậy? Nhiều lúc, tao chẳng hiểu nữa.
- Đầu đuôi mối nhợ gì thì cũng tại thằng Tây hết! Đ... mẹ, “dùng người Việt đánh người Việt”, như thế là nó đã thành công! Tao ngẫm nghĩ ra, cũng tại nơi mình một phần. Ai đời, có ai như ông Bảy Thâm nhà mình không. Người ta sắp chạy theo mình, thì ổng đánh người ta đi. Mày còn nhớ cái buổi diễn thuyết ở tại Ba Răng không. Đồng bào Hòa Hảo ở đó, người ta muốn ngả theo mình, người ta kéo nhau dự mét tinh của mình, thế mà khi lên diễn đàn, ổng lại chào: “Xin chào tất cả quý đồng bào, nhưng xin chừa đồng bào Hòa Hảo ra!”. Đưa tay chào người ta mà mặt thì hầm hầm. Tao thấy đồng bào Hòa Hảo cúi mặt xuống hết. Họ mà giết được ông ta thì họ đã moi gan ông ta ra rồi. Còn ông Phát thì mặt tái như tàu lá chuối, cứ tặc lưỡi và kêu trời. Lúc đó, tao cũng không dám nhìn đồng bào, mặt tao sượng quá.
- Ban chỉ huy mình dạo này lục đục quá. May là nhờ có ông Phát. Nếu không, ông Bảy Thâm cứ cho mình đánh với Hòa Hảo đánh suốt ngày suốt đêm cho mà xem. Rồi thì cả hai không còn con đỏ. Lần này, tao không bắn nữa đâu. Có bắn, tao cũng bắn chỉ thiên thôi.
- Ông Phát thì lần này, tao cũng chưa chắc. Cái đám lửa hồi nãy, tao nghi quá. Cha ảnh mà bị giết, không biết chừng, ảnh còn hơn Bảy Thâm nữa là khác.
- Không có đâu!
- Chưa chắc! Lần này tao cũng bắn chỉ thiên thôi. Tao chỉ muốn đập cho nát mấy cái tù và thôi.
Có tiếng động, Minh đưa tay bấm vào vai Ân.
- Ông Phát!
Phát đi ngang qua chỗ hai anh lính:
- Ai nằm đây?
- Minh, Ân.
- Hai đồng chí nhớ đừng có đập phá bàn thờ, nhà cửa bà con nghe!
- Dạ!
- Dạ! Anh Phát ơi!
Phát dừng lại. Minh hỏi:
- Làm thế nào để đừng nghe cái tiếng tù và, anh Phát?
Trong bóng tối, hai anh lính thấy hình như người chính trị viên đang cười.
- Tôi sẽ bảo họ. - Phát vừa nói vừa đi đến chỗ khác.
Ở một nơi khác, tiểu đội trưởng Hồng nằm phục gần một ngôi nhà bỏ hoang, về đến gần làng, anh nhớ đến cái chết của Hiền, vết thương trong lòng anh như tấy lên. Sau khi cắt đặt, bố trí cho đơn vị, anh bước đến ngôi nhà, rút vách, bó lại thành một cây đuốc và lẩm bẩm những tên người cần phải trả thù: Chiến, Ịnh, Quản Dõng, Bảy Thẹo. Người anh như căng lên. Anh định sẵn: trước khi nổ súng, anh sẽ đốt cái nhà này để thị uy. Bó đuốc trong tay anh cứ run run. Thấy có bóng người bước đến nhà, tưởng là Phát, anh vội vàng rút trở về vị trí. Người bước đến nhà, ấy là anh lính tên Thông. Đấy là ngôi nhà của anh. Gia đình anh tản cư về Đồng Tháp đã hơn bốn tháng rồi. Anh tưởng, khi anh trở về, anh chỉ còn thấy một nền tro lạnh. Không ngờ, ngôi nhà anh vẫn còn nguyên. “Nhà mình vẫn còn nguyên, má à”. Anh nói với mẹ. Anh như thấy mẹ đang vui. Thông đưa tay sờ qua sờ lại cánh cửa một hồi lâu. Cánh cửa đã mọc rêu, gan bàn tay anh lành lạnh. Anh xô cửa, bước nhẹ vào nhà, đưa mắt tìm những đồ vật quen thuộc. Không có diêm, anh đưa tay sờ soạng. Tay anh chạm cái sa quay tơ. Anh đưa tay sờ cái sa quay. “Chiếc sa quay tơ của má vẫn còn!” Trước mắt anh lại hiện lên hình ảnh của mẹ. Ngày nào, mẹ anh cũng ngồi bên chiếc sa quay này. Và chiếc sa quay đã nuôi anh và cả một đàn em của anh.
Thông như không nghe tiếng tù và đang túc lên nữa. Anh như nghe chiếc sa quay tơ đang chạy. Anh ngồi bệt xuống đất, tay đặt lên chiếc sa quay và ve vuốt nó một cách thân yêu...
Ở một chỗ khác, ngồi dưới con mương khô, nhạc sĩ Hoài Nam đang đưa tay vuốt sợi dây mi từ thấp đến cao.
- Thằng nào **** (1) hoài vậy?
- Thằng Hoài Nam nó vuốt dây đàn.
- Làm gì mà vuốt dây đàn hoài vậy đồng chí Nam?
- Tôi đam tìm âm điệu của tiếng tù và anh ạ!
Bảy Thâm bố trí xong tiểu đội trinh sát, trở về, anh cùng đứng ở đấy. Anh nói:
- Cậu làm gì mà tôi cứ nghe “ủn ủn” hoài vậy?
Một vài người cười bật lên.
Phát bước ra đường cái, chờ trinh sát trở về.
Tiếng tù và mỗi lúc mỗi nhiều, tiếng gần, tiếng xa, hồi ngắn hồi dài, cứ chen nhau, dội vào đêm tối. Tiếng tù và nghe như từ cõi âm u nào ở tận dưới lòng đất dội lên. Cái âm thanh đùng đục ấy vừa u uất, vừa rùng rợn và tối tăm. Tiếng tù và như mang theo một luồng khói đục và những luồng khói đục ấy đang chen đầy đặc cả bầu trời, làm đục cả không khí, làm cho tâm hồn của con người tối lại.
Trước đây mỗi lần có dịp hành quân qua làng, mỗi một tiếng động, mỗi một cảnh vật hiện ra trước mắt, tiếng sóng, dòng sông, bông xoài rơi rụng, mùi hoa bưởi, mùi cây cỏ... tất cả đều gợi cho Phát những kỷ niệm của làng. Giờ đây, tiếng tù và như dìm tất cả những kỷ niệm ấy vào tăm tối. Phát chỉ thấy nó hiện lên trí óc anh một cách lờ mờ, thoáng hiện rồi thoáng mất, như lẫn vào nhau và quay cuồng trong óc anh. Phát không nghĩ đến số phận của cha nhiều như lúc chiều nữa.
Anh cố trấn tĩnh nghe tiếng tù và - như nghe tai họa đang kéo đến - và chờ đợi những việc sẽ xảy ra.
*Hiếu đang mơ ngủ, bỗng nghe tiếng tù và báo động, anh liền choàng dậy, chạy thẳng đến nhà ông Năm Bầu.
Ông Năm Bầu đang ngoẻo đầu bên cây đàn cò, cũng liền tỉnh dậy.
“A! Thằng Phát về!” Ông reo lên. Ông không kịp mang cây đàn cò lên, cũng không kịp dẹp chai rượu, ông nhảy xuống đất, rút cây chĩa ba, đưa ba cái mũi nhọn lên ánh đèn, lấy vạt áo chùi ba cái chĩa cho sạch đất, chạy ra sân. Ông định bụng: nếu bộ đội của Phát qua đây, ông sẽ bảo Phát kéo thẳng đến nhà Quản Dõng, ông sẽ có dịp đốt nhà, dập đổ nhà nó cho hả hê, rồi, nếu cần, ông sẽ đốt cả ngôi nhà của ông, ông sẽ dắt Lành cùng về bên kia vùng kháng chiến.
- Bác Năm hả bác Năm?
- Ừ, tao đây, Hiếu hở Hiếu?
- Dạ, cháu đây!
Hiếu bước đến:
- Bác Năm ơi! Chắc là bộ đội của anh Phát kéo về!
- Tao cũng nghĩ như vậy!
- Cháu định lội qua kinh, chạy đi cho ảnh biết.
- Ừ! Vậy thì mau đi...
- Thôi, cháu đi - Hiếu nghĩ là sẽ đi luôn, nên anh trù trừ, còn muốn gặp lại Lành lần cuối cùng.
- Đi thì đi nhanh đi, sao còn ở đó. Bác đứng bác đợi, mau đi! - Ông Năm Bầu khoát tay giục Hiếu.
Hiếu vừa bước đi thì Lành từ trong nhà liền chạy vụt ra.
- Anh Hiếu! - Lành kêu như nấc.
Ông Năm Bầu xoay lại, nắm lấy vạt áo của Lành kéo lại, ông thét lên:
- Mày chạy đi đâu vậy? Để cho nó đi!
Sợ cha, Lành không dám cưỡng lại, nàng riu ríu bước vào nhà. Nhìn con, ông bỗng thấy thương tâm. Ông cũng lại quát lên:
- Này! Chạy theo nó, bảo nó đi mau lên!
Lành đang bỡ ngỡ vì thái độ thay đổi bất ngờ ấy, ông lại hét to hơn:
- Sao còn đứng đó, hả?
Lành vụt chạy theo con đường mòn xuống bến kinh.
Hiếu biết Lành sẽ chạy theo, anh đứng chờ ở bến.
- Anh Hiếu!
Hai người đứng sát lại nhau, rồi lẳng lặng. Lành bỗng ôm mặt khóc. Hiếu nghe nhói đến tim, anh nghẹn ngào:
- Anh đi rồi anh về!
Từ sân nhà, ông Năm Bầu quát theo:
- Nó đã đi chưa, hả?
Hiếu vội vàng:
- Anh đi nhé! - Hiếu quay đi
- Anh Hiếu! - Hiếu dừng lại. Hai người lại nhìn nhau, lại lẳng lặng.
- Anh đi nhé! - Hiếu quay đi.
- Anh Hiếu!
Hiếu lại dừng lại.
- Anh đi đi! - Giọng của Lành đầm đìa trong nước mắt. Tàu chuối quơ qua quơ lại như vẫy chào ai.
Hiếu bước xuống bến, cởi áo vo tròn lại cầm tay, bơi qua kinh. Tiếng tù và thôi thúc Hiếu bơi nhanh.
Hiếu chạy lẩn trong khu vườn. Hiếu lại bơi qua kinh ranh làng. Hiếu chạy vào khoảng vườn vắng.
- Ai? Đứng lại! Giơ tay lên.
Hiếu vừa giơ tay cho ba anh lính trinh sát khám xét vừa hỏi:
- Có phải là bộ đội của anh Phát không mấy anh?
- Anh ở đâu mà hỏi?
- Tôi là người bà con của anh Phát, tôi tìm ảnh suốt một ngày nay.
- Vậy à. Đồng chí Hoành đưa đồng chí này đến gặp đồng chí Phát đi.
- Đồng chí đi theo tôi.
Lâu lắm, Hiếu mối nghe được hai tiếng đồng chí. Cũng con đường vắng vẻ này lúc nãy anh đi tìm Phát, bây giờ, nó bỗng trở nên thênh thang. Sẽ nói với anh Phát như thế nào đây? Câu hỏi ấy như dìm mất tất cả cái cảm giác được tự do đang đến với anh.
- Có đồng chí Phát đó không? - Hoành hỏi.
- Có!
- Có người bà con đi tìm đồng chí đấy!
Trong bóng tối, hai người nhận ra nhau. Bảy Thâm, Hoành và một vài anh lính đứng vây lấy hai người. Họ cảm động khi thấy hai người cùng hấp tấp bước đến ôm lấy nhau.
- Anh Phát! - Hiếu nghẹn ngào. Một tiếng tù và buông dài, rồi như tan ra, làm đục thêm đêm tối.
Nghe cái giọng nghẹn ngào của Hiếu, Phát thấy rởn lạnh cả người.
- Đồng chí Sỏi hiện bây giờ ở đâu, đồng chí?
Bảy Thâm hỏi với một giọng như tra hỏi.
- Anh Phát! Bác Sáu đã bị...
Nghe cái tin đó, người chung quanh tưởng là Phát lồng lộn lên, sẽ móc súng bắn liền mấy phát và sẽ thét xung phong và lập tức sẽ xảy ra một cảnh khói lửa ghê gớm.
Nhưng Phát vẫn đứng im. Người chung quanh chỉ nghe được hơi thở hấp tấp và nặng nề của anh.
Đau đớn quá, Phát như mất hết cảm giác.
Lúc ấy người đang lồng lên lại là Bảy Thâm.
- Giết hồi nào? Ai giết? - Bảy Thâm vừa quát vừa nắm lấy vai Hiếu lắc rung lên. - Ai giết? - Hiếu lạnh cả người.
- Thằng Quản Dõng phải không?
Hiếu lập bập:
- Chính là tại nó!
Phát ngước nhìn Bảy Thâm:
- Thôi anh Bảy! - Phát nói, giọng đau đớn và lạnh lùng. - Dù sao thì cha tôi cũng đã chết rồi. Có làm gì đi nữa thì cha tôi cũng không sống nữa đâu. Chúng ta rút thôi, anh Bảy.
- Chú Sáu không chỉ là cha anh! - Hai mắt của Bảy Thâm rực lên như hai ngọn lửa. Anh trờ tới, lưng hơi cong, anh như một con gấu. - Tại sao lại rút hả? Bắt lấy nó! - Bảy Thâm liền quay người vào khu vườn, móc súng, nổ lên hai phát và hét dài: “Xung phong!”
Tất cả các tay súng đều nổ lên. Những luồng tù và ngắn dài đang tuôn vào đêm tối như bị bắn tan ra.
Tất cả đều chồm lên khỏi vị trí, tràn vào làng như một cơn dông.Trong lúc ấy, tiểu đội trưởng Hồng châm lửa. Ngôi nhà bừng cháy.
Một anh lính đang tiến, bỗng quay trở lại, kêu hoảng lên:
- Ai đốt nhà đó? - Anh lượm một cái cây, đập vào lửa.
- Thằng nào đập lửa đó, hả?
Anh lính đang đập lửa quay lại:
- Ai đốt đây hả?
- Tao đốt!
- Tại sao anh đốt nhà người ta, hả?
- Tao đốt, mày hỏi làm gì? Sao không tiến lên mà còn ở đây hả? - Thông cầm cây gậy cháy sém, bước chầm chậm lại tiểu đội trưởng Hồng. Tiểu đội trưởng Hồng thấy cái vẻ hung hăng kỳ lạ của Thông, anh lùi lại.
- Nhà của tôi, tại sao anh đốt, hả?
Tiểu đội trưởng Hồng ngớ ra, nhưng đang lúc hăng máu, anh không nhịn, anh quát bừa lại:
- Tại sao nhà mày lại ở đây, hả?
Anh lính Thông ngớ ra vì câu hỏi kỳ quặc ấy. Anh vừa tức giận lại vừa buồn cười.
Những người ở phía sau tiến lên, hỏi:
- Sao không tiến, mà còn đứng đó, hả?
- Anh Hồng, anh ấy đốt nhà tôi.
- Tao có biết nhà của mày đâu mà nói!
- Thôi, tiến lên đi, độc lập rồi cất lại. - Tiểu đội trưởng Hồng vọt lên, tiến theo tiểu đội. Anh lính Thông mãi còn nhìn ngọn lửa của ngôi nhà. Anh muốn lao vào kéo chiếc sa quay tơ của mẹ. Nhưng lửa đã bốc lan ra và bốc cao rồi.
Anh tiến theo đơn vị mà cứ nghĩ đến cái sa quay tơ.
Tiểu đội trưởng Hồng chạy đến một ngôi nhà khác, anh nhìn lại, nhìn chung quanh, đưa tay lên miệng làm loa:
- Nhà này của ai đây?
- Có đốt thì đốt nhanh lên, ông Phát ông ấy thấy bây giờ!
Tiểu đội trưởng Hồng vừa châm lửa vừa nói:
- Độc lập rồi tao sẽ cất lại - Anh khoái trá nhìn ngọn lửa đang lan ra. Anh vừa tiến vừa ngoái lại nhìn ngọn lửa.
Bảy Thâm dẫn đầu. Cả đơn vị, hơn sáu mươi tay súng đánh lui những người ở trạm gác dưới gốc đa, rầm rập vượt qua chiếc cầu cây bắc qua con sông nhỏ. - ranh giới của hai làng.
Hơn sáu mươi tay súng tràn lên con đường xuyên qua xóm nhà.
Tiểu đội trưởng Hồng bỏ hẳn tiểu đội mình, phó mặc cho anh tiểu đội phó, anh rơi lại sau cùng. Đây là làng anh. Anh biết rõ từng người chủ của những ngôi nhà đang hiện lên trước mắt anh.
- Hiền ơi! Anh trả thù cho em đây! - Anh vừa lẩm nhẩm với người con gái đã chết, vừa châm lửa đốt. Anh đốt liền năm cái. Khi thấy ngọn lửa bốc lên và có thể cháy lan cả xóm, anh mới tiến lên tìm đơn vị.
*Lão Ịnh đang cắm cúi đi vào nhà thì giật mình và dừng lại. Sau những tiếng nổ súng, trước mắt lão: ngọn lửa ở xóm Bến đò bỗng bùng cháy. Tiếng nổ lốp đốp, tiếng phù phù càng lúc càng to như cái lò rèn khổng lồ, ngọn lửa mỗi lúc mỗi lan ra dữ dội, thè cái lưỡi cao lên, lia qua lia lại như liếm lấy bóng tối một cách thèm khát. Lão đoán biết là Phát kéo bộ đội về để trả thù. Những ý định tốt đẹp đang rạo rực lên trong lòng lão đều tan hết. Lão hoảng sợ, lão quay lại, chạy thẳng ra cây vông. Lão không chạy theo bờ mẫu, lão chạy tắt, lão chạy bừa trong cỏ lác, lão chạy cắm đầu, cỏ lác rạch nát cả da mặt lão.
Lão đứng dưới gốc vông, vừa thở vừa vuốt râu, nhìn vào đám lửa.
Tiếng tù và của các trạm canh trong xóm Đình túc rộ lên, báo động và truyền lệnh tập trung. Tiếng “bun bun...” của tù và túc lên không dồn dập, không thúc giục, không rung động không gian, mà kéo ra những hồi dài u ẩn nghe như tiếng hú của từ cõi xa xăm nào vẳng lại và như một đường khói đục đang quằn quại trong đêm tối. Tiếng chó đầu trên xóm dưới tru lên ông ổng hòa theo.
Đèn, đuốc nổi lên rải rác, lập lòe. Tiếng la, tiếng kêu, tiếng gào, tiếng thét, hỗn độn như ong vỡ ổ. Các ngọn đuốc rải rác gom dần về tiếng tù và, và tiếng hò hét. Tiếng hò hét ấy không rõ là tiếng gì, chỉ “hươi, hươi”, vang vọng ra như tiếng dội của rừng núi... Những bó đuốc gom lại rừng rực như một đám cháy. Tiếng hát “Hòn vọng phu” của trăm thứ giọng khác nhau dội lên. Đám đuốc ngùn ngụt là đà khi tắt khi sáng qua các lùm cây và tiếng hát tiếng hò trào lên như sóng ấy tiến dần về đám cháy.
Từ xóm Bến đò, súng lại nổ. Tiếng nổ từng hồi dài giòn giã như ốc đổ. Những viên đạn đỏ kéo thành đường dài tới tấp bay lại xóm.
Đám cháy ở cuối làng mỗi lúc mỗi ngùn ngụt và thè cái lưỡi cao lên, lia qua lia lại như khao khát một cái gì, như chờ đợi cái đám đuốc rừng rực kia đang ồ ạt tiến tới để chụp xuống và nuốt lấy. Hai khối lửa của hai mối căm thù vờn lên, tiến dần vào nhau. Cái khoảng đêm giữa hai khối lửa mỗi lúc mỗi thu dần lại. Lòng lão Ịnh như có một sợi dây đang thắt dần lại và lão nghe đau như sắp đứt.
Hai đám lửa lẫn vào nhau. Đám đuốc dày đặc như một khối lửa tan ra, từng ngọn lập lòe, tắt cháy, lẫn lộn trong bóng cây, rồi tan tác như một đám tàn. Lão vẫn đứng yên dưới gốc cây vông, bứt rứt, đau đớn và khó chịu.
- Ôi! Nếu ta biết được rõ đâu là tà chánh thì ngọn gươm của ta sẽ không vị nể một người nào, bất cứ là ai.
Lão bứt tóc, bứt tai, miệng ngứa ngáy muốn gào thét lên lời kêu đó. Phút chốc, lão muốn chạy vào, muốn chém giết tất cả mọi người bất cứ là ai, chém rụi hết những con người đang quần nhau trong đám cháy ấy, chính họ, những người làm khổ đời lão, họ dồn lão vào con đường không biết đâu là phải trái.
- Trời! - Lão muốn thét lên cho động đến trời. Bàn tay của lão tự dưng thấy ngứa ngáy, muốn đâm và muốn chém.
Nhìn cái đám cháy ấy, lão như thấy những người bạn tín đồ của mình: Năm Ngũ, Chiến, Hằng, Hiếu đang vung ngọn kiếm, đang lao vào đối phương, đang chém giết, rồi ôm ngực ngã xuống. Và trang thờ như đang cháy ra thành tro bụi.
Những cơn gió ào ào thổi tới, thổi bay manh áo lão, lão nghe như linh hồn của tín đồ từ khắp các nơi cũng đang vùng dậy, quay về bảo vệ đạo. Chỉ có riêng lão là vẫn còn đứng ở đây. Tại sao lão không lăn xả vào đám cháy ấy? Lão là một tên phản đạo, phản nước ư? Ngọn lửa thù hằn trong lòng lão liền bốc dậy theo câu hỏi đó. Đầu lão nóng bừng lên như bốc cháy.
Và lão chạy xông vào...
Chú thích:
(1) Đánh rắm.