← Quay lại trang sách

Chương Bốn Miền Bắc chấn động- Miền Nam ổn định

Sau khi nhận được tấm bưu thiếp nhắn tin của Bình, cô em gái ở Hà Nội đã gửi lá thư qua địa chỉ một người thân của gia đình ở bên Pháp để chuyển về Saigon cho chàng. Lá thư đi mất một vòng trái đất, mang theo những tin tức mà tấm bưu thiếp nhắn tin không được phép viết. Bởi thế khi nhận được thư nhà, chàng cảm thấy thật sung sướng và hồi hộp khó tả. Trong thư kể:

Hai căn nhà ở Giảng Võ đã bị ủy ban xã tịch thu cho cán bộ tập kết miền Nam ra ở. Lý do là nhà có con vào Nam theo ngụy. Đội phó cải cách ruộng đất ở xã lại là cậu H, em mẹ! Mẹ buồn về vụ này lắm, nhưng cứ phải cắn răng chịu đựng mà không biết than thở cùng ai.

Miền Bắc đang bước tiếp vào đợt cải cách ruộng đất thật sôi nổi. Nhiều người ở thành thị và nông thôn chưa bị đấu tố trong các đợt trước bắt đầu từ năm 1953, thì nay bị đấu tố, còn tài sản và ruộng đất bị tịch thu. Nhà mình may mà không bị đấu tố.

Đoạn sau, lá thư kể tiếp:

Anh Toàn, bạn anh, đại úy đóng đồn ở Hưng Yên, ở lại với gia đình không chịu vào Nam đã bị đưa đi cải tạo cùng các sĩ quan làm việc cho Pháp trước đây. Đám này đi mút mùa đấy, khó mà được về sớm để làm ăn.

Cô Hiền, bạn gái của anh đã đi lấy chồng là nhà báo. Cô ấy gửi lời thăm anh, nói anh đừng buồn. Cô ấy bảo với em là số cô không được kết duyên với anh, nên cô ấy cũng ân hận. Chắc đến kiếp sau hai người mới gặp lại nhau. Cô ấy hiền mà lãng mạn đáo để.

Tin Hiền lấy chồng làm Bình hơi buồn. Nhưng chàng cũng mong cho nàng sớm có một người chồng để cùng nhau xây dựng hạnh phúc và nâng đở nhau trong thời buổi khó khăn. Cái làm cho chàng bàng hoàng hơn cả là xã hội miền Bắc, trong đó có gia đình chàng đang phải trải qua cơn lốc của chiến dịch cải cách ruộng đất giai đoạn hai kéo dài từ năm 1954 đến năm 1956.

Thư nhà chỉ nói sơ qua tình hình ngoài Bắc, mà thực tế thì còn ghê gớm đến đâu. Trước mắt, bố mẹ chàng mất tài sản ở trong làng do ông cậu lập công với đảng ủy xã. Chính ông ta cản chàng đi vào Nam, bây giờ lại quay ra tố mẹ chàng có con theo ngụy để đội cải cách ruộng đất xã tịch thu nhà của bố mẹ chàng cho cán bộ tập kết ở.

Chàng thấy ông cậu cũng giống ông Trường Chinh, Tổng bí thư đảng Cộng sản đã tố khổ cả bố mình. Đảng Cộng sản đã biến đổi nhân cách từ thiện sang ác, từ duy tâm sang duy vật. Ngay cả nhà thơ Xuân Diệu cũng phải bỏ chất thơ tình lãng mạn để viết theo lệnh máu của Đảng:

Địa hào, đối lập ra tro,

Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương!

Hàng vạn nhân dân miền Bắc đã bị mất hết tài sản, ruộng đất mà còn bị tố khổ, hãm hiếp, bị giết hại dưới cái mũ địa chủ, phản động. Cán bộ Cộng sản đã lê khẩu súng, lưỡi cầy đi khắp nơi để bắn giết và chôn sống nông dân chỉ có vài ba sào không đủ nuôi sống gia đình, còn thua xa một tiểu nông ở phương Tây có 10 mẫu ruộng tư hữu. Những nông dân thuê người cầy cấy với tình thương bao bọc kẻ nghèo khó cũng bị đấu tố là bóc lột; những người quốc gia chân chính thì bị buộc tội là lưng chừng rồi bị giết. Nông thôn và cả thành thị đã biến thành địa ngục trần gian khủng khiếp, còn man rợ hơn cả thời trung cổ.[1] Tháng Chín 1956, Trường Chinh đã phải nhìn nhận những sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất. Đến tháng Mười y từ chức tổng bí thư giữa cảnh điêu tàn, kiệt quệ của miền Bắc!

Miền Bắc cũng đã công bố thành quả của chính sách “Người cầy có ruộng” Trên báo chí và đài để nhân dân học tập. Sau 5 đợt cải cách ruộng đất được tiến hành từ năm 1953 đến năm 1956, Cộng sản đã tịch thu của nông dân trong 3314 xã:

- 81 vạn hecta ruộng đất.

- 10 vạn trâu bò và 2 triệu nông cụ.

Đây chỉ là con số nổi, con số chìm còn lớn hơn nhiều. Theo các cán bộ hồi chánh đã tham gia các đợt đấu tố thì 180.000 nông dân và thành phần lưng chừng đã bị Cộng sản sát hại. Con số này đã bị nhà cầm quyền Cộng sản giấu nhẹm, vì sợ công luận trong và ngoài nước lên án.

Những nông dân từ Thái Bình, Nghệ An vượt biển vào Nam cho biết sau giai đoạn cải cách ruộng đất, nông dân phải tham gia các hợp tác xã nông nghiệp, cùng nhau vần công cầy cấy, thu gặt thóc lúa làm của chung cho hợp tác xã. Tùy theo công điểm của mỗi người mà được chia phần thóc, nhưng nông dân bất mãn vì có sự thiên vị, tham nhũng của cán bộ chủ nhiệm hợp tác xã, y như các cường hào ngày xưa.

Các nông trường, công trường tập thể đều rập theo mô hình kinh tế tập trung. Vì ruộng đất là của tập thể nên nông dân không tha thiết chăm sóc ruộng đồng như của tư hữu; số thóc lúa thu hoạch cứ giảm sút dần. Sự thất bại của hợp tác xã nông nghiệp là sai lầm lớn về kinh tế tập sản.

Trong lá thư viết cho cô em gái cũng gửi qua địa chỉ người thân ở Pháp, Bình kể:

Ở miền Nam, chính phủ đã thực hiện chương trình cải cách điền địa bằng cách mua lại ruộng đất của các chủ điền rồi trao cho các tá điền canh tác. Có điền chủ có tới 500 mẫu ruộng. [2] Với số tiền bán ruộng đất dư thừa, chính phủ khuyến khích các chủ điền đầu tư vào công, kỹ nghệ, góp phần phát triển kinh tế quốc gia. Đây là cuộc Cách Mạng Xanh có tính nhân đạo và công bằng, không gây đổ máu như dưới chế độ Cộng sản!

Từ năm 1955, chương trình một triệu mẫu ruộng của các điền chủ đã được chính phủ cấp phát từng đợt cho các nông dân, tiến tới xóa bỏ tình trạng bất công về ruộng đất giữa chủ điền và tá điền. Những đại điền chủ có ruộng thẳng cánh cò bay ở miệt sông Tiền, sông Hậu đã trở thành các chủ nhân xí nghiệp ở thành phố, thu hút thêm các công nhân có tay nghề chuyên môn và giảm bớt các tệ nạn xã hội, theo chủ trương thăng tiến cần lao, đồng tiến xã hội của chính phủ.

Trong năm 1956 ở Hà Nội lại xẩy ra vụ Nhân Văn-Giai Phẩm. Bình theo dõi báo chí Saigon phản ánh sự kiện một số văn nghệ sĩ miền Bắc chống lại đường lối lãnh đạo văn hóa độc tài của đảng Cộng sản. Nó như trái bom B-52 làm chấn động thần kinh nhà cầm quyền miền Bắc và làm đội ngũ chỉ huy văn nghệ đỏ cũng phải bàng hoàng, lúng túng.

Nhà xuất bản Minh Đức ở Hà Nội đứng ra xuất bản Giai phẩm Mùa Xuân, Mùa Thu, Nhân Văn qui tụ các nhà văn, nhà thơ, giáo sư: Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hữu Loan, Phan Khôi, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường. Nội dung các bài viết đòi trả tự do ngôn luận cho nhân dân, chỉ trích vai trò lãnh đạo độc đoán của đảng trong lãnh vực tư tưởng và văn hóa, như bài: “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” của Phan Khôi.

Nhà thơ Trần Dần viết:

“Tôi bước đi

không thấy phố,

không thấy nhà,

chỉ thấy mưa sa,

trên mầu cờ đỏ.

Nhà thơ Phùng Quán viết:

“Giấy bút tôi ai cướp đi

thì tôi viết thơ trên đá!”

Nhà thơ Lê Đạt viết:

“Đem bục công an đặt giữa trái tim người,

bắt tình cảm ngược xuôi

theo luật đi đường nhà nước”.

Các tờ Giai Phẩm, Nhân Văn ra được vài số thì bị đình bản cuối năm 1956, cùng chung một số phận có tờ Trăm Hoa và Đất Mới.

Tố Hữu, Trưởng ban tuyên huấn trung ương đảng đã vu cho nhóm Nhân Văn- Giai Phẩm âm mưu lật đổ chính quyền. Thế rồi các nhà văn trong nhóm Nhân Văn- Giai Phẩm bị đem ra xử trong vụ án ngụy tạo là “gián điệp”, đa số bị tù đầy và bị bao vây kinh tế vì tội chống nhà nước!

Tố Hữu đã từng bị giới văn nghệ đả kích vì ông làm thơ khóc Joseph Stalin, nhà độc tài Liên Xô qua đời năm 1953:

“Thương cha thương mẹ thương chồng,

Thương mình thương một,

thương Ông thương mười”.

Năm 1955, nhà thơ Trần Dần phê bình thơ Tố Hữu thần thánh hóa lãnh tụ đã bị kiểm thảo rồi bị bắt giam ba tháng trước khi lại phải vào tù lâu hơn vì dính líu đến vụ Nhân Văn-Giai Phẩm.

Dân chúng Hà Nội, giới sinh viên, trí thức, kể cả hội Văn Nghệ do đảng Cộng sản kiểm soát đã ủng hộ nhóm Nhân Văn- Giai Phẩm vì họ dám nói lên tiếng nói trung thực của giới cầm bút. Nhân dân miền Nam và các tổ chức văn hóa, văn nghệ, các cơ quan ngôn luận cũng đã tổ chức mít tinh để nhiệl liệt ủng hộ công cuộc đấu tranh của nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm miền Bắc.

Trong một buổi thuyết trình trước nhân viên quân cán chính thuộc Bộ Quốc Phòng, Bình đem vụ Nhân Văn-Giai Phẩm ra trình bầy để các cử tọa thảo luận rồi đi đến thống nhất quan điểm là đảng Cộng sản đã chà đạp lên nhân quyền của nhân dân miền Bắc, đi ngược lại Bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền của Liên Hiệp quốc.

Miền Nam ngược lại là mảnh đất hứa cho các nhà văn hóa, văn nghệ hoại động như trăm hoa đua nở mà không bị kiềm chế. Người ta gọi văn nghệ miền Bắc là mô phỏng. Các nhà văn phải phục vụ theo sự lãnh đạo của đảng. Nhà văn muốn viết phải vào trại sáng tác để được cán bộ văn hóa tư tưởng của đảng hướng dẫn về nội dung, sau đó phải đi thực tế tại các nông trường, nhà máy để lấy chất liệu viết.

Vườn hoa văn nghệ đã không khởi sắc vì đảng, chứ không phải văn nghệ sĩ thiếu óc sáng lạo.

Sau khi dẹp xong các lực lượng võ trang giáo phái, chính phủ Ngô Đình Diệm đã chú trọng cái tiến dân sinh ở thành thị và phát triển nông thôn cho ngang tầm thành thị. Đời sống nhân dân được nâng cao và thoải mái như trong thời bình. Tuy nhiên ông Diệm vẫn quan tâm đến việc xây dựng tinh thần quân đội. Do đó một chương trình học tập chính trị đã được phát động sâu rộng trong quân đội cùng một lúc với chiến dịch Tố Cộng được chính phủ phát động trên toàn quốc để phơi bầy chủ trương phá hoại của Cộng sản.

Công việc của Bình ở Nha Chiến Tranh Tâm lý là soạn thảo các tài liệu giáo dục cho quân đội, nhằm xây dựng niềm tin của quân đội vào Chính nghĩa Quốc gia và đả phá chủ nghĩa Cộng sản vô thần.

Những sai lầm của chủ nghĩa Mác trong đường lối kinh tế tập trung và trong đấu tranh giai cấp đã được chứng minh bằng các cuộc đấu tố địa chủ ở miền Bắc. Cuộc tắm máu vĩ đại đã không phân biệt ranh giới nào cả; ngay những người đã đóng góp tài sản cho Cộng sản từ lúc đầu như trường hợp bà Cát Thanh Long, nhà tư sản đã cúng nhiều vàng cho quỹ kháng chiến của Việt Minh vẫn bị giết hại.

Cả hai miền Nam, Bắc đã sôi nổi bước vào cuộc chiến ý thức hệ: chủ nghĩa Quốc gia chống chủ nghĩa Cộng sản, lôi cuốn theo các nhà văn, nhà báo, nhà tư tưởng ở cả hai phía nhập cuộc. Thế giới lúc này bị chi phối bởi lưỡng cực, qua cuộc chiến tranh lạnh; một bên là Mỹ lãnh đạo thế giới tự do, một bên là Liên Xô lãnh đạo khối cộng sản. Hai siêu cường Mỹ và Liên Xô đều có võ khí nguyên tử và đối đầu nhau trong phạm trù gây ảnh hưởng với các nước nhỏ. Nước Việt Nam cũng không tránh khỏi ảnh hưởng của cuộc chiến tranh lạnh. Ở miền Bắc; Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được Liên Xô, Trung Cộng và các nước Đông Âu ủng hộ. Ở miền Nam, Việt Nam Cộng Hòa được Mỹ và thế giới tự do ủng hộ.

Do vị trí chiến lược của Việt Nam, Tổng thống Mỹ Eisenhower và kế tiếp là Kennedy đã cam kết trợ giúp Việt Nam Cộng Hoà trong công cuộc chống cộng sản xâm lăng. Tổng thống Kennedy đã từng tuyên bố Việt Nam là “hòn đá tảng của thể giới tự do tại Đông Nam Á”[3]

Chiến dịch Tố Cộng đã mang lại kết quả cụ thể. Đạo luật số 10 năm 1959 đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật đã làm tê liệt phần nào các tổ chức cộng sản. Nông thôn được ổn định; dân chúng đi lại làm ăn dễ dàng hơn trước. Một số lớn cán bộ cộng sản đã ra đầu thú với chính phủ để được sự khoan hồng. Trong số có Thiếu tá Phạm Ngọc Thảo, quê ở Vĩnh Long, nguyên tiểu đoàn trưởng Việt Cộng. Ông Thảo đã được Đức Tổng giám mục Ngô Đình Thục, bào huynh của Tổng thống Diệm đỡ đầu, nhờ đó ông Thảo được cử làm tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre), một tỉnh được coi là sào huyệt của Việt Minh trong thời kháng chiến chống Pháp.

Cuộc sống ở các thành thị từ miền Nam ra miền Trung phồn thịnh trông thấy. Không chỉ nhờ viện trợ Mỹ đổ vào mà chính phủ có chính sách nâng đỡ các nhà đầu tư ở trong và ngoài nước. Các trường trung và đại học, các bệnh viện được mở thêm. Nền giáo dục được đặt trên cơ sở nhân bản khai phóng và tiến bộ, không bị gò ép như miền Bắc bắt học sinh phải học chủ nghĩa Cộng sản.

Từ ngày đổi về Saigon, Bình ở trọ trong Câu lạc bộ sĩ quan An Đông. Vùng Chợ Lớn có nhiều người Hoa giầu có nhờ ông cha bỏ đất Hoa Lục nghèo khổ tới đây lập nghiệp, nhiều người lấy vợ Việt, có đại lý thu mua lúa gạo từ miền Tây về cung cấp cho đô thành. Các đại gia Hoa kiều vừa có thế lực với các bang Phúc Kiến, Triều Châu, vừa quen lớn với chính quyền vì trong tay họ nắm các ngân hàng và buôn bán với Hồng Kông, Đài Bắc, Tân Gia Ba. Chỉ dưới thời ông Diệm, các nhà hàng, tửu quán, tiệm buôn mới đề bảng hiệu với tiếng Việt ở trên, tiếng Hoa ở dưới, chứ trước kia chỉ có tiếng Hoa như một thành phố của người Hoa. Cái cảm tưởng ấy đã khiến ông Diệm nghĩ đến vấn đề Việt hóa người Hoa ở Chợ Lớn, nơi người Hoa sống tập trung đông hơn cả.

Buổi chiều thứ Bảy, Bình rủ người bạn đi ăn cơm gà ở chợ An Đông. Cũng chỉ là gạo nấu với nước luộc gà mà bát cơm thấy thơm, dẻo và béo. Người Hoa có cách pha nấu gia truyền; các món gia vị, nước chấm của họ thật độc đáo, thích hợp cho từng món ăn. Dù chỉ là các món bình dân trong một quán cóc hay ở tửu lầu, cái mùi vị Tầu không thể lẫn vào đâu và cũng không dễ quên. Ăn xong, anh bạn bảo chàng:

- Tôi mời anh đi nhảy.

Bình mới học nhảy được ít lâu, có dịp chàng sẽ nhảy xã giao trong các cuộc giao tế. Chàng nói với anh bạn:

- Tôi chưa đến vũ trường bao giờ.

- Thế thì đi cho biết.

Hai người lên xe taxi đến vũ trường Lệ Uyển, tiếng Tầu là Lai Yun. Vũ trường này không lớn, nhưng ấm cúng và ít ồn ào. Ánh đèn mầu bên trong hơi tối, từng cặp nam nữ, già có, trẻ có, đang dìu nhau nhảy theo điệu nhạc tango êm dịu. Hai người vừa ngồi vào bàn thì hai cô vũ nữ đến ngồi cạnh, cô ngồi bên anh bạn là cô gái Việt, cô ngồi với Bình là cô gái Việt gốc Hoa, người nhỏ nhắn, xinh xắn.

Bồi bàn bưng nước tới. Lát sau nhạc trổi điệu slow, cả hai cặp ra sàn nhảy. Thấy cô gái nhảy bình thường, không điệu nghệ, uốn éo như các cô vũ nữ chuyên nghiệp, Bình khẽ hỏi:

- Em vào nghề lâu chưa?

Cô vũ nữ mỉm cười đáp:

- Em mới vào nghề. Mẹ em bị liệt hai chân nên em phải đi làm kiếm tiền nuôi mẹ.

- Thế ba em làm gì?

Cô gái e dè nói:

- Ba em bỏ nghề buôn, ở nhà hút.

- Nhảy thế này có nhiều tiền không?

Cô gái lắc đầu.

- Cũng đủ ăn thôi. Em có người chị nhảy ở Grand Monde.

Vũ trường Grand Monde cùng một dãy phố với Lệ Uyển nhưng lớn hơn, nhiều đại gia đến đó vung tiền qua cửa sổ, bắt mối kinh doanh và tiêu khiển bên các mỹ nhân Tầu, Việt đủ cả.

Hết bản nhạc, cô gái vào bàn ngồi, khẽ than: -Hồi này nhiều người Hoa khó làm ăn vì chính phủ cấm mười một nghề. Còn nghề vũ nữ này mà cấm nốt, chúng em không biết làm gì để mưu sinh.

Chàng không để ý đến những nghề mà người Hoa bị Cấm, thực ra chính phủ không bài Hoa Kiều mà chỉ ngăn họ giữ độc quyền về kinh tế, như trước kia người Pháp đã từng ưu đãi họ. Rồi chàng bảo cô gái:

- Em hãy còn trẻ, nên học một nghề mới thì tốt hơn. Nghề này có nhiều cám dỗ. Em đã bị đại gia nào cám dỗ chưa?

Cô gái thật thà đáp:

- Có ông thương gia rủ em đi Lào mà em không đi. Em sợ đi xa.

Một lát sau, hai cô gái có khách gọi ra bàn khác ngồi. Bình và anh bạn rời khỏi vũ trường. Bên ngoài đường phố đã bớt náo nhiệt, nhưng cảnh ăn chơi vẫn kéo dài đến tận khuya.

Chừng vài tháng sau báo chí Saigon đăng tin vũ nữ Cẩm Nhung bị bà vợ ông Trung tá Thức đánh ghen tạt át xít vào mặt, mù cả hai mắt. Dư luận bàn tán xôn xao, thương cho vũ nữ Cẩm Nhung bị hủy hoại nhan sắc và mang thương tật suốt đời. Sau vụ tạt át xít tai tiếng này, chính phủ ra lệnh đóng cửa các vũ trường để tránh các trường hợp tương tự xẩy ra.

Bình chợt nhớ đến cô vũ nữ đã từng nhảy với chàng ở vũ trường Lệ Uyển đêm nào. Không hiểu cô ta đã đổi nghề để kiếm tiền nuôi bố mẹ hay trở thành con thiêu Ihân của các cuộc truy hoan tửu sắc?

Nghĩ kỹ, chàng thấy quyết định đóng cửa vũ trường của chính phủ là hợp lý về mặt xã hội và an ninh. Không những nó tránh các thảm cảnh và tệ đoan xã hội nẩy sinh từ vũ trường, mà còn bảo vệ hạnh phúc gia đình cùng danh dự của các quân nhân, công chức.

Các vũ trường đóng cửa đúng vào lúc cơ quan Cảnh sát Đô thành khám phá kế hoạch khủng bố của Việt Cộng nhắm vào các nơi vui chơi có người Mỹ lai vãng để làm mất an ninh ở thủ đô.

Chú thích:

[1] Xem Phụ Lục: Ba Người Khác của Tô Hoài.

[2] Ở Bắc và Trung Phần, điền chủ có tối đa hơn 50 mẫu.

[3] America’s Longest War, George C. Herring, 1979, p 75.