Chương Năm Đất lành chim đậu
Cưới xong, Bình đưa Ngọc về Thị Nghè ở, trong con hẻm có đông người lao động. Chỉ cách thành phố một con sông nhỏ mang tên Thị Nghè mà khu ngoại ô như biệt lập hẳn, có nhiều nét quê hơn tỉnh. Những con phố thấp, ẩn hiện sau hàng cây phượng vĩ có vẻ khiêm tốn với nhịp sống bình dị. Thị Nghè có cả nhà thờ, chùa, nhà dưỡng lão, trường học và ngôi chợ đông đúc người mua bán. Một cây cầu ván bắc qua sông Thị Nghè vào thảo cầm viên đầy cây cao bóng cả, văng vắng tiếng vượn hú, cọp gầm như ở chốn sơn lâm.
Phía trước nhà chàng có cây trứng cá đang vươn lên mơn mởn, hàng ngày rọi bóng mát lung linh vào hiên nhà. Những buổi chiều đi làm về, thỉnh thoảng chàng thấy Ngọc và cô láng giềng đứng trò chuyện bên cạnh cây trứng cá. Cô đã có mối tình dang dở với một trung úy và có một đứa con trai còn nhỏ ở chung với bà chị độc thân. Lúc trước cô là nữ trợ tá quân đội. Sau khi giải ngũ cô về làm việc cho đài truyền thanh. Thỉnh thoảng ông nhạc sĩ đã có vợ con ghé lại thăm cô, mời cô đi ăn, đi nhảy đến khuya mới về. Có lần Bình nghe tiếng bà chị trách cô ở bên kia vách tường:
-Mày ham ăn ham diện, tật nào chứng ấy.
Cô cũng biết cái tật của mình mà không thể bỏ. Gái một con đương thời xuân sắc; cô chẳng thể dập tắt ngọn lửa lòng trong những đêm dài cô đơn. Cũng có một, hai ông muốn đến với cô song ông nhạc sĩ đã chiếm được trái tim cô bằng ngón đàn tuyệt diệu. Từ đó cô như quên nghĩ đến một điều mà lương tâm cô không cho phép; là xâm phạm hạnh phúc của một thiếu phụ đang sống với ông nhạc sĩ và bầy con. Nhưng tình yêu của cô đã vượt qua cả cái ranh giới đạo đức mà người ta gọi là ngoại tình. Trò chơi này cứ tiếp diễn và ông nhạc sĩ cảm thấy không thể dứt tình với cô, dù ông biết hạnh phúc của ông với người vợ sẽ đi đến chỗ đổ vỡ hoàn toàn.
Hai chị em cô từ Long An lên đây ở đã nhiều năm. Có lẽ trong những lúc trò chuyện với Ngọc, cô đã giải tỏa bớt những ẩn ức về tâm sinh lý của một thiếu phụ đang cần một người đàn ông ở bên cạnh để chia sẻ tình yêu. Có thể nghĩ đến hạnh phúc của Ngọc mà cô muốn lập lại hạnh phúc với chàng nhạc sĩ tài ba, cho dù phải trải qua một cuộc phiêu lưu thứ hai trong đời cô. Riêng đối với Ngọc, cô rất chân tình và cởi mở, đó là bản tính của cô gái miền Nam ở bên cạnh.
Bình kết hôn với Ngọc do bàn tay mai mối giới thiệu. Đó cũng là cái duyên để hai người gặp nhau. Nàng kể khi di cư vào Nam cuối năm 1953, nàng vẫn nhớ cái trại của gia đình ở Ba Bông, Thanh Hóa, nhớ mùa hè chị em rủ nhau vào rừng hái sim và bơi lội trong con sông nhỏ chảy qua trại.
Khi phải rời Thanh Hóa về Hà Nội, ông bố nàng để lại một kho báu đồ cổ chôn ở trại không đem đi được. Nhiều bộ đồ sứ quý giá có niên đại nhà Minh bên Trung Quốc được ông sưu tập, mỗi lần tiếp khách ngoại quốc tỉnh ủy Thanh Hóa phải cử cán bộ đến hỏi mượn để dùng trong bữa tiệc.
Cây thuốc lá Yên Hà ông trồng ở trại thơm có tiếng, tỉnh ủy cũng phải tới nhà đặt hàng trước cả tháng mới có thuốc đãi khách. Thời trẻ, ông là nhà kinh doanh thường lái xe ra Hà Nội giao dịch buôn bán. Vào những năm 1930, cả tỉnh Thanh Hóa chỉ có vài người quyền quý, giầu sang mới có xe hơi riêng đi đây đi đó.
Vào Saigon ông vẫn tiếp tục kinh doanh và làm báo Tuổi Trẻ, Tiếng Dân; tranh đấu cho quyền lợi của người dân thấp cổ bé họng. Ông cũng là nhà thơ với bút danh Trọng Lộc. Đối với bạn bè trong đó có cả các nhà báo, nhà văn như Chu Tử, Lê Văn Trương; ông luôn giúp đỡ họ trong những lúc khó khăn.
Lớp người trí Ihức như ông vốn có tinh thần quốc gia dân tộc nên đã không thể sống với Cộng sản hay dùng thủ đoạn và bạo lực để khống chế nhân dân. Bạn ông, nhà thơ Hữu Loan ở Thanh Hóa, tác giả bài thơ nổi tiếng “Mầu tím hoa sim” đã tham gia nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm chống đảng bóp nghẹt tự do dân chủ. Ông đã can đảm chịu sự trù dập của đảng trong nhiều năm.
Bình còn nhớ cái Tết đầu tiên chàng mới làm quen với Ngọc. Chiều ba mươi trong Chợ Lớn lác đác tiếng pháo nổ. Không khí Tết đã trở lại với mầu mai vàng rực rỡ. Câu lạc bộ An Đông vắng hoe, chỉ còn vài sĩ quan độc thân ở lại. Bất giác chàng nhớ đến mấy câu thơ trong bài “Giây phút chạnh lòng" của Thế Lữ, sao nó giống với tâm trạng của chàng trong lúc này.
“Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan,
Trong lúc gần xa pháo nổ ran,
Rũ áo phong sương trên gác trọ,
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang”.
Đang lúc chàng bâng khuâng nghĩ đến mấy cái Tết xa nhà thì có tiếng xe Citroën đỗ trong sân câu lạc bộ. Người gác cửa lên lầu báo chàng xuống có khách. Vừa xuống tới chỗ xe hơi đậu, chàng ngạc nhiên thấy ba của Ngọc đến đón chàng về nhà ông ăn Tết. Đó là cái Tết đầu tiên chàng được chia sẻ không khí đầm ấm của gia đình Ngọc, được sống lại cái Tết gia đình miền Bắc mà chàng hầu như đã lãng quên.
Ngày Ngọc sinh đứa con gái đầu lòng, ba nàng rất mừng. Ông có đông con cái, nhưng đứa cháu ngoại đầu tiên đối với ông cũng thật quý. Ngọc lấy chồng sớm, lại mắn đẻ như mẹ nàng, người phụ nữ miền Bắc có tân học mà vẫn giữ nề nếp gia phong. Ông đem tặng chiếc khăn thêu trải vào nôi cho cháu nằm, nhìn cháu cười khi ông vuốt đôi má.
Có một câu chuyện làm Ngọc buồn mà Bình cứ ân hận mãi. Chuyện đã xẩy ra trước ngày cưới của hai người.
Hồi chàng còn làm việc ở Huế, trong một dịp vào Saigon công tác, khi trở ra chàng gặp cô gái lên Lệ cùng ngồi chung ghế trên chuyến xe lửa ra miền Trung. Khách trên xe không đông lắm. Ra khỏi Biên Hòa, tầu chạy qua những cánh rừng thưa nhạt nhòa ánh nắng. Gió bên đường tạt qua khung cửa sổ làm nàng thỉnh thoảng cứ phải đưa tay lên vuốt mấy sợi tóc phủ xuống gò má trơn không phấn sáp.
- Gió quá cô nhỉ? Để tôi đóng cửa sổ cho bớt gió.
Vừa nói, chàng vừa đứng dậy kéo tấm cửa kính xuống. Nàng quay nhìn chàng, giọng niềm nở:
-Cảm ơn anh.
Chàng ôn tồn đáp:
- Có gì đâu. Tôi sơ ý để cô bị gió từ nãy. Cô về đâu nhỉ?
- Em về Phan Thiết nghỉ hè.
- Quê cô ở Phan Thiết?
- Dạ phải.
- Thế cô làm việc ở đâu?
- Em dậy mẫu giáo ở Saigon.
- Cô có người quen trong đó?
- Dạ. Nhưng em ở trọ một mình.
Ngừng một lát, nàng khẽ hỏi:
- Anh về đâu?
- Tôi về Huế.
- Quê anh ở đó?
- Không. Đơn vị tôi ở Huế. Còn quê tôi ở Hà Nội.
Câu chuyện trở nên thân mật với hai người. Rồi nàng nói tiếp:
- Em chưa biết Hà Nội mà nghe ông chú lúc trước làm việc ở ngoài đó về kể Hà Nội đẹp lắm.
- Phải. Hà Nội có Hồ Gươm và nhiều thắng cảnh. Nhưng tôi nghĩ Hà Nội bây giờ không còn đẹp như trước. Con gái thành thị mặc áo cán bộ bốn túi đi làm lao động, tóc cắt ngắn, nhảy sol, đố, mì. Nông thôn thì tan hoang vì nạn đấu tố kéo dài nhiều năm.
- Em có đọc báo nói về vụ này.
- Thế là cô đã hiểu phần nào thực tế miền Bắc dưới chế độ cộng sản.
Mải trò chuyện, hai người không để ý đến trời đã sẩm tối. Một hồi còi hú lên lanh lảnh, xé tan bầu không khí hiu quạnh của ga Mương Mán.
Tầu đã tới Phan Thiết, từ từ đỗ lại trước sân ga. Chợt nàng đứng dậy bảo:
- Gặp anh nói chuyện vui quá. Khi nào anh vào Saigon, mời anh ghé lại nhà em chơi.
Rồi nàng trao cho chàng tấm giấy nhỏ có ghi địa chỉ của nàng.
- Thế nào tôi cũng có dịp vào Saigon công tác. Chúc cô mùa hè vui vẻ.
- Em cũng chúc anh như thế.
Khi nàng đã khuất sau tấm màn đêm, hình ảnh nàng còn lởn vởn trong tâm trí chàng. Trớ trêu thay hai tâm hồn cô đơn, kẻ Nam người Bắc lại tình cờ gặp nhau trên cùng một chuyến xe lửa. Ý chừng nàng để ý đến chàng nhiều hơn, nên nàng đã vui vẻ trao địa chỉ cho chàng để hai người có cơ hội tái ngộ.
Một lát sau, tầu từ từ chuyển bánh ra Huế. Cột nước cao của thị trấn Phan Thiết mờ dần khi con tầu ra khỏi ga Mương Mán.
Bẵng một thời gian chàng không để ý đến Lệ. Khi đổi vào Saigon, chàng đi làm hàng ngày từ Chợ Lớn qua công viên Tao Đàn đến sở làm ở gần cầu Thị Nghè. Một buổi sáng, chàng bất chợt gặp nàng đang đi trước cửa công viên Tao Đàn. Nàng vẫy tay gọi:
- Anh Bình
Chàng dừng xe vespa lại hỏi:
- Chào cô. Cô đi đâu?
- Em đi dậy.
- Lớp học có xa không?
- Gần lắm. Ở đường Nguyễn Du.
- Sao tôi không thấy có trường mẫu giáo nào gần đó cả.
Nàng cười.
- Không phải trường mà là lớp mẫu giáo tư dành cho các trẻ em trong khu phố.
- À ra thế.
- Trưa chủ nhật này mời anh đến nhà em chơi.
-Được. Tôi sẽ đến.
- Anh nhớ địa chỉ của em chứ?
- Nhớ.
Khi chàng đến địa chỉ của nàng ở đường Đề Thám, nàng dọn sẵn đồ ăn, có đứa cháu gái ở Phan Thiết trọ học phụ nàng một tay. Căn phòng của nàng ở dưới nhà. Trên lầu là khách thuê. Phòng có chiếc gường hai cô cháu nằm, chiếc bàn ăn với bốn ghế đẩu, một bàn viết trên có chồng sách ngay ngắn, một cây đàn guitare treo trên tường và tấm ảnh đen trắng của nàng để ở góc bàn. Phía sau là căn bếp.
Trong lúc ăn, nàng vui vẻ kể:
- Em trọ ở đây đã năm năm rồi, từ đây đi đến lớp không xa.
Chàng tính nhẩm:
- Từ đây đến lớp cũng cả cây số. Cô đi như thế có mệt không? Sao cô không đi xe solex cho nhẹ nhàng.
- Em đi bộ quen rồi. Mỗi lần đi qua Tao Đàn, em thấy thích không khí mát mẻ, còn được ngắm phong cảnh nữa. Nếu đi xe máy như anh nói, em phải chú tâm, lại không được hưởng cái thi vị đó. Chàng gật gù nói:
- Cô có tâm hồn nhà giáo, thích gần thiên nhiên. Nàng mỉm cười. Rồi vui miệng bảo:
- Hè này em mời anh đi Vũng Tầu chơi.
Thấy nàng tỏ vẻ ân cần, chàng nghĩ mình cũng nên đáp ứng ý nguyện của nàng.
- Tôi định mời cô mà rồi chưa kịp nói.
- Em mời anh mới đúng. Mình đi cho vui. Ở đó có nhiều cảnh đẹp tuyệt vời, thích hợp với nhà văn nhà báo đấy.
Đến hè, hai người lại gặp nhau ở Vũng Tầu. Chàng dẫn nàng lên Núi Lớn vãng cảnh chùa rồi xuống bãi Dứa ngắm biển. Bãi có những tảng đá do sóng gió ăn mòn; các đôi trai gái thường ngồi tâm sự dưới bóng mát thùy dương.
- Em thích ngắm mầu xanh ngắt của biển vào lúc chiều, nhìn núi và biển đẹp như bức tranh. Anh thấy cảnh Vũng Tầu thế nào?
- Đẹp. Tôi đã đi Đồ Sơn, Sầm Sơn nhưng ở đây biển có mầu xanh đẹp hơn.
- Cả Saigon ra đây nghỉ mát nên bãi biển lúc nào cũng đông. Hôm nay em không muốn tắm vì đã xế chiều, gió lại lạnh.
Khi ngồi bên cạnh chàng trên xe buýt về lại Saigon, nàng nói tỉ tê với chàng:
- Anh ở trong Chợ Lớn chắc buồn. Nếu anh về trọ chỗ em, cơm nước anh khỏi lo. Còn một căn gác cho mướn, em sẽ nói với chủ nhà dành cho anh.
Chàng hiểu cái ý nghĩ thầm kín của nàng, điềm nhiên nói:
- Cám ơn cô. Tôi sống nay đây mai đó đã quen rồi. Cô khỏi lo cho tôi. Mình cứ coi nhau như bạn.
Nàng mỉm cười lặng lẽ. Người con gái sống lẻ loi như nàng giữa một thành phố hoa lệ không khỏi khao khát tình yêu. Từ khi gặp chàng trên chuyến xe lửa ra Trung, khát vọng đó càng lên cao trong thâm tâm nàng. Nàng đã mở sẵn cánh cửa lòng để đón chàng, nhưng chàng còn e dè chưa bước vào.
Sau đó chàng bận công việc, không có dịp đến thăm Lệ. Hai năm trôi qua, chàng không còn để tâm đến nàng. Cơ hội lập gia đình chợt đến khi chàng gặp Ngọc. Quen nàng đến cả năm chàng mới lo chuyện xây tổ ấm với nàng.
Sắp tới ngày cưới Ngọc thì Lệ bất chợt đến nhà nàng vào buổi sáng. Ngọc thắc mắc không hiểu vì sao một cô gái Nam không hề quen biết lại đột ngột tới nhà nàng. Hóa ra tấm thiệp cưới của nàng đã được ba nàng gửi tới nhà ông chủ mướn Lệ dạy học. Ba của Ngọc và ông ta cùng chung vốn mua tầu đánh cá nên hai người thân thiết với nhau, cả hai người không ngờ Lệ có quen biết Bình.
Khi mới thấy Ngọc, Lệ rất hồi hộp. Nàng thu hết can đảm để nói:
- Thưa chị, em biếl chị rất ngỡ ngàng khi phải tiếp em thế này. Em có vấn đề cần trình bầy với chị hôm nay.
Ngọc ngắm nét mặt thoáng buồn của Lệ, nói nhỏ:
- Vâng, cô cứ nói.
Lệ tha thiết bảo:
- Em biết chị yêu anh Bình, em cũng yêu anh ấy. Cả hai chị em đều yêu một người đàn ông thật xứng đáng. Em lại quen biết anh ấy từ trước, nên em muốn chị nhường anh ấy cho em.
Ngọc thẩn thờ nhìn Lệ.
- Tôi chẳng hiểu cô nói gì cả.
Lệ khẩn khoản nói tiếp:
- Em sống cô độc đã bao năm rồi. Chị hãy còn trẻ đẹp, tương lai chị còn dài. Chị hãy thương em.
Nghe xong, Ngọc thở dài. Nàng chẳng hề nghĩ đến đám cưới gần kề, nói thẳng với Lệ:
- Tôi không có ý kiến. Cô hãy gặp anh Bình xem anh ấy xử trí ra sao. Anh ấy mới là người mà cô cần trình bầy hơn tôi.
Vừa dứt câu, Ngọc đứng dậy. Lệ cũng lặng lẽ ra về, trong lòng mang nặng nỗi ưu tư vì đã không tìm thấy con đường hợp lý cho mình và cho Ngọc. Nàng cũng cảm thấy ân hận sau khi gặp Ngọc, sợ nàng cho mình là kẻ ác tâm phá hoại hạnh phúc của nàng.
Chuyện gay cấn được Ngọc kể với Bình ngày hôm sau, lúc chàng ghé thăm nàng để bàn việc cưới. Chàng đã giải thích cho mẹ nàng hiểu câu chuyện quen biết Lệ bốn năm về trước, giữa hai người không có tình yêu, chỉ là bè bạn sơ giao. Sau đó, chàng không thấy bóng dáng Lệ trước cũng như sau đám cưới của chàng. Nhưng có lần Ngọc gặp Lệ ở chợ Saigon, Lệ hớn nở khoe:
-Em mới lấy chồng. Anh ấy là kỹ sư hàng không.
Ngọc điềm đạm bảo:
- Tôi mừng cho cô.
Giọng nói của Lệ bỗng nghẹn ngào.
- Em định đến xin lỗi chị. Nhưng sợ chị còn giận em. Chắc chị buồn về em không ít.
Nghĩ đến chuyện cũ, Ngọc khẽ an ủi:
- Tôi hiểu tâm trạng cô lúc ấy. Tôi cũng buồn ghê gớm. Nhưng chuyện đã qua, chúng ta đừng nhắc tới làm gì. Hãy lo cho tương lai.
Ngọc không trách Lệ mà thương hại nàng là đằng khác. Bình đã vô tình để lại cho Lệ một vết thương trong lòng mà chàng không lường được hậu quả. Nhớ lại lời mẹ dặn trước khi chàng vào Nam, chàng thấy mẹ nàng có lý, dù Lệ chỉ là một trường hợp cá biệt đối với chàng.
Sau đó là cuộc sống bận rộn. Nhưng chàng thấy Ngọc đã đem lại hạnh phúc thực sự cho chàng.
Buổi chiều mồng Năm Tết, chàng được lệnh của Thiếu tá Châu, giám đốc Nha Chiến tranh tâm lý cử đi tháp tùng Tổng thống Diệm qua Nhà Bè chúc Tết các vị bô lão.
Trời lúc đó êm ả. Cúc vạn thọ đang nở vàng trong vườn nhà dân. Hai bên đường dân chúng cầm quốc kỳ đón tổng thống. Khi đoàn xe đậu trước sân đình, Tổng thống Diệm mặc áo gấm xanh, đầu đội khăn đóng xanh, quần trắng bước xuống xe rồi vào thẳng trong đình gặp các vị bô lão mặc quốc phục mầu đen hay xanh. Chọn một xã thiếu an ninh, du kích vẫn hoạt động lẻ lẻ, ông Diệm đã không lo ngại cho sự an toàn của bản thân mà muốn chứng tỏ hòa mình với dân, lo cho dân được sống an vui.
Tổng thống nói chuyện với các bô lão về vấn đề duy trì nếp sống văn hóa dân tộc, về việc giữ gìn an ninh cho xóm, ấp, giản dị như một bậc huynh trưởng trong gia đình chứ không phải một ông vua không ngai tiếp xúc với dân chúng.
Ngày thường ông Diệm bận âu phục trắng để làm việc và tiếp khách. Nhưng hôm nay ông hòa mình với dân, thấy tận mắt cuộc sống của dân và chia sẻ những khó khăn của họ, một cử chỉ thân dân chưa từng thấy ở người lãnh đạo quốc gia luôn bề bộn việc nước.
Sau Tết, Bình mời một thiếu úy làm việc cùng phòng về nhà ăn cơm cho vui. Anh ta quê Nghệ An, mới được đồng hóa vào Nha Chiến tranh tâm lý. Nghĩ đến hoàn cảnh cô đơn mà mình đã từng trải qua, chàng muốn có cử chỉ thân ái với anh ta ở gia đình hơn là trong lúc làm việc.
Chàng rót rượu whiskey ra hai chiếc ly rồi quen miệng hỏi:
- Anh uống sec hay đá.
Anh ta ngớ người không hiểu tiếng sec.
- Xin anh cho đá.
- Tôi cũng như anh, chỉ uống rượu có tý đá, nhưng không thường xuyên đâu.
Trong lúc ăn, chàng hỏi anh ta:
- Anh thấy công việc thế nào? Có thích hợp với anh không?
Anh ta nhanh nhẩu nói:
- Làm việc với các anh thì vui. Tôi thấy không có gì trở ngại trong công việc. Mới đầu hơi lạ nhưng bây giờ tôi đã quen.
- Nghe nói lúc trước anh có viết cho đài phát thanh Hà Nội. Anh viết bình luận hay tin tức?
- Tôi viết đủ loại nhưng không chuyên mục nào.
-Rồi anh bỏ trốn vào Nam?
- Vâng. Họ vẫn theo dõi tôi.
- Anh khỏi lo, đã có cơ quan an ninh bảo vệ anh.
Lát sau chàng nhắc một chuyện vui:
- Hồi tôi làm việc ở sở Chiến tranh tâm ]ý miền Trung tọa lạc bên bờ sông An Cựu, thành phố Huế, buổi tôi tôi mở đài Hà Nội nghe:“ Ở trong Nam dân đói phải ăn cả xương rồng!" Tôi buồn cười vì biên tập viên dựng đứng câu chuyện làm thính giả miền Bắc tin là có thật. Còn ở miền Nam nếu có ai nghe được, họ không tin thế đâu, mà họ nghĩ ngược lại. Tôi nghe dân di cư vào kể dân chúng phải xếp hàng đi mua từng mớ rau muống, bìa đậu phụ ở phố hàng Bông trước đây buôn bán sầm uất, bây giờ hàng hóa không có mà bán. Như vậy là dân miền Bắc đói.
Nghe xong, anh ta gật đầu bảo:
- Miền Bắc đang sống trong thời bao cấp. Nhân dân đã phải thắt lưng buộc bụng vì chiến tranh chống Pháp, nay lại chống Mỹ, không được ngơi lúc nào. Có hiện tượng dân bất mãn với chính quyền.
- Như vụ Nhân Văn Giai Phẩm.
- Vâng. Ông Nguyễn Hữa Đang và bà Thụy An lãnh án nặng nhất 15 năm tù. Anh biết bà Thụy An?
- Tôi có nghe tên nhà văn nữ này khi tôi còn ở Hà Nội.
Mặt anh ta đỏ gay vì men rượu. Thấy mình được tiếp đãi ân cần, anh la vồn vã nói với Ngọc:
- Hôm nay được anh chị cho ăn bữa cơm gia đình, em cảm thấy ấm áp trong lòng vô cùng.
Ngọc đỡ lời chồng:
- Có gì đâu anh. Anh xa gia đình thì cứ đến với chúng tôi cho vui.
Bình tưởng anh ta sẽ phấn khởi trong công việc nhưng chỉ một tuần sau, anh ta bỗng vắng mặt ở sở. Có tin anh ta đã đào thoát vào bưng với việt cộng. Bình về kể với vợ:
- Anh thiếu úy ăn cơm với mình đã bỏ trốn rồi.
Ngọc tỏ vẻ ưu tư:
- Anh ấy biết nhà mình, có sao không?
Chàng trấn an:
- Chẳng sao đâu. Anh ta bỏ đi là không còn cơ hội quay trở lại. Mình đối xử tốt với anh ta, chắc anh ta phải suy nghĩ. Nhưng cũng cần đề phòng đấy em.
Trường hợp Việt Cộng gài người vào các cơ quan chính quyền và quân đội không phải là hiếm hoi. Nha Chiến tranh tâm lý hoạt động nổi, không có gì để khai thác về chiến thuật nên Việt Cộng rút người đi vì sợ bị lộ tổ chức. Biệt kích miền Nam cũng đã được bí mật thả dù ban đêm ra Bắc hoạt động tình báo chiến và tâm lý chiến; một số đã bị nhà cầm quyền Cộng sản bắt cầm tù.