← Quay lại trang sách

Chương Sáu Đất bằng nổi sóng

Tây Nguyên là vùng đất được ông Diệm chú trọng phát triển về dân sinh và quốc phòng. Ông đã cho thành lập Nha Công tác miền Thượng do một sĩ quan quân đội làm giám đốc. Đồng bào Thượng cần được hướng dẫn về các chính sách của chính phủ và cải thiện đời sống nghèo nàn, lạc hậu mà vẫn giữ bản sắc văn hóa của họ.

Các hoạt động tâm lý chiến quân đội cũng đã được tăng cường tại các tỉnh Pleiku, Kontum, Ban Mê Thuột. Quân đội đã tới các buôn làng làm công tác dân vận, phát thuốc chữa bệnh cho đồng bào dân tộc thiểu số, những người từng bị bỏ quên trong rừng núi, xa cuộc sống văn minh và dễ bị Việt Cộng tuyên truyền, móc nối.

Bình được cử lên Ban Mê Thuột tiếp xúc với Sư đoàn 23 Bộ binh để nghiên cứu tình hình hoạt động tâm lý chiến. Hồi này quốc lộ 14 không còn an ninh như mấy năm trước. Những khoảng rừng rậm hai bên đường giúp Việt Cộng ẩn náu để ra chặn các xe đò, thu thuế hành khách và tuyên truyền chống chính phủ. Tâm lý hành khách ngại có nhà binh ngồi chung xe đò trên tuyến đường dài xuyên qua rừng núi, nên Bình mặc thường phục để họ cảm thấy an tâm hơn.

Xe lăn bánh lúc chạng vạng tối. Qua khỏi Biên Hòa, đường mỗi lúc một vắng. Những cánh rừng cao su đen sẫm như chứa đầy bí ẩn hai bên đường. Thỉnh thoảng mới thấy nhà dân le lói ánh đèn khi xe chạy qua. Lần đầu tiên đi xe đò ban đêm lên Tây Nguyên, chàng cảm thấy ấm cúng khi trò chuyện với người dân buôn bán ngồi bên cạnh, họ ngược xuôi bất kể đêm hôm để có cuộc sống ấm no. Có lúc chàng cũng cảm thấy hồi hộp khi nghĩ đến những chuyện bất thường có thể xẩy ra cho chuyến xe như gặp thú rừng hay Việt Cộng ở dọc đường. Tuy nhiên bản lĩnh quân nhân đã khiến chàng bình tĩnh trở lại để sẵn sàng đối phó với mọi tình huống. Chàng nghĩ thầm:

- Nếu không có Cộng sản thì đất nước mình thanh bình, nhân dân được hạnh phúc biết mấy!

Hành khách xung quanh đã im lặng và ngủ ngay trên ghế ngồi. Bác tài xế cứ phải căng mắt nhìn phía trước và hai bên đường. Giọng cải lương êm ái và ngọt ngào của Thanh Nga từ băng cát xét ở đầu máy giúp bác tỉnh táo hơn trong khi lái xe.

Tới thị trấn Bảo Lộc, xe dừng lại nghỉ ít phút. Vài tiệm ăn còn mở cửa đón hành khách vào ăn uống trước khi họ đi tiếp. Đêm khuya, trời lạnh, sương mù giăng kín núi rừng mà được thưởng thức tô cháo nóng và ly cà phê đen thì tuyệt.

Xe tới thị xã Ban Mê Thuột lúc 4 giờ sáng. Thành phố còn đương chìm trong giấc ngủ yên lành. Ánh đèn điện mầu vàng le lói trên đường phố có mầu hoa phượng đỏ nhắc chàng cao nguyên đã vào hè. Mùa này, phượng nở từ Bắc chí Nam, từ cao nguyên tới miền duyên hải, rực rỡ và xao xuyến vô cùng.

Một vài hành khách rời khỏi xe. Số còn lại đi tiếp lên Pleiku, Kontum. Dù mất an ninh, huyết mạch giao thông 14 lên miền cao không lúc nào ngớt dân chúng di chuyển. Chiếc xe jeep của sư đoàn đã đợi sẵn ở bến xe đón chàng về câu lạc bộ nghỉ ngơi.

Buổi sáng chàng tới bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 đóng trên đồi. Dọc đường, các học sinh Thượng mặc đồng phục xanh trắng đi xe đạp tới trường trông rất ngoan ngoãn. Thế hệ thanh niên Thượng ngày nay đã thấy Tây Nguyên được độc lập, tự do, không còn bóng dáng thực dân Pháp song còn nạn Cộng sản. Vẻ đẹp của Ban Mê Thuột đã thể hiện trong sự hòa hợp giữa thiên nhiên với cuộc sống, giữa người Kinh với người Thượng thiểu số.

Khí trời ở đây mát dịu. Đang ở Saigon ồn ào mà tới thành phố cao nguyên còn giữ vẻ đẹp thiên nhiên, chàng có cảm tưởng tâm hồn mình trẻ lại.

Cuộc tiếp xúc với Phòng 5 Sư đoàn 23 đã cho chàng những nhận xét lạc quan về công tác dân sự vụ ở Tây Nguyên. Người Thượng mến quân đội ở chỗ coi họ như người Kinh và tôn trọng phong tục tập quán của họ. Chỗ nào làm tốt công tác dân sự vụ, có chính quyền vững và hoạt động của các tôn giáo thì Thượng cộng khó bám trụ. Tuy nhiên quân đội còn phải lo bình định vùng lãnh thổ trách nhiệm, và cán bộ dân sự Thượng vận còn rất thiếu thốn, nên nhiều mảng dân cư Thượng còn bỏ trống, không được tuyên truyền giáo dục theo chính sách thăng tiến của chính phủ. Đó là những yếu tố giúp chàng hoàn thành bản báo cáo để quân đội và chính quyền sẽ hoạch định chính sách đúng đắn về miền Thượng.

Trở lại Saigon, chàng thấy các báo đăng tin Việt Cộng sát hại các viên chức hành chánh xã, ấp ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long: Long An, Định Tường, Kiến Hòa, Chương Thiện, Châu Đốc. Các đơn vị võ trang Việt Cộng cũng tấn công các đồn bốt lẻ tẻ ở địa phương. Về quy mô, Việt Cộng rập theo các hoạt động du kích như Việt Minh đã từng áp dụng trong vùng hậu địch miền Bắc từ 1950 đến 1953. Riêng năm 1958 đã có 700 viên chức xã, ấp bị Việt Cộng sát hại và thủ tiêu, làm hệ thống chính quyền nông thôn ở nhiều nơi bị suy yếu.

Hiệp định đình chiến Genève 1954 đã trở thành tờ giấy lộn. Nền hòa bình mong manh đã bị Cộng sản bóp chết. Máu lương dân lại đổ trên dải đất miền Nam trù phú và yêu chuộng hòa bình. Ngày 28 tháng Tám, 1959, đảng Lao động Việt Nam ra nghị quyết phát động phong trào Đồng Khởi tại miền Nam. Các đơn vị Cộng sản nằm vùng đáng lý phải rút hết ra Bắc theo hiệp định Genève sau ngày 20 tháng Bẩy 1954, đã đồng loạt nổi dậy phá hoại cuộc sống hiền hòa của nhân dân ở nông thôn và thành thị.

Ủy ban kiểm soát đình chiến gồm các sĩ quan Ba Lan (Cộng sản), Gia Nã Đại (Dân chủ) và Ấn Độ ( Trung lập) đã hoàn toàn bất lực trước các cuộc nổi dậy của Cộng sản ở miền Nam. Thời gian quy định tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào mùa hè năm 1956 đã trôi qua vì chính phủ Quốc gia Việt Nam do Quốc Trưởng Bảo Đại cầm đầu đã không ký vào bản hiệp định Genève 1954, nên chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng không bị ràng buộc bởi các điều khoản của hiệp định. Chính phủ Mỹ cũng đã không ký vào bản hiệp định này. Trên thực tế nếu có cuộc tổng tuyển cử ở cả hai miền thì Cộng sản sẽ sử dụng đạo quân nằm vùng mua chuộc, khủng bố, áp lực dân chúng bỏ phiếu cho chúng thắng thế; một điều rất bất lợi cho phía quốc gia.

Nước Mỹ đang ở trong tình trạng chiến tranh lạnh với Liên Xô. Chính phủ Eisenhower không muốn làn sóng Cộng sản nhuộm đỏ miền Nam Việt Nam và vùng Đông Nam Á. Lý do đó khiến Mỹ coi Việt Nam Cộng Hòa là một tiền đồn chống Cộng của thế giới Tự Do. Và Mỹ tự thấy có bổn phận phải giúp đỡ chính phủ Ngô Đình Diệm đứng vững trước cuộc xâm lăng của Cộng sản Bắc Việt, một cuộc xâm lăng quy mô có sự hậu thuẫn toàn diện của Khối Cộng sản Quốc tế.

Để dọn đường cho bộ đội Bắc Việt xâm nhập miền Nam, đầu năm 1959 Cộng sản Bắc Việt đã cử đoàn công binh 559 mở đường mòn Hồ Chí Minh dọc dãy núi Trường Sơn tiếp giáp với Lào và đặt ống dẫn xăng dầu vào miền Nam để sử dụng cho xe cơ giới vận chuyển bộ đội, khí tài, và xe tăng T.54 do Liên Xô viện trợ. Con đường này đã trở thành mục tiêu của máy bay B.52 oanh tạc và các toán biệt kích hoạt động ngày đêm nhưng vẫn không cản được đà xâm nhập của bộ đội Bắc Việt.

Để đối phó với cuộc nổi dậy của Việt Cộng đe dọa nghiêm trọng tính mạng và tài sản của nhân dân, đạo luật số 10/1959 đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật đã được Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa thông qua và Chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành. Từ khi có luật này, nhiều cơ sở Việt Cộng đã bị nhân dân tố giác và cán bộ Cộng sản bị đem ra xử theo luật pháp.

Tháng Giêng năm 1960, 4 đại đội Việt Cộng đã mở cuộc tấn công vào căn cứ trung đoàn 32 thuộc Sư đoàn 21 đóng ở Trảng Sụp, cách thị xã Tây Ninh 7 cây số. Lợi dụng sự lơ là của quân đồn trú vào dịp nghỉ Tết, Việt Cộng đã lọt vào căn cứ, lấy đi một số vũ khí ở trong kho.

Đến tháng Chín, đại hội đảng Lao động lần thứ 3 đã ra nghị quyết tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng toàn miền Nam, vi phạm trắng trợn Hiệp định Genève 1954 mà chính Cộng sản đã ký kết.

Trong khi đó, không khí chính trị ở Saigon bỗng trở nên căng thẳng do một số chính khách tai mắt đứng ra chỉ trích chính phủ Ngô Đình Diệm.

Đáng chú ý là nhóm nhân sĩ Tiến Bộ, trong đó có những người đã từng cộng tác với ông Diệm nay công khai chống lại ông. Nhóm đã tổ chức họp báo tại khách sạn Caravelle đường Tự Do ngày 26 tháng Tư 1960, lên án chế độ gia đình trị và yêu cầu ông Diệm cải tổ nội các. Bản tuyên cáo chung của nhóm gồm các tên tuổi: Trần Văn Hương (cựu Đô trưởng Saigon), Phan Khắc Sửu (cựu Tổng trưởng Canh nông), Linh mục Hồ Văn Vui, Trần Văn Văn, Phạm Hữu Chương, Trần Văn Đỗ, Lê Ngọc Chấn ( cựu Bộ trưởng phụ tá Quốc phòng), Trần Văn Tuyên, Lê Quang Luật, Phan Huy Quát, Nguyễn Tăng Nguyên, Trần Lệ Chất, Tạ Chương Phùng, Lương Trọng Tường, Nguyễn Lưu Viên và Huỳnh Kim Hữu.

Cuộc họp báo của nhóm nhân sĩ Tiến Bộ diễn ra đột ngột, không loan báo trước, nên cơ quan mật vụ của bác sĩ Trần Kim Tuyến, Chánh sở Nghiên cứu Chính trị trực thuộc Phủ Tổng thống đã không kịp trở tay ngăn chặn. Ngoài ra còn có tin đồn đảo chính được loan khiến dư luận thêm hoang mang. Từ lâu các đảng phái đối lập: Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân chủ Tự Do của bác sĩ Phan Quang Đán vẫn ngấm ngầm chống ông Diệm và đòi chia sẻ quyền hành.

Quán cà phê La Pagode trên đường Tự Do, Saigon là nơi gặp gỡ các nhà báo, chính khách, tình báo Cộng sản trong đó có điệp viên Phạm Xuân Ẩn đội lốt ký giả, nhân viên CIA và mật vụ của bác sĩ Tuyến. Đám này thường đến đây mạn đàm, thu lượm tin tức trong và ngoài chính quyền.

Ngày 11 tháng Mười Một, 1960, Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù đã làm một cuộc đảo chính lật đổ Chính phủ Ngô Đình Diệm. Tham gia cuộc đảo chính có bác sĩ Phan Quang Đán, Trung tá Vương Văn Đông, phục vụ tại Đại học Quân sự, Đại úy Phan Lạc Tuyên nhà thơ quân đội, chỉ huy tiểu đoàn Biệt động quân ở Tây Ninh kéo về Saigon. Ba tiểu đoàn Dù của Đại tá Nguyễn Chánh Thi bao vây dinh Độc Lập và chiếm đài phát thanh quốc gia. Cuộc đảo chính bị thất bại vì trung đoàn 12 thuộc Sư đoàn 7 Bộ binh ở Biên Hòa do Thiếu tá Nguyễn Hữu Duệ chỉ huy đã kịp thời về cứu ông Diệm và chiếm lại đài phát thanh. Sư đoàn 7 Bộ binh lúc ấy do Trung tá Huỳnh Văn Cao làm tư lệnh. Đồng thời Đại tá Trần Thiện Khiêm cũng dẫn Sư đoàn 21 Bộ binh từ miền Tây về bảo vệ ông Diệm. Không có cuộc đổ máu giữa đôi bên vì lúc ấy Thiếu tướng Nguyễn Khánh, Tham mưu trưởng liên quân đã vào dinh Độc Lập để dàn xếp nội vụ.

Cuộc đảo chính bất thành vì không được quân đội ủng hộ và phía Mỹ không tán thành. Nhờ có sự dàn xếp trước, Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông đã được Đại úy Phan Phụng Tiên chở bằng phi cơ quân sự qua Cam Bốt tị nạn, Đại úy Phan Lạc Tuyên lái xe qua Cam bốt, sau đó ông theo Cộng sản ra miền Bắc.

Riêng bác sĩ Phan Quang Đán; người đã tham gia chính phủ của ông Diệm, bị bắt giam cùng vài người trong nhóm nhân sĩ Caravelle. [1] Nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam ủng hộ cuộc đảo chính cũng bị mật vụ theo dõi. Ít lâu sau, Đại tá Trần Thiện Khiêm được thăng thiếu tướng, giữ chức vụ tham mưu trưởng liên quân.

Trong dịp này, Đại sứ Mỹ Elbridge Durbrovv đã đề nghị ông Diệm cải tổ nội các để các thành phần chính trị khác tham gia chính phủ và thực hiện bầu cử ở xã, ấp, nhưng ông Diệm đã cho Mỹ biết Cộng sẵn đang nổi dậy khắp nơi, ông không thể thực hiện các đề nghị này theo ý họ.

Trong lúc cuộc đảo chính xẩy ra ở Saigon, Bình cùng phái đoàn Tâm lý chiến đang ở Okinavva thăm các hoạt động của một tiểu đoàn tâm lý chiến Mỹ. Nơi đây đã cung cấp hàng triệu truyền đơn cho quân đội VNCH rải bằng máy bay trên 4 Vùng chiến thuật và đường mòn Hồ Chí Minh để kêu gọi cán binh Cộng sản hồi chánh. Khả năng in truyền đơn của Nha Chiến tranh tâm lý có giới hạn nên đã phải nhờ nơi đây hỗ trợ khi có các chiến dịch tuyên truyền lớn, nhất là vào dịp Tết.

Bình lại có thêm thiên phóng sự về Okinawa. Đây là hòn đảo của Nhật, do quân đội Mỹ chiếm đóng sau khi đổ bộ lên đảo hồi tháng Tư, 1945. Quân đội Mỹ đã phải chiến đấu ròng rã 2 tháng, chiếm từng thước đất, thiệt hại hơn 7.374 binh sĩ, bị thương 31.807 binh sĩ mới kiểm soát được hòn đảo. Số thiệt hại của Nhật lên tới 100.000 binh sĩ và 80.000 thường dân”.[2]

Ngày đầu tới Naha, thủ phủ của đảo Okinawa, Bình thấy cuộc sống ở đây sôi động, thanh bình và phồn thịnh. Ra tới ngoại ô, các chợ họp đông, ồn ào, không khí bình dân như các chợ ở Saigon. Các gia đình người Nhật sinh hoạt trong những ngôi nhà gỗ giản dị, mộc mạc, mặt sàn thoáng đãng dùng làm nơi tiếp khách, uống trà hay rượu saké, rất ít bàn ghế, đồ đạc và trang trí. Như thế khi có động đất sẽ ít bị thiệt hại vì nước Nhật ở trên vành đai địa chấn phía bắc Thái Bình Dương. Là thành phố bị chiếm đóng, các thanh lâu, tửu quán được mở để quân nhân Mỹ giải trí, đem lại lợi tức cho thành phố. Tuy nhiên dân địa phương vẫn đòi Mỹ trả lại chủ quyền cho họ”[3]

Khó có thể tưởng tượng nước Nhật phục hồi mau chóng sau khi Mỹ thả trái bom nguyên tử đầu tiên xuống thành phố Hiroshima ngày 6 tháng Tám, 1945, sát hại 130.000 người Nhật và ngày 9, Mỹ lại thả trái bom nguyên tử xuống thành phố Nagasaki, tàn sát 60.000 người Nhật. Hai trái bom nguyên tử của Mỹ đã rút ngắn chiến tranh tại Thái Bình Dương, đưa nước Nhật vốn là đồng minh với Đức, Ý trong phe Trục, tới chỗ chấp nhận đầu hàng Đồng Minh ngày 14 tháng Tám, 1945, kết thúc Thế chiến thứ hai kéo dài trong 6 năm. Đức đã đầu hàng Đồng Minh ngày 8 tháng Năm, 1945 sau khi quân Anh, Mỹ, Pháp và Liên Xô tiến vào giải phóng nước Đức. Ý đã đầu hàng Đồng Minh ngày 8 tháng Chín, 1943, khi liên quân Anh Mỹ đổ bộ lên nước Ý.

Chiến tranh thế giới đã qua đi từ lâu nhưng nhân loại vẫn nhớ đến 6 triệu người Do Thái ở Đông Âu không phân biệt già trẻ đã bị Đức Quốc Xã giết hại tại lò thiêu Auschwitz ở Ba Lan, khi Đức chiếm đóng xứ này. Thế giới ngày nay còn giữ được hai di sản văn chương quý báu về chiến tranh: đó là cuốn nhật ký của Anne Frank và nhật ký của Rutka Laskier. [4] Anne Frank, cô gái Do Thái trốn trong nhà kho của gia đình ở Hòa Lan cùng 4 học sinh Do Thái trong 2 năm, trước khi bị mật vụ Đức bắt cùng với gia đình ngày 8 tháng 4, 1944. Anne và chị là Margot bị đưa về trại tập trung Bergen-Belsen, phía bắc nước Đức. Hai chị em Anne đều chết vì ốm yếu và bệnh hoạn trong tháng 3, 1945. Mẹ của Anne chết ở Auschwitz từ tháng 1 năm 1945, còn người cha được cứu sống ở nơi đây khi hồng quân Liên Xô tới giải phóng Ba Lan. Trong nhật ký của Anne Frank được dịch ra các thứ tiếng, có một câu cô viết rất cảm động: “Mặc dù thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn tin rằng con người thực sự tốt từ đáy lòng”.

Còn nhật ký của Rutka Laskier, cô gái Do Thái viết vào khoảng thời gian trước tháng Tư, 1943. Cô đã tả những nỗi kinh hoàng và cuộc sống khổ sở của cô ở khu lò thiêu Bedzin, Ba Lan, trước khi cô bị chuyển tới Auschwitz và chết ở đó.

Nhắc đến Thế chiến thứ hai, Bình không quên 2 triệu người miền Bắc ở các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa chết đói năm Ất Dậu, 1945 vì Nhật -Pháp bắt nông dân phá bỏ ruộng lúa trồng đay để phục vụ nhu cầu chiến tranh của Nhật.

Dù ở thế bại trận, người Nhật vẫn còn tiềm năng kỹ nghệ tiên tiến và sự cần cù, nhẫn nại làm việc, nên chỉ một thời gian ngắn họ đã phục hưng xứ sở và phát triển kinh tế vững vàng.

Sau khi chiến tranh kết thúc, nước Nhật đã bồi hoàn thiệt hại cho Việt Nam bằng việc thiết lập đường dây điện cao thế tại miền Bắc và xây bệnh viện đa khoa Chợ Rẩy ở Saigon cho miền Nam.

Khi Bình và phái đoàn tâm lý chiến từ Okinawa trở về Saigon, tình hình đã trở lại bình thường. Tuy đã ổn định được tình thế và giữ vững vai trò lãnh đạo, ông Diệm lại phải đối phó với âm mưu mới của Cộng sản Bắc Việt.

Để đánh lừa dư luận trong và ngoài nước, Cộng sản đã tuyên bô thành lập Mặt trận giải phóng miền Nam ngày 20 tháng 12, 1960. Mặt trận gồm một số nhân vật thân cộng: luật sư Nguyễn Hữu Thọ, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, nữ bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, ông Trương Như Tảng và bà Nguyễn Thị Bình. Những người này được Cộng sản sử dụng như một tấm bình phong nhằm che đậy cuộc xâm lăng của Bắc Việt vào miền Nam. Họ chỉ là các con rối trong bàn tay phù thủy của Bộ chính trị trung ương đảng Lao động Việt Nam. Bản cương lĩnh 10 điểm của Mặt trận là một tài liệu tuyên truyền chống chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và kêu gọi các thành phần quốc gia hòa hợp hòa giải với Cộng sản.

Trước tình hình an ninh ở nông thôn bị suy sụp. trong năm 1961, chính phủ Ngô Đình Diệm đã thực hiện quốc sách Ấp chiến lược trên toàn miền Nam. Ấp chiến lược được xây dựng trên cơ sở tam túc: tự túc tư tưởng, tự túc tổ chức và tự túc kỹ thuật. Ấp có nhiệm vụ thanh lọc cán bộ cộng sản trà trộn trong nhân dân, tách dân ra khỏi địch và tự chiến đấu chống du kích Việt Cộng. Nhân dân tự vệ là lực lượng chính tại xã, ấp. Quân đội sẽ lưu động can thiệp trong trường hợp Việt Cộng mở cuộc tấn công quy mô vào xã, ấp.

Đây là công trình nghiên cứu của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu, dựa theo mô hình Ấp chiến đấu chống Cộng sản Mã Lai của Đại tá Robert Thompson, một chuyên gia du kích người Anh đã hợp tác với chính phủ Mã Lai trong việc tiểu trừ cộng sản dọc biên giới Mã Lai và Thái Lan.

Chỉ một thời gian ngắn, Ấp chiến lược đã làm bật rễ các cơ sở cộng sản nằm vùng, cắt đứt nguồn tiếp tế nhân vật lực từ nông thôn cho các du kích quân cộng sản trong vùng.

Trong khi đó, Tổng thống John F. Kennedy lên cầm quyền ở Mỹ năm 1961 đã phải đối phó với Cộng sản nổi dậy ở Lào và Việt Nam, với tình hình căng thẳng ở Bá Linh do Liên Xô gây ra và ở Trung Mỹ, Fidel Castro đưa Cuba vào quỹ đạo của Liên Xô.

Ở miền Nam Việt Nam, Bắc Việt đã đưa thêm 4000 quân xâm nhập. Tháng Chín, 1961, một trung đoàn Việt Cộng đã mở cuộc tấn công vào tỉnh lỵ Phước Thành, cách Saigon 88 cây số về phía bắc. Tỉnh mới thành lập, nằm sát với Chiến khu Đ của Việt Cộng, do một tiểu đoàn Địa phương quân trú đóng. Trong lúc kháng cự với cộng quân, thiếu tá tỉnh trưởng đã hy sinh.

Tình hình Việt Cộng gia tăng phá hoại miền nam Việt Nam khiến Tổng thống Kennedy đã phải đặt vấn đề phái quân đội Mỹ qua bảo vệ an ninh cho miền Nam. Ông đã cử Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson đến Saigon gặp Tổng thống Diệm để cam kết sự hỗ trợ của Mỹ cho Việt Nam Cộng Hòa chống Cộng sản xâm lược.

Sau đó phái đoàn Tướng Maxvvell D.Taylor và Cố vấn tòa Bạch Ốc Rostow qua gặp Tổng thống Diệm để đưa đề nghị gửi 8000 quân Mỹ thuộc lực lượng tiếp vận, y tế, công binh và bộ binh yểm trợ cho dân chúng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, song ông Diệm đã từ chối đề nghị này. Ông chỉ nhận thêm Cố vấn Mỹ ở các đơn vị để huấn luyện và gia tăng khả năng chiến đấu của quân đội.

Từ 1961 đến 62, số cố vân Mỹ tăng từ 3.205 lên 9.000 người cho Quân đội VNCH, thêm 300 máy bay chiến đấu cho Không quân và một số thiết vận xa cho các đơn vị bộ binh [5]

Ngoài ra, Phái bộ Cố vấn viện trợ quân sự Mỹ đã yểm trợ chương trình rải thuốc khai quang dọc các trục lộ có rừng rậm để Việt Cộng không thể ẩn núp tấn công vào các đoàn công voa quân đội và làm gián đoạn lưu thông dân sự.

Sự kiện ông Diệm chỉ nhận viện trợ quân sự và kinh tế của Mỹ (675 triệu đô la cho tài khóa 1962-63) mà không nhận quân đội Mỹ qua tham chiến bên cạnh quân đội VNCH, chứng tỏ nhà lãnh đạo quốc gia luôn giữ vững lập trường chính nghĩa của VNCH trong công cuộc chống Cộng sản xâm lược. Điều này khiến Mỹ không được hài lòng, nhất là phái diều hâu đang nắm ưu thế.

Năm 1962, tòa Đô chính dựng tượng Hai Bà Trưng tại công viên bến Bạch Đằng, dân chúng lại công kích tượng hai Bà sao giống mặt hai chị em bà Ngô Đình Nhu, tức bà Trần Lệ Xuân và chị là bà Trần Lệ Chi, phu nhân Bộ trưởng Nguyễn Hữu Châu. Sau đó tượng hai Bà Trưng phải bỏ.

Bà Trần Lệ Xuân thuộc gia đình quý phái ở Hà Nội, thân phụ là luật sư Trần Văn Chương, Đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ, thân mẫu là Quan sát viên VNCH tại Liên Hiệp Quốc. Trong vai trò dân biểu cùng Ông Ngô Đình Nhu, bà đã đưa ra luật bảo vệ gia đình và xã hội, trong đó có khoản cấm ly dị [6].

Bà đã lập Hội Phụ nữ Liên đới, Đoàn Thanh nữ Cộng Hòa theo sau Đoàn Thanh niên Cộng Hòa do ông Nhu sáng lập. Bà là người đưa ra mốt áo dài hở cổ làm các bà lớn và các thiếu nữ đua mặc. Mốt áo này trẻ trung, mát mẻ, Ngọc cũng đã mặc, nhưng phụ nữ vẫn muốn giữ vẻ kín đáo của chiếc áo dài. Với vai trò gần như Đệ nhất Phu nhân, bà đã không tránh khỏi bị dư luận bình phẩm.

Chú thích:

[1] Trong số này có cả Luật sư Lê Ngọc Chấn bị giam giữ tới sau ngày đảo chính 1/11/1963 mới được thả.

[2] Trước khi quân Mỹ đổ bộ lên Okinawa, quân Nhật ép hàng ngàn thường dân tự sát tập thể vì sợ quân Mỹ hành hạ.

[3] Năm 1972, Mỹ đã trả Okinawa cho Nhật, chỉ còn các căn cứ quân sự trên đảo.

[4] Anne Frank 15 tuổi; Rutka Laskier 14 tuổi

[5] America’s Longest War, George C. Herring, 1979, p 86.

[6] Dư luận đã chí trích luật này; bởi nó cũng đã phát xuất từ ý đồ của bà Nhu muốn ngăn cản phu quân bà Trần Lệ Chi ly dị với bà vì bà có người yêu Pháp. Karnow 1997, p 280-284 và Wikipedia, the Free Encyclopedia, 1/9/2008.