← Quay lại trang sách

Chương Bảy Buổi sáng không bình yên

Gia đình Bình dọn về đường Lê Văn Duyệt. Căn gác gỗ ở trong hẻm chỉ đủ cho hai vợ chồng chàng và mấy đứa con nhỏ. Con hẻm chật, ngoắt nghéo, vừa vặn một chiếc xích lô đi lọt. Nhà cửa sát vách nhau ở hai bên hẻm; hàng xóm có thể nghe động tĩnh nhà bên cạnh. Cảnh sống hang ổ cứ nghĩ mà ấm cúng, sớm tối có nhau; gia đình nào cũng đông con cái, giọng Nam, giọng Bắc nghe như chỉ một giọng, nhất là đám trẻ.

Chàng ở lọt giữa hai gia đình công chức từ Bắc di cư vào. Nhà bên cạnh có cô con gái điên vì thất tình. Đêm tối cô cười, khóc, la hét nghe thật thương tâm. Phía trước mặt có một gia đình lao động nghèo, người miền Nam, mấy mẹ con sống trong căn nhà tôn chật hẹp. Bà mẹ mắc bệnh lao. Lính, công chức, dân lao động ra đường ngó nhau bằng con mắt bình đẳng và thân thiện. Hầu hết họ quen mặt nhau. Việt Cộng nằm vùng có muốn trà trộn cũng khó.

Ở đầu hẻm, sáng nào cũng thấy một nồi bắp luộc bốc khói. Hơi lửa, hơi bắp phả vào khí trời nghe rất quen thuộc với người dân trong hẻm. Một cô gái phụ mẹ luộc bắp bán cho khách qua đường để đổi lấy miếng cơm nuôi gia đình mỗi ngày.

Ban đêm vẫn có tiếng người quẩy đôi thùng nước từ cái máy công cộng vào trong hẻm. Sột soạt, óc ách, tiếng chân chạy uỳnh uỵch trên nền xi măng nghe rõ mồn một. Quá khuya thì mọi tiếng động tạm yên để rồi lại rộ lên vào khoảng ba, bốn giờ sáng. Đó là cuộc sống thầm lặng của con hẻm.

Quanh đi quẩn lại Ngọc đã sinh cho Bình ba cô con gái và một cậu con trai. Nhà ở thuê. Lương quân nhân thiếu hụt, chàng phải viết báo thêm cho nàng trang trải nhưng vẫn chưa đủ.

- Em đừng buồn nhé. Anh biết lương anh không đủ nuôi em và các con.

- Em đâu có buồn. Thấy đêm nào anh cũng thức khuya viết bài làm em lo cho anh. Muốn giục anh đi ngủ cho khỏe lại sợ anh viết chưa xong nên em cứ nằm đợi.

- Anh hiểu. Mấy năm trước kinh tế còn khá, dần dần khó khăn thêm vì tình trạng chiến tranh.

- Hay là em đi làm. Em có cô bạn ở ngân hàng muốn rủ em đi làm mà em chưa muốn nói với anh.

- Em đi làm thì có tiền thêm, nhưng lại phải thuê người trông trẻ, lo cơm nước. Chắc gì họ chu đáo bằng mình. Thời buổi này đâu có thể tin ở người làm. Rồi có lúc anh đi công tác bất thần, em lại phải ở nhà trông con. Đúng cái khó bó cái khôn.

-Vì thế em cứ đắn đo. Đành ở nhà làm nội tướng cho anh vậy.

- Phải thế, em ạ. Mỗi gia đình có một hoàn cảnh.

Chàng không biết nói gì hơn trước sự chịu đựng, hy sinh của vợ. Nàng đã dành cả tuổi thanh xuân cho công việc nội trợ và gia đình mà không đòi hỏi gì ở chồng, cũng không nghĩ đến những mơ ước riêng cho mình.

Cuộc sống cứ thế xoay vần trên đôi chân hai người. Đôi chân nàng mềm yếu và đôi chân chàng chai đá với đôi giầy trận nặng nề. Cả xã hội cùng chịu đựng những khó khăn, mất mát và đau thương kéo dài.

Buổi sáng ngày 27 tháng Hai, 1962, sau ly cà phê ấm bụng, Bìmh đi xe gắn máy đến sở làm. Chàng vẫn quen đi trên đường Hồng Thập Tự, qua dinh Độc Lập đến Nha Chiến tranh tâm lý làm việc.

Vừa tới sở, chàng bỗng nghe thấy tiếng nổ lớn phía dinh Độc Lập. Lúc ấy mới 8 giờ sáng. Mọi người đang tới sở làm. Chắc Tổng thống Diệm khởi sự làm việc. Hai chiếc máy bay khu trục Skyraider do phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc lái vừa ném bom xuống dinh Độc Lập, nơi làm việc và trú ngụ của Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông bà cố vấn Ngô Đình Nhu song không xẩy ra thương vong. Góc phải của Dinh bị trúng bom, hư hại nhẹ.

Viên phi công Nguyễn Văn Cử đã bay thoát qua Cam Bốt. Chiếc máy bay của phi công Phạm Phú Quốc bị Hải quân bắn hạ trên sông Nhà Bè. Sau vụ này, ông Diệm và gia đình ông Nhu đã dời về dinh Gia Long gần với dinh cũ. Việc sửa chữa, cải tiến dinh Độc lập theo mô hình mới giao cho Cục Công binh thực hiện, có thể kéo dài tới một hai năm.

Theo kết quả điều tra của Nha An ninh quân đội, Nguyễn Văn Cử có thân nhân là Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đây không phải là hành động đơn phương của hai phi công mà đằng sau họ có sự hậu thuẫn của đảng phái chống ông Diệm nhằm lật đổ ông.

Tuy nhiên không có tổ chức nào đứng ra nhận trách nhiệm về hành động mưu sát này và Bộ Tư lệnh Không quân đã phải lãnh trách nhiệm trước vị Tổng tư lệnh là Tổng thống Diệm. Trong buổi lễ của Không quân tại bến Bạch Đằng, Đại tá Nguyễn Xuân Vinh, tức nhà văn Toàn Phong đã phải tạ lỗi với Tổng thống Diệm về vụ này.

Ít lâu sau có sự thay đổi chức Tư lệnh Không quân. Phi công Phạm Phú Quốc bị Nha An ninh quân đội bắt giam, sau đó được ông Diệm khoan hồng [1]. Cách xử sự của ông Diệm chứng tỏ cái Đức của người lãnh đạo tối cao muốn thu phục nhân tâm để đối phó với nạn Cộng sản xâm lăng hơn là gây rạn nứt trong hàng ngũ quốc gia. Về tình hình Ấp chiến lược, cuối năm 1962 đã có 3.500 ấp được hoàn thành, 2000 ấp đang trên đà xây dựng. Ngân khoản lập ấp trích trong số viện trợ của Chính phủ Mỹ dành cho Chính phủ VNCH. Việc gom dân lập ấp vừa tạo an ninh cho dân, vừa là cơ hội để chính quyền địa phương cải thiện kinh tế và xã hội cho nông thôn.

Tuy nhiên, việc thực hiện ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và các vùng sâu có phần chậm chạp vì dân chúng ở lẻ tẻ, rải rác nhiều nơi. Họ đã bám rễ với thửa ruộng, mảnh vườn của mình, nay lại phải dời đến nơi đất mới để lập ấp với hai bàn tay trắng thì họ tỏ ra bất bình. Với họ, việc thích nghi với cuộc sống mới cần phải được giải thích và việc cải thiện kinh tế, xã hội cũng cần phải có thời gian. Trong khi đó Cộng sản tuyên truyền Ấp chiến lược là nơi giam hãm dân chúng nhằm mục đích làm cho dân bất mãn với chính quyền, song song với việc chúng đánh phá các thôn ấp hẻo lánh để giành quyền kiểm soát dân. Nhiều nơi, tổ chức của ấp còn lỏng lẻo, du kích Việt Cộng còn lén lút ra vào hoạt động phá hoại.

Thời gian 1961-62, nước Mỹ bớt chú tâm đến Việt Nam để chuyển hướng đối phó với Cuba ở sát nách Mỹ. Liên Xô muốn biến Cuba thành một tiền đồn Cộng sản ở Trung và Bắc Mỹ. Dưới thời Tổng thống Eisenhower, nước Mỹ đã cắt đứt các quan hệ ngoại giao với Cuba. Qua thời Tổng thống Kennedy, Castro vẫn là cái gai trước mắt mà ông muốn nhổ.

Kế hoạch của CIA là hỗ trợ 1400 lính biệt kích gồm những người Cuba tị nạn tại Mỹ đổ bộ lên Vịnh Con Heo (Bay of Pigs) để khơi mào cho dân chúng Cuba nổi dậy lật đổ chế độ độc tài Fidel Castro. Ngày 17 tháng Tư năm 1961, các toán biệt kích đổ bộ lên Vịnh Con Heo, bị quân đội của Castro chống cự và bao vây bắt gần hết đám trong 2 ngày; dân chúng Cuba cũng không thấy nổi dậy như dự tính.

Đến tháng Mười 1962, Mỹ lại phải đương đầu với cuộc khủng hoảng hỏa tiễn của Liên Xô ở Cu ba. Lúc đó, Khushchev, Chủ tịch Liên Xô và Castro thỏa thuận để Liên Xô đặt hỏa tiễn trên đất Cuba hòng bắt chẹt Mỹ không mở cuộc tấn công đổ bộ Cuba.

Ngày 22 tháng Mười, Tổng thống Kennedy tuyên bố trên đài truyền hình yêu cầu Liên Xô phải rút hết hỏa tiễn ra khỏi Cuba. Đồng thời ông Kennedy cho lệnh phong tỏa biển Caribbean (Caraïbes) bằng tầu chiến và máy bay B-52 mang bom nguyên tử. Quân đội Mỹ trên khắp thế giới cũng được lệnh báo động.

Trước áp lực của Mỹ, Khushchev đồng ý rút hỏa tiễn ra khỏi Cuba và yêu cầu Mỹ không được tấn công nước này. Ngoài ra, Khushchev đòi Mỹ rút các hỏa tiễn đặt ở Thổ Nhĩ Kỳ nhắm vào lãnh thổ Liên Xô. Mỹ chỉ chịu điều kiện thứ nhất và bác bỏ điều kiện thứ hai. Cuộc khủng hoảng hỏa tiễn ở Cuba đã được giải quyết êm thấm nhờ sự cương quyết của Tổng thống Kennedy trong việc đối đầu với Liên Xô.

Cuối năm 1962, sự căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô trong cuộc chiến tranh lạnh được hạ giảm nhờ những mâu thuẫn sâu sắc giữa Liên Xô và Trung Cộng trong vai trò giành quyền lãnh đạo khối Cộng sản Quốc tế. Liên Xô theo chủ nghĩa Xét lại [2], còn Trung Cộng cứ nhất mực theo chủ nghĩa giáo điều Mác Xít [3] Sự xích mích giữa hai cường quốc Cộng sản đã làm rạn nứt khối cộng sản và gây hoang mang cho các nước chư hầu. Cộng sản Bắc Việt đã phải đi dây giữa Trung Cộng và Liên Xô để khỏi làm mất lòng hai nước đàn anh đang viện trợ mạnh mẽ về kinh tế, quân sự cho Bắc Việt xâm lăng miền Nam Việt Nam.

Bước qua năm 1963, trận đánh cấp tiểu đoàn đầu tiên giữa Việt Cộng và Quân đội VNCH đã diễn ra tại Ấp Bắc, Định Tường ngày 2 tháng Giêng, 1963. Hai tiểu đoàn Việt Cộng 514 Mỹ Tho và 261 chủ lực Miền đã bố trí tại khu ruộng và kinh rạch có lùm cây để giao chiến với 1 trung đoàn thuộc Sư đoàn 7 Bộ binh, tiểu đoàn 8 Dù được trực thăng vận tới trận địa, tiểu đoàn Địa phương quân Tiểu khu Định Tường, đại đội thiết vận xa MI 13 thuộc SĐ 7 BB, pháo 105 ly tại Chi khu Cai Lậy và phi cơ khu trục yểm trợ.

Trận đánh kéo dài từ sáng đến chiều tối. Địch bị bao vây và bị tấn công từ trên đầu nên tổn thất rất nặng nề; số còn lại phải tháo chạy lúc chập tối. Bên ta có 80 chiến sĩ hy sinh, 5 trực thăng bị bắn hạ. Đây là trận đánh hiệp đồng binh chủng ở Ấp Bắc với chiến thuật trực thăng vận, tạo yếu tố bất ngờ khiến địch hoảng sợ và bị động.

Ông Diệm muốn phô trương chiến thắng Ấp Bắc cho dân chúng và quốc tế biết, nên Nha Chiến tranh tâm lý đã tổ chức một cuộc triển lãm tại Tòa Đô chính Saigon, có sa bàn trận đánh, các hình ảnh giao tranh và một số vũ khí tịch thu của Việt Cộng tại Ấp Bắc. Trước công viên Tòa Đô chính là khu trưng bầy các vũ khí của quân đội VNCH đã sử dụng trong trận đánh Ấp Bắc gồm pháo 105 ly, thiết vận xa M. 113, phi cơ khu trục Skyraider.

Triển lãm thu hút giới thanh niên tới coi các hình ảnh hào hùng của quân đội VNCH, từ đó họ cảm thấy hăng say nhập ngũ để bảo vệ nền độc lập và tự do của nước VNCH non trẻ. Đây cũng là dịp để quốc tế thấy rõ tinh thần và khả năng chiến đấu cao của quân đội VNCH trước các đơn vị chủ lực Việt Cộng.

Lần đầu tiên chiến thuật trực thăng vận đã tỏ ra hữu hiệu trên chiến trường du kích vì tính cơ động nhanh và tấn công chớp nhoáng. Các trực thăng chở những toán quân nhỏ bay là là trên ngọn cây làm Việt Cộng ẩn núp trong hầm hố lo sợ. Khi bị phát hiện, địch khó có đường thoát thân và trở thành mục tiêu bị bao vây, tiêu diệt.

Lúc này ở bên Pháp, Tổng thống Charles De Gaulle vận động lá bài trung lập hóa miền Nam Việt Nam; các lực lượng Mỹ sẽ rút đi và hai bên Nam, Bắc Việt Nam trao đổi văn hóa với nhau. Đề nghị của De Gaulle không được các giới liên hệ quan tâm, nhất là Mỹ. Ngoài ra có tin ông Cố vấn Ngô đình Nhu tìm cách thương lượng với Bắc Việt để giải quyết cuộc chiến ở miền Nam. Đây có thể là đòn chính trị của ông Nhu để người Mỹ khỏi ép buộc ông Diệm vào cái thế lệ thuộc Mỹ hoàn toàn cả về mặt quân sự lẫn chính trị.[4]

Về mặt tôn giáo, Tổng thống Diệm phải đương đầu với vụ Phật giáo bùng nổ giữa năm 1963, phát xuất từ vụ treo cờ Phật giáo. Theo thông tư của Phủ Tổng thống chỉ thị cho các Tỉnh, Thị, thì việc treo quốc kỳ và cờ các tôn giáo trong các ngày lễ đạo được quy định thống nhất và thi hành trên toàn quốc. Quốc kỳ được treo trước cổng các cơ sở tôn giáo, ngay chính giữa cổng theo kích thước đã định; cờ các tôn giáo hoặc đoàn thể treo thấp hớn. Bên trong các cơ sở tôn giáo, cờ tôn giáo và đoàn thể được treo tự do.

Nhưng sự việc xẩy ra ở Huế đã không đúng với thông tư về việc treo cờ của Phủ Tổng thống. Đầu tháng Năm, 1963 có lễ Ngân Khánh 25 năm thụ phong Giám mục của Đức Tổng giám mục Ngô Đình Thục, bào huynh của Tổng thống Ngô Đình Diệm, giáo dân đã treo cờ Vatican la liệt ở Huế, song chính quyền thành phố đã không can thiệp có thể vì nể nang uy tín của Đức Tổng giám mục Thục đang coi địa phận Huế”.[5]

Đến ngày 8 tháng Năm có lễ Phật Đản ở Huế, Phật tử treo cờ Phật giáo khắp nơi thì tòa Tỉnh trưởng Thừa Thiên lại nhắc nhở thông tư về việc treo cờ các tôn giáo trong các ngày lễ đạo. Việc này khiến các Phật tử phẩn nộ, cho là chính phủ không công bằng trong việc treo cờ. Đã có những dư luận khiến bên Phật giáo quy kết chính phủ có vấn đề kỳ thị Phật giáo và ưu đãi Công giáo.

Trên thực tế, chưa có vấn đề gì cụ thể để chứng minh chính phủ có thái độ hay chính sách thiên vị tôn giáo, dù bản thân ông Diệm là người công giáo và Đức Tổng giám mục Ngô Đình Thục có uy tín từ khi ngài còn ở địa phận Vĩnh Long.

Trong buổi lễ mừng Phật Đản tại chùa Từ Đàm, Thượng tọa Thích Trí Quang tuyên bố chính phủ thiên vị trong vấn đề tôn giáo và đưa ra vài yêu sách; cụ thể là được tự do treo cờ Phật giáo và bình đẳng giữa Phật giáo và Công giáo. Buổi tối, Phật tử biểu tình trước đài phát thanh Huế vì đài đã không tường thuật buổi lễ và bản yêu sách của Thượng tọa Thích Trí Quang ở chùa Từ Đàm.

Theo lệnh của ông Nguyễn Văn Đẳng, Tỉnh trưởng Thừa Thiên, Thiếu tá Đặng Sĩ, Phó tỉnh trưởng Nội An đã cho binh sĩ đến giải tán cuộc biểu tình. Một tiếng nổ lớn bất thần làm 8 người lớn và trẻ em chết. Thiếu tá Đặng Sĩ sau đó bị biệt giam tại Nha An ninh quân đội. Tại đây ông nói: “Binh sĩ không bắn." [6] Riêng tiếng nổ làm chết người, dư luận cho là có bàn tay CIA nhúng vào để làm ông Diệm mất uy tín, vì chất nổ không phải của quân đội VNCH. [7]

Sau đó phong trào Phật giáo đấu tranh lan nhanh vào Saigon.

Buổi sáng ngày 11 tháng Sáu, 1963, Ngọc vừa đưa con đến xin học tại trường Aurore, đường Phan Đình Phùng, lúc quay về trước tòa Đại sứ Cam Bốt thấy đám đông Phật tử, Tăng, Ni vây quanh Thượng tọa Thích Quảng Đức đang ngồi tự thiêu trên mặt đường nhựa. Ngọn lửa bốc cháy một lát thì người gục xuống, riêng trái tim của Thượng tọa vẫn còn y nguyên mới nhiệm mầu!

Nhân vụ này, tuần báo TIME đã chạy hàng tít:

“Thượng tọa Thích Trí Quang, người làm rung chuyển chế độ Ngô Đình Diệm!

Vụ Phật giáo bị xé to nằm trong ý đồ của Mỹ muốn hạ ông Diệm.

Ít ngày sau, nữ sinh Quách Thị Trang dẫn đầu đoàn biểu tình trước chợ Saigon đã bị Cảnh sát bắn chết. Saigon u ám hình ảnh tự thiêu, biểu tình của Phật giáo, Cộng sản đã nhúng tay vào vụ này.

Ngày 7 tháng Bảy 1963, nhà văn Nhất Linh, Nguyễn Tường Tam đã tự tử tại nhà riêng trước ngày có phiên tòa xử ông và các nhân vật hỗ trợ cuộc đảo chính hụt ông Diệm ngày 11 tháng Mười Một 1960. Ông có viết trong di chúc: “Đời tôi để lịch sử xử”. Đó chính là tiết tháo của ông. Các ông Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng và cụ Nguyễn Hải Thần thuộc Việt Cách đã từng tham gia chính phủ Hồ Chí Minh tháng Một, 1946. Sau khi ký Tạm ước ngày 6 tháng Ba 1946 cho phép Pháp trở lại Bắc Việt để hòa hoãn với Pháp, ông Hồ quay ra đàn áp các phần tử quốc gia để củng cố chính quyền cộng sản; bởi thế các ông Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh và cụ Nguyễn Hải Thần đã phải qua Trung Hoa lánh nạn.

Nhà văn Nhất Linh, người đứng đầu Tự Lực Văn Đoàn đã nổi tiếng từ những năm 1930 với trường phái lãng mạn xã hội. Trong cuốn tiểu thuyết luận đề Đoạn Tuyệt, ông đã mạnh mẽ đả phá cái phong hóa cổ từng đè nén người phụ nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội.

Mâu thuẫn đã xẩy ra giữa Loan, vợ của Thân, và mẹ chồng. Hai người này đứng về phe bảo thủ ức hiếp Loan đủ điều. Trong lúc Thân nghe mẹ đánh Loan, chàng ngã chúi vào con dao rọc sách nàng cầm trong tay, gây ra cái chết bất ngờ cho chàng. Ra tòa, Loan đã thắng. Tiếng nói đòi bình đẳng và giải phóng vai trò người phụ nữ bị áp chế đã thắng. Nhà văn Nhất Linh đã nêu cao tư tưởng cách mạng văn hóa vào lúc cái cũ, cái mới xung đột nhau ở đầu thế kỷ thứ 20.

Sau đám tang ông Nhất Linh, tình thế ở Saigon vẫn sôi động các cuộc biểu tình của Phật giáo.

Đêm 20 tháng 8, 1963, cảnh sát và Lực lượng đặc biệt trên toàn quốc được lệnh khám xét các chùa, bắt đi một số tu sĩ bị nghi là có liên hệ với Cộng sản[9].

Vụ này Mỹ cho là ông Nhu chỉ đạo. Trong bức điện tín gửi Bộ trưởng ngoại giao Dean Rusk ngày 29 tháng 8, 1963, Đại sứ Cabot Lodge viết:

“We are launched on a course from which there is no respectable turning back: the overthrow of the Diem government” (Chúng tôi khởi sự tiến hành công việc không thể lui bước được: lật đổ chính phủ ông Diệm.)

Sau đó trong bức điện gửi ông Lodge ngày 17 tháng 9, 1963, toà Bạch Ốc muốn ông Diệm cải tổ nội các, đưa ông Nhu ra khỏi Saigon, song ông Diệm vẫn giữ lập trường cố hữu bởi ông Nhu là cố vấn ruột thịt của ông. [10]. Rõ rệt Mỹ đã trù tính thay thế ông Diệm giữa dòng, như Mỹ đã làm với ông Jacobo Arbenz Guzman, Tổng thống Guatemala ở Trung Mỹ năm 1954 [11]”

Cũng bởi bất đồng với ông Diệm, Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu đã xin từ chức và gọt đầu như sư. Ông bà Trần Văn Chương cũng từ bỏ các chức vụ ngoại giao ở Hoa Thịnh Đốn và Liên Hiệp Quốc.

Tháng 10, 1963, ông Diệm đã cử bà Ngô Đình Nhu qua Mỹ giải độc vụ Phật giáo song không gây được thiện cảm với công luận Mỹ”.[12]

Vào thời điểm này, có một vài tướng lãnh nổi bật với vai trò trọng yếu trong các biến cố đã và đang xẩy ra. Người được hai ông Diệm và Nhu tin cẩn trong lúc này là Thiếu tướng Trần Thiện Khiêm. Tham mưu trưởng Liên quân. Quyền Tổng Tham mưu trưởng là Trung tướng Trần Văn Đôn. Tướng Khiêm xuất thân thiếu úy năm 1946 tại Đập Đá, Huế; sau đó ông về phục vụ Vệ binh Nam phần năm 1948. Ông được thăng cấp dần qua các chức vụ đảm nhận. Ngày 11 tháng 11, 1960, Đại tá Trần Thiện Khiêm đưa Sư đoàn 21 Bộ binh từ miền Tây về cứu Tổng thống Diệm trong vụ đảo chính của Đại tá Nguyễn Chánh Thi. Năm 1962, Đại tá Khiêm được ông Diệm thăng cấp thiếu tướng và cử giữ chức Tham mưu trưởng Liên quân. Từ đó ông có thế và được lòng tin của hai ông Diệm, Nhu. Ông có chân trong Cần Lao và Đại Việt.

Nắm được cơ hội thuận tiện, Tướng Khiêm đã đề bạt Thiếu tướng Nguyễn Khánh làm Tư lệnh Quân đoàn 2, Đại tá Nguyễn Văn Thiệu làm Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh trực thuộc Quân đoàn 3 đóng gần Saigon. Những chức vụ quan trọng kể trên nằm trong phe cánh của ông Khiêm để củng cố địa vị của ông và sẽ hữu dụng khi có đại sự.

Trung tướng Dương văn Minh, xuất thân thiếu úy quân đội Pháp năm 1946, trường Hạ sĩ quan Thủ Dầu Một, Bình Dương. Ông có công dẹp loạn Bình Xuyên ngày 28 tháng Tư, 1955 và có liên can đến việc tịch thu kho tàng của Bẩy Viễn tại Rừng Sát. Ông được Tổng thống Diệm thăng chức thiếu tướng ngày 23 tháng Mười, 1955 và lên trung tướng ngày 1 tháng Hai, 1957. Năm 1963, ông làm Cố vấn quân sự Phủ Tổng thống.

Thiếu tướng Tôn Thất Đính, xuất thân thiếu úy Phú Bài, Huế năm 1949, được coi là con cháu ông Diệm và được cử làm Tư lệnh Quân đoàn 3 và Vùng 3 Chiến thuật, gồm cả Biệt khu Thủ đô.

Ngoài ra Đại tá Đỗ Mậu được ông Diệm cử giữ chức giám đốc Nha An ninh quân đội đã lâu mà chưa được lên tướng, do đó ông có vẻ bất mãn, mặc dù ông nhận mình là con cháu ông Diệm.

Tướng Đính và Đại tá Mậu thuộc nhóm Quân ủy Cần Lao được thành lập từ năm 1955 gồm một số sĩ quan gốc miền Trung, trong đó có Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lệnh Quân khu 1, Đại úy Lê Quang Tung, Đại úy Nguyễn Văn Châu. Năm 1963, ông Tung lên Đại tá làmTư lệnh Lực lượng Đặc biệt, ông Châu lên Trung tá làm Giám đốc Nha Chiến tranh tâm lý một thời gian trước khi đi làm tùy viên quân sự cho tòa Đại sứ VNCH tại Hoa Thịnh Đốn.

Tổ chức Quân ủy Cần Lao trong quân đội nhắm kết nạp các cấp chỉ huy và quân nhân chính là để tạo sự trung thành của họ đối với chế độ của Tổng thống Diệm. Quân ủy Cần Lao không có hệ thống quy mô, không chi phối toàn thể quân đội. Khác với hệ thống Quân ủy trong quân đội Cộng sản miền Bắc đóng vai trò Chính ủy nhắm thi hành và kiểm soát các mệnh lệnh khắt khe của Đảng từ trên xuống. Từ năm 1957, mặc dầu ông Diệm đã có chỉ thị cấm hoạt động chính trị trong quân đội; Quân ủy Cần Lao vẫn hoạt động ngầm.

Vấn đề đảng phái trong quân đội rất phức tạp vì ngoài Đảng Cần Lao còn có Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng ngầm thâm nhập các tướng lãnh và sĩ quan. Sự trung thành với ông Diệm là dấu hỏi trong số các tướng lãnh được ông tín nhiệm mặc dầu họ là Cần Lao và tự nhận là con cháu ông Diệm để cầu lợi và tiến thân.

Nhất là khi người Mỹ mua chuộc họ để khuynh đảo chính quyền, khó có thể tin họ sẽ sống chết vì ông Diệm. Trường hợp Đại tá Đỗ Mậu suýt bị ông Nhu bắt giam vì âm mưu chống ông Diệm, đã được ông Diệm thương tình bỏ qua là một sự kiện đáng quan tâm [13]

Quân đội VNCH lúc này đã lớn mạnh vào bậc nhất ở Đông Nam Á. Lục quân có 4 Quân đoàn và 4 Vùng chiến thuật, 8 Sư đoàn Bộ binh, 1 Lữ đoàn Nhảy Dù, 1 Lữ đoàn Thủy quân lục chiến, Các tiểu đoàn Biệt động quân, các đơn vị Lực lượng đặc biệt, Pháo binh đơn vị và Pháo binh diện địa, Thiết giáp, Công binh, Địa phương quân và Nghĩa quân, Nhân dân tự vệ các xã, ấp.

Không quân có 7 Phi đoàn, Hải quân có 5 Hải đoàn và 1 Hải lực. Với đà tăng trưởng tiếp tục không ngừng trong các Quân, Binh chủng theo mục tiêu hiện đại và tiên tiến, Quân đội VNCH xứng đáng được toàn dân tin tưởng trong sứ mạng bảo vệ đất nước.

Chú thích:

[1] Ông Diệm đã từng khoan hồng cho Hà Minh Trí, người đã ám sát hụt ông tại Ban Mê Thuột.

[2] Chủ nghĩa Xét lại = Trong lịch sử từ Chủ nghĩa phán xét lại được dùng trong từ điển Cộng sản để mô tả những chống đối các dự định sửa đổi, hay từ bỏ những lý thuyết cách mạng cơ bản.

[3] chủ nghĩa giáo điều Mác Xít= Chủ nghĩa Marx hay Mác-xít (phiên âm từ Marxist) là hệ thống học thuyết triết học, lịch sử và kinh tế chính trị dựa trên các tác phẩm của Karl Marx (1818–1883)

[4] Theo bài phỏng vấn của ông Minh Võ với ông Cao Xuân Vỹ đăng trên báo Thời Luận ra ngày 29/9/2007 tại Los Angeles; ông Vỹ có theo ông Nhu ra quận Tánh Linh (Long Khánh) đi săn, ở đây ông Nhu gặp kín Phạm Hùng (thuộc Trung ương Cục Miền Nam, tác giả ghi) hơn tiếng đồng hồ. Nội dung cuộc nói chuyện không được tiết lộ.

[5] Đức Tổng giám mục Ngô Đinh Thục về phụ trách địa phận Huế năm 1961.

[6] Theo truyện Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Dinh Diệm của cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, tr.I82

[7] Theo cuốn Ngô Dinh Diệm, Nỗ Lực Hòa Bình Dang Dở, cựu Trung tá Nguyễn Vân Châu ghi: Đại úy James Scott, liên hệ với CIA, cố vấn Tiểu đoàn 1/3, Sư đoàn 1 thú nhận về việc này. tr. 189-190

Sau ngày 30/1/64, Tướng Nguyễn Khánh đưa Thiếu tá Đặng Sĩ ra tòa Mặt trận xử chung thân để lấy lòng Thượng tọa Thích Trí Quang (Viet Nam, our Nightmare, Marguerite Higgins, ch. Vi)

[8] Trong cuộc phỏng vấn của luật sư Lâm Lễ Trinh với ông Dương Văn Hiếu trên báo Thời Luận ngày 6/10/2007, Ông Hiếu nói Thượng tọa Thích Trí Quang làm việc cho Cộng sản. Ông Hiếu nguyên là trưởng đoàn Công tác đặc biệt miền Trung chuyên lo phản gián Cộng sản thời ông Diệm.

[9] Thượng tọa Thích Trí Quang đã trốn vào tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn sau đêm 20/8/1963. (Tài liệu tổng hợp)

[10] Vietnam and America, Grove Press,New York 1995 p 227-30

[11] Vì ông ta đã quốc hữu hóa Công ty Mỹ United Fruit.

[12] Bà Nhu ví nhà sư tự thiêu như “ heo quay'’ ( Vietnam and America, Grove Press, New York, 1995, p. 219: Mme Nhu publicly ridiculed the Buddhist suicide as “barbecue”). Sau vụ đảo chính 1/11 /63 bà Nhu từ Mỹ qua Rome rồi qua Pháp cư trú.

[13] Theo truyện Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tống Thống Ngô Đình Diệm của cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, tr.97