← Quay lại trang sách

Chương Tám Thảm sát và rối loạn

Sẵn có một chuyến bay quân sự về Saigon, Bình đi theo về nghỉ phép. Hai năm ở tỉnh nhỏ Phước Thành, chàng mới đi phép hai lần, dù chỉ cách Saigon hơn 80 cây số. Đường bộ từ tỉnh về Saigon thiếu an ninh, Việt Cộng trong Chiến khu Đ thường bung ra hoạt động để bảo vệ hành lang xâm nhập của quân Bắc Việt. Mỗi lần có đoàn xe quân đội di chuyển phải có đơn vị đi mở đường từ sáng sớm để tránh bị phục kích. Nhưng từ khi có Bộ chỉ huy Biệt khu phụ trách an ninh cho ba tiểu khu vùng đất đỏ: Phước Thành, Phước Long, Bình Long, thì hai tỉnh Phước Long, Phước Thành tuy mới thành lập được vài năm đã đông vui hơn trước. Vùng này có các đồn điền cao su lớn, ít ruộng, rừng rậm, đất hoang thì nhiều.

Thấy chàng về, Ngọc mừng rỡ hỏi:

- Chừng nào anh về hẳn?

- Anh chờ người lên thay. Giấy tờ có rồi mà chưa thấy người đâu cả.

- Chắc họ ngại lên chỗ đó.

- Hồi trước anh đâu có ngại. Lệnh bảo đi là đi. Thế mà cứ vào hang cọp lại bắt được cọp. Bây giờ Phước Thành đã thay da đổi thịt. Quân tới đâu, dân theo đến đấy.

Công việc ở bộ chỉ huy nhỏ khá bận rộn. Bận nhất là tình báo và tác chiến. Thứ đến ấp chiến lược và tâm lý chiến yểm trợ cho ba Tiểu khu. Bình coi phòng 5, phụ trách thêm một trung tâm huấn luyện tâm lý chiến dành cho các đoàn thanh niên nam nữ tuyên vận từ các tỉnh miền Tây gửi lên thụ huấn. Đây là chương trình yểm trợ đặc biệt của Mỹ dành cho chương trình Bình định tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Từ y phục đen kiểu nông dân đến vũ khí cá nhân đều do Mỹ trang bị, nhưng công tác chính của đoàn là tuyên truyền dân vận và địch vận ở nông thôn. Biệt khu còn có đoàn văn nghệ và các toán chiêu hồi, dân vận đi công tác lưu động các Tiểu khu. Cứ xoay vòng như vậy mà mau hết thì giờ.

Có các hoạt động tâm lý chiến, tinh thần binh sĩ ở nơi tiếp cận với địch thêm phấn chấn. Trận đánh của Tiểu đoàn 37 Biệt động quân tại xóm Sình với lực lượng Cộng quân đông hơn đã cho thấy tinh thần binh sĩ vượt trội. Địch vây hãm đồn Địa phương quân ở xóm Sình từ tối rồi phục kích chờ ta vào. Mờ sáng, Tiểu đoàn 37 Biệt động từ

Bình Cơ bất thần đánh bọc hậu địch, không cần gọi pháo binh Tiểu khu và Trung đoàn 48 có mặt trong vùng yểm trợ. Trận đánh kéo dài chừng vài chục phút, địch vội rút vào rừng với một số thương vong. Bên ta cũng có tổn thất nhân mạng.

Sau trận thư hùng, tình hình trong vùng tạm lắng dịu, chỉ còn những hoạt động du kích lẻ tẻ của địch. Vùng Chiến khu D sẽ còn những trận thử lửa mới vì Cộng quân từ miền Bắc vào theo ngả Trường Sơn rồi đi qua hành lang này tỏa ra các mật khu ngày càng đông. Địch thường di chuyển vào ban đêm để tránh B.52. Vì thế pháo 105 ly của Tiểu khu cứ phải rót đạn cầm canh cả đêm vào các tọa độ có dâu hiệu địch di chuyển. Máy bay Hỏa long thả trái sáng ban đêm và máy bay chụp không ảnh luôn bay quan sát để dò tìm các vị trí của Cộng quân trong vùng.

Rời nơi đất lửa về thăm nhà, chàng yên lòng thấy Ngọc vẫn chăm sóc con cái đầy đủ, các đứa trẻ vẫn ngoan ngoãn tới trường dù chỉ có mình nàng xoay xở mọi bề. Tính nghỉ phép ba ngày với vợ con nhưng được hai ngày chàng lại xách ba lô lên Phước Thành. Ngọc vờ vẫn hỏi:

- Sao anh vội lên thế? Có cô nào đợi phải không? Nghe nói chỗ anh ở có nhiều cô ca sĩ lắm mà.

- Em lại nghi anh rồi. Anh lên vì công việc bề bộn. Các cô ấy đi hát cho lính nghe, nay đơn vị này, mai đơn vị khác, chẳng hề gặp anh bao giờ.

- Em đoán vậy thôi. Anh ở thêm một ngày có sao đâu.

- Thôi anh phải đi. Hai ngày phép là đủ.

Sau khi chàng đi khỏi, Saigon có tin đảo chính lật đổ ông Diệm.Tình hình biến chuyển thật mau lẹ vì đó là một kế hoạch do Mỹ chủ động.

Trước khi cuộc đảo chính xẩy ra ngày 1 tháng Mười Một, 1963, CIA đã bí mật họp các tướng lãnh tham gia đảo chính tại phòng một nha sĩ [1].

Điều này chứng tỏ CIA đạo diễn cuộc đảo chính và đương nhiên có sự chỉ đạo của Nhà Trắng.

Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng là Trung tướng Dương Văn Minh. Các thành viên gồm: Trung tướng Trần Văn Đôn, quyền Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH, Thiếu tướng Trần Thiện Khiêm, Tham mưu trưởng, Thiếu tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh Quân đoàn 3 kiêm Vùng 3 chiến thuật, Trung tướng Lê Văn Kim, Thiếu tướng Mai Hữu Xuân, Đại tá Đỗ Mậu, Giám đốc Nha An ninh quân đội, Đại tá Nguyễn Văn Thiệu, Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh.

Vai trò then chốt của cuộc đảo chính là Thiếu tướng Trần Thiện Khiêm. Với chức vụ Tham mưu trưởng Liên quân, ông điều động các đơn vị đảo chính và ngăn chặn các đơn vị có thể tới cứu ông Diệm. Các tư lệnh trung thành với ông Diệm: Đại tá Hồ Tấn Quyền, Tư lệnh Hải quân, Đại tá Lê Quang Tung, Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt và em là Trung tá Lê Quang Triệu đã bị phe đảo chính hạ sát. Đại tá Huỳnh Hữu Hiền, Tư lệnh Không quân bị bắt giữ. Đại tá Cao Văn Viên, Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy Dù, Trung tá Khôi, Tư lệnh Lữ đoàn Phòng vệ Phủ Tổng thống được mời lên Bộ Tổng tham mưu họp rồi bị giam giữ.

Nghe tin đảo chính, ông Diệm gọi điện thoại cho Tướng Khiêm chiều ngày 1, mời các tướng lãnh vào dinh Gia Long họp với ông, song các Tướng Đôn, Minh không trả lời. Ông gọi Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh Quân đoàn 4 nhưng Tướng Cao lúc ấy hành quân ở Cà Mâu, đường dây không liên lạc được. Lúc 4 giờ 30 chiều mùng 1, ông điện đàm với Đại sứ Lodge hỏi thái độ của Mỹ về cuộc đảo chính, ông Lodge trả lời: Không biết[2].

Ông Lodge còn nói: “Người trong cuộc đề nghị đưa hai anh em ông ra khỏi nước nếu ông chịu từ chức”, ông Diệm không trả lời “Thể diện quốc gia không cho phép ông bỏ nước ra đi vào lúc quốc biến!”

Đúng 1 giờ 30 trưa, Conein vào Bộ Tổng tham mưu, mang theo máy truyền tin đặc biệt để liên lạc với tòa Đại sứ Mỹ và một bao tiền là 3 triệu bạc Việt Nam [3]. Số tiền sau đó được chia cho các tướng: Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Nguyễn Hữu Có, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Khánh, Trần Ngọc Tám và Lê Nguyên Khang [4]. Trước đó, đài Phát thanh đã bị Thiết giáp chiếm mà một đại đội của Lữ đoàn Phòng vệ Phủ Tổng thống tái chiếm không được. Có 2 đại đội Thủy quân lục chiến từ Tây Ninh về vây sau thành Cộng Hòa, nơi Lữ đoàn Phòng vệ đóng quân. Thiếu tá Nguyễn Hữu Duệ, Tham mưu trưởng Lữ đoàn cử một đại đội bộ binh có thiết giáp tháp tùng ra vây đám binh sĩ TQLC. Sĩ quan chỉ huy đơn vị này cho biết họ đang hành quân ở Tây Ninh thì được lệnh về Saigon để bảo vệ Tổng thống vì lính của Lữ đoàn Phòng vệ làm phản [3].

Sau khi biết mình bị cấp chỉ huy lừa, họ theo lệnh Thiếu tá Duệ, rút quân ra đóng tại sân vận động Hoa Lư. Sự việc được Tham mưu trưởng Lữ đoàn báo cáo với ông Diệm và ông ra lệnh “Cố tránh đổ máu.” [4]

Lữ đoàn Phòng vệ đã dự tính tới bao vây Bộ Tổng Tham mưu để bắt các tướng lãnh đảo chính song ông Diệm không đồng ý.[5]

Trong thâm tâm, ông không muốn quân đội phải đổ máu vì ông; đó chính là cái Đức cao cả, là chữ Tín và chữ Dũng của một bậc đứng đầu quốc gia trong lúc nguy kịch. Ngay cả trong cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11, 1960 của Đại tá Nguyễn Chánh Thi, ông Diệm đã tránh gây đổ máu cho quân đội bằng sự dàn xếp ổn thỏa, khoan hồng cho những sĩ quan chủ mưu hại mình.

Lúc 1 giờ, Sư đoàn 5 Bộ binh pháo kích vào thành Cộng Hòa gây vài thương vong cho binh sĩ Lữ đoàn. Khi binh sĩ Sư đoàn 5 tới bao vây Dinh Gia Long, gọi loa phóng thanh kêu hai ông Diệm, Nhu ra hàng, nhưng hai ông đã rời khỏi dinh Gia Long vào lúc tối và được ông Cao Xuân Vỹ chở bằng xe hơi vào Chợ Lớn trú ẩn tại nhà thờ Cha Tam. Do đó đã không xẩy ra cuộc chạm súng giữa quân của Sư đoàn 5 Bộ binh và quân của Lữ đoàn Phòng vệ Phủ Tổng thống.

Sáng ngày 2 tháng Mười Một, ông Diệm cho Đại úy Đỗ Thọ, sĩ quan tùy viên báo cho các tướng đảo chính ông ở nhà thờ Cha Tam, muốn gặp các tướng lãnh để trao quyền lãnh đạo quốc gia cho họ. Các tướng đảo chính liền cử một đoàn xe thiết vận xa M. 113 do Thiếu tướng Mai Hữu Xuân dẫn đầu vào nhà thờ Cha Tam trong Chợ Lớn đón hai ông Diệm, Nhu về Bộ Tổng Tham Mưu. Tháp tùng đoàn xe có Đại tá Dương Ngọc Lắm, Đại tá Nguyễn Văn Quan, Thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa, Thiếu tá Phan Hòa Hiệp và Đại úy Nguyễn Ngọc Nhung, sĩ quan cận vệ của Trung tướng Dương Văn Minh.

Thoạt thấy xe M. 113 đến đón mà không phải là xe dân sự, hai ông đã ngần ngừ nhưng rồi phải lên chiếc xe thiết vận ngồi chung với Đại úy Nhung. Khi đoàn xe về tới nửa đường, Đại úy Nhung đã hạ sát hai ông bằng súng lục và dao găm. Lệnh từ đâu mà Đại úy Nhung lại ra tay thảm sát hai ông Diệm, Nhu? Ai cũng hiểu đó là mật lệnh của Trung tướng Dương Văn Minh.

Khi đoàn xe về tới Bộ Tổng tham mưu, Thiếu tướng Mai Hữu Xuân đã báo cáo ngay với Trung tướng Dương Văn Minh vắn tắt bằng tiếng Pháp: “Mission accomplet” “Sứ mạng đã hoàn thành!” Ngoài ra Thiếu tá Nghĩa có nhúng tay vào vụ thảm sát hai ông không? Theo Thiếu tá Vũ Quang (sau lên đại tá, hiện ở Hoa Kỳ) kể lại với Thiếu tá Nguyễn Hữu Duệ thì: “Mắt anh thấy Thiếu tá Nghĩa vừa đi vừa lau bàn tay đẫm máu vào báo cáo với Trung tướng Minh [6]

Xác hai ông được mai táng tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Saigon. Thế là kết thúc cuộc đời và sự nghiệp chính trị của Tổng thống Ngô Đình Diệm ở tuổi 62 (ông Diệm sinh năm 1901 tại Quảng Bình) và bào đệ Ngô Đình Nhu ở tuổi 53 (ông Nhu sinh năm 1910)

Với số tiền 3 triệu bạc của Conein mà đem chia cho 8 tướng lãnh trực tiếp hay gián tiếp nhúng tay vào cuộc đảo chính ông Diệm thì quá rẻ, lại thêm tai tiếng. Sau đó Hội đồng Quân nhân Cách mạng cử Trung tướng Trần Văn Minh đến Dòng Chúa Cứu Thế gặp Cha Toán để thu lại số tiền lương và phụ cấp của ông Diệm để dành là 2.800.000 đồng mà ông Võ Văn Hải, Chánh văn phòng đã gửi Cha Toán giữ hộ cho tới khi ông Diệm về hưu [7].

Chỉ huy trưởng Biệt khu Phước Bình Thành là Trung tá Đỗ Văn Diễn, con nuôi ông Diệm, về Saigon áp ngày đảo chính để đeo lon đại tá song không kịp, phải trở lên Phước Thành; ít lâu sau ông mất chức. Bình thấy ông buồn rầu và lo nghĩ.

Nhân dân miền Nam thương tiếc ông Diệm vì xuyên suốt cuộc đời ông là sự hy sinh cao cả, là tấm gương thanh liêm, chính trực. Ông sống giản dị, mực thước, siêng năng xem lễ và thân dân.

Nhiều người còn nhớ sau khi dẹp tan các nhóm võ trang giáo phái, đem lại bộ mặt bình yên cho miền Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã được Hoa Kỳ đón tiếp trọng thị trong cuộc viếng thăm ngày 7 tháng Bảy 1957. Tổng thống Eisenhower đã đích thân ra tận máy bay chào đón ông. Đó là một vinh dự lớn cho ông vì trong bốn năm cầm quyền, Tổng thống Eisenhower chỉ đón tiếp thêm Vua Saud của Saudi Arabia. Lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ cũng đã dành cho ông Diệm sự trang trọng khi lắng nghe bài phát biểu quan trọng của ông về tình hình Việt Nam. Ông đã được Đức Hồng Y Spellman đón tiếp tại New York và thị trưởng Wagner đã ca ngợi ông là “một nhân vật lịch sử, một trong những nhân vật lớn của thế kỷ thứ 20”. Ông cũng biểu dương chính phủ của ông Diệm như một sự kỳ diệu về chính trị (a political miracle) [8]

Nhân dân Mỹ vui mừng chào đón ông Diệm trên các đại lộ ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn và New York, vì họ thấy miền Nam Việt Nam đã vươn dậy từ chiến tranh và tuyệt vọng để trở thành đồng minh của Hoa Kỳ. Có những người chưa biết Việt Nam trên bản đồ thế giới thì nay họ chú ý đến Việt Nam, một tiền đồn của Thế giới Tự do tại Đông Nam Châu Á.

Trên cương vị đồng minh, ông Diệm cũng chỉ muốn Mỹ viện trợ về quân sự và kinh tế để Việt Nam Cộng Hoà đủ sức tự cường trước cuộc xâm lăng của Cộng sản Bắc Việt, chứ không muốn Hoa Kỳ đưa quân qua miền Nam Việt Nam và can thiệp các vấn đề nội bộ. Đó là điểm mâu thuẫn giữa Hoa Kỳ và ông Diệm, đưa đến sự đổ vở không tránh khỏi.

Các tướng lật đổ ông Diệm vì quyền lợi cá nhân lại đưa đất nước vào tình thế rối loạn, vì thật sự họ không đủ bản lĩnh và uy tín để lèo lái con thuyền quốc gia vượt cơn nguy khốn. Họ thiếu cả nhãn quan chiến lược để dự đoán khi đồng minh bỏ rơi thì vận mệnh của đất nước sẽ ra sao?

Theo lời tường thuật của Tướng Maxvvell D. Taylor, khi được tin hai ông Diệm, Nhu bị thảm sát, Tổng thống Kennedy “đã đứng bật dậy, bước tới trong phòng với cái nhìn xúc động và kinh hoàng hiện trên mặt mà tôi chưa từng thấy bao giờ [9]

Tổng thống Ngô Đình Diệm là người đã được các chính phủ và nhân dân Mỹ kính trọng, nhưng ông đã không ngờ phải lãnh cái chết tức tưởi vì không tuân phục Mỹ; cảnh ngộ thật oái oăm. Không riêng ông Kennedy kinh hoàng, cả Mao Trạch Đông cũng bàng hoàng về cái chết của ông Diệm. Hồ Chí Minh dù là đối thủ cũng phải kính nể ông Diệm vì uy tín lãnh đạo và lập trường quốc gia chống Cộng của ông đã có tiếng vang trên khắp thế giới.

Sau cuộc đảo chính ông Diệm, chính phủ quân nhân được thành lập do tướng Dương Văn Minh làm Quốc trưởng, ông Nguyễn Ngọc Thơ, nguyên Phó Tổng thống thời ông Diệm giữ chức Thủ tướng. Các tướng lãnh khác được cử giữ các Bộ quan trọng. Chính phủ Dương Văn Minh đã bãi bỏ các Ấp chiến lược và đoàn thể Thanh niên, Thanh nữ Cộng hòa. Nông thôn lại bỏ ngỏ cho Việt Cộng xâm nhập hoạt động trở lại; đó là một sự sai lầm về chiến lược mà ông Diệm đã dầy công nghiên cứu và xây dựng.

Chỉ sau cái chết của hai ông Diệm, Nhu hai chục ngày, vào ngày 22 tháng Mười Một, 1963, Tổng thống Kennedy đã bị Lee Harvey Osvvald, 24 tuổi, nhắm bắn lúc 12 giờ rưỡi trưa trong lúc ông cùng vợ; bà Jacqueline và Thống đốc Tiểu bang Texas ngồi trên xe mui trần đi thị sát thành phố Dallas. Hai ngày sau, Oswald bị chủ quán hộp đêm là Jack Ruby bắn chết tại căn hầm của trạm cảnh sát. Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson lên thay thế làm Tổng thống Mỹ thứ 36.

Ngày 8 tháng Chín, 1964, Trung tướng Dương Văn Minh lập Thượng hội đồng quốc gia gồm 16 nhân sĩ để cố vấn cho Ủy ban lãnh đạo lâm thời quốc gia và quân lực. Ông Phan Khắc Sửu được bầu làm Chủ tịch Thượng hội đồng quốc gia.

Ít lâu sau, Trung tướng Dương Văn Minh đưa ông Ngô Đình Cẩn, em áp út ông Diệm, cố vấn chính trị miền Trung ra tòa án quân sự Saigon xử. Ông Diệm còn em út là ông Ngô Đình Luyện, Đại sứ ở Anh lúc xẩy ra đảo chính. Ông Cẩn được Tòa Lãnh sự Mỹ ở Huế cho máy bay đưa về Saigon giao tướng Minh xử. [10] Ông bị giam ở khám Chí hòa và bị bệnh nặng. Về việc Tướng Nguyễn Khánh đòi tiền thế mạng ông Cẩn, cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ có kể: “Sau này anh Tuyên là em của Đức Cha Thuận, là cháu của Tổng thống Diệm, kể với tôi rằng ông (tức Tướng Khánh) cho người liên lạc với gia đình đòi một số tiền để giữ mạng sống cho ông Cẩn, số tiền là 80 triệu (?). Nếu đủ sức thì cả dòng họ đóng góp để lo nhưng nhiều quá thì chạy đâu ra.”[11]

Phiên tòa do Đại tá Nguyễn Văn Đức, Giám đốc Nha Quân pháp làm Chánh thẩm; trong số các phụ thẩm có Đại tá Đặng Văn Quang, Trung tá Dương Hiếu Nghĩa.[11]

Ông Ngô Đình Cẩn đã bị xử bắn ngày 9 tháng Năm 1964, ở tuổi 53, ông sinh năm 1911. Như thế cả ba anh em ông Diệm đều bị chết một cách thảm thương!

Trung tướng Khiêm tuy có công trong cuộc đảo chính nhưng không được Trung tướng Minh giao chức vụ quan trọng, lại đưa ông đi làm Tư lệnh Quân đoàn 3 vào tháng 12, 1963.

Một hôm Bình thấy Tướng Khiêm lên Bộ chỉ huy Biệt khu thì lấy làm lạ, vì chẳng bao giờ có ông tướng ở Quân đoàn 3 nào chịu cất bước lên đây. Ông Khiêm lên giải quyết việc một tiểu đoàn Biệt động quân xin đổi ra Quảng Ngãi vì tiểu đoàn hoạt động ở Phước Thành đã lâu. Đa số binh sĩ người miền Trung nên ông cũng đồng ý. Giữ họ ở lại mà tinh thần họ xuống thì chiến đấu sẽ không có hiệu quả.

Giữa ông Minh và ông Khiêm có những mâu thuẫn ngầm từ sau cuộc đảo chính. Đó là nguyên nhân để ông Khiêm có những toan tính mới trong việc tranh giành quyền lực. Nội bộ các tướng lãnh vẫn có những nghi kỵ lẫn nhau chỉ vì vấn đề quyền lợi. Tướng Khiêm chờ cơ hội hạ Tướng Minh và các Tướng Đôn, Xuân, Kim, Đính.

Thế rồi cơ hội đã đến. Nhân dịp một nhóm nhân sĩ đề nghị với Tướng Dương Văn Minh cử Trung tướng Lê Văn Kim, Tổng tham mưu trưởng QLVNCH làm thủ tướng thay thế ông Nguyễn Ngọc Thơ vì tình hình chiến sự gia tăng, cần một vị tướng lãnh có khả năng giữ cương vị này.

Nghe tin này, một số sĩ quan Đại Việt móc nối với Tướng Khiêm làm một cuộc chỉnh lý để đưa Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, lãnh tụ Đại Việt ở Pháp về làm thủ tướng. Tướng Khiêm cũng thuộc Đại Việt, nhưng ông không dám làm, lại móc nối với Trung tướng Nguyễn Khánh, Tư lệnh Quân đoàn 1 và Vùng 1 Chiến thuật. Cờ đến tay, Tướng Khánh đồng ý vì có sự hậu thuẫn của Tướng Khiêm đang nắm Quân đoàn 3. Trung tá Lucien Conein (CIA) cũng đã gặp Tướng Khánh ở QĐ1”.[12]

Ngày 30 tháng Giêng, 1964, Tướng Khánh cùng Đại tá Nguyễn Chánh Thi [13], Tư lệnh phó Quân đoàn 1, Đại tá Dương Ngọc Lắm tiến hành cuộc chinh lý; bắt giam các tướng lãnh đương quyền: Đôn, Xuân, Kim, Đính cùng với Tướng Nguyễn Văn Vỹ và hai trung tá Trần Đình Lan, Lâm Ngọc Huấn mới ở Pháp về. Các sĩ quan này bị Tướng Khánh cho là ngả theo chính sách trung lập hóa miền Nam mà Tổng thống De Gaulle vẫn cổ súy bấy lâu nay. Riêng Tướng Dương Văn Minh bị giam lỏng tại nhà. Tổng hành dinh của Tướng Khánh đặt tạm tại Bộ tư lệnh Lữ đoàn Dù của Đại tá Cao Văn Viên.

Dịp này, Thiếu tá Nguyễn Văn Nhung, người đã hạ sát hai ông Diệm, Nhu cũng bị bắt giam tại Lữ đoàn Dù. Sau đó có tin Thiếu tá Nhung đã treo cổ tự tử bằng dây giầy. Cái chết của sĩ quan này có vẻ bí ẩn nhưng đó cũng là cái nghiệp ông phải trả cho hành động sát hại hai ông Diệm, Nhu.

Việc bắt giam các tướng trung lập được tiến hành êm thấm, Tướng Khánh thay Tướng Minh trong chức Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, Quốc trưởng và nắm cả chức Thủ tướng. Tướng Khiêm được Tướng Khánh bổ nhiệm làm Tổng trưởng Quốc phòng kiêm Tổng tham mưu trưởng QLVNCH(Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa) để bù lại cái công đồng mưu tương ứng. Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn được cử giữ chức Phó Thủ tướng Đặc trách Bình định.

Ngày 28 tháng Năm 1964, Tướng Khánh triệu tập hội đồng tướng lãnh thuộc Hải, Lục, Không quân: Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Đỗ Cao Trí, Đỗ Mậu, Dương Ngọc Lắm, Chung Tấn Cang họp tại Đà Lạt để xử các tướng trung lập, song tra vấn mãi cũng không có đâu ra chứng cớ cụ thể nên các tướng này được trả tự do. Phải đợi sau ngày 13 tháng Chín 1964, các ông này mới được về nhà vì Saigon lại có biến.

Về mặt quân sự, một biến cố mới xẩy ra đã đưa đến việc Mỹ khởi đầu oanh tạc Bắc Việt. Ngày 2 tháng Tám 1964, chiến hạm Maddox của Hải quân Mỹ đi tuần tại Vịnh Bắc Việt bị 3 chiếc khinh tốc đĩnh Cộng sản Bắc Việt tấn công bằng thủy lôi.[14]

Tổng thống Johnson trình ngay nghị quyết Vịnh Bắc Việt lên Quốc hội Mỹ cho phép trả đũa Bắc Việt bằng quân sự. Sau đó phi cơ Mỹ trên các hàng không mẫu hạm đậu ngoài khơi Vịnh Bắc Việt đã được lệnh oanh tạc các mục tiêu quân sự và cơ sở hậu cần của Bắc Việt; nguồn tiếp viện quy mô cho Việt Cộng tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Nam.

Ngày 16 tháng Tám 1964, Tướng Khánh triệu tập cuộc họp các tướng lãnh tại Vũng Tầu rồi đưa ra bản Hiến Chương Vũng Tầu nhắm củng cố địa vị quốc trưởng của mình, bầu quốc hội lâm thời, song đã bị sinh viên và dân chúng biểu tình phản đối. Sau đó Hiến chương Vũng Tầu bị thu hồi và các tướng lãnh cử một Tam đầu chế gồm Tướng Minh làm Quốc trưởng trở lại, Tướng Khánh làm Thủ tướng và Tướng Khiêm giữ chức Tổng tham mưu trưởng QLVNCH.

Vì bất mãn với Tướng Khánh thao túng chính quyền, đưa quốc gia đến chỗ rối loạn, ngày 13 tháng Chín 1964, Trung tướng Dương Văn Đức, Tư lệnh Quân đoàn 4 đã đưa quân về Saigon với danh nghĩa biểu dương lực lượng chống vụ thả “các tướng Đà Lạt ” song để hạ Tướng Khánh.

Tham gia cuộc biểu dương có các Tướng Lâm Văn Phát, Dương Ngọc Lắm, Đại tá Huỳnh Văn Tồn và Trung tá Dương Hiếu Nghĩa. Nhờ Tướng Kỳ, Tư lệnh Không quân hỗ trợ, Tướng Khánh đã dẹp cuộc biểu dương và bắt giam các tướng tá trong cuộc.

Vụ này có Tướng Khiêm hà hơi để chơi lại ông Khánh vì ông Khiêm đang ở cương vị Tổng tham mưu trưởng lại để xẩy ra cuộc biểu dương lực lượng từ Vùng 4 về Saigon mà không can thiệp.

Ba tướng: Minh, Khiêm, Khánh được thăng cấp đại tướng vào cuối năm 1964. Sau khi chỉnh lý, Tướng Khánh cũng đã thăng chức từ một đến hai cấp cho các Tướng lãnh trẻ để tạo vây cánh như Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư lệnh Không quân, Đề đốc Chung Tấn Cang, Tư lệnh Hải quân, Trung tướng Lê Nguyên Khang, Tư lệnh Thủy quân lục chiến. Riêng Tướng Nguyễn Văn Thiệu, sau ngày 1 tháng Mười Một 1963 đã được Hội đồng quân nhân thăng từ đại tá lên thiếu tướng, về làm Tham mưu trưởng liên quân. Sau đó ông Thiệu giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 4 và được thăng trung tướng đầu năm 1965.

Vì Tam đầu chế lủng củng; dân chúng biểu tình chống Tướng Khánh độc tài nên ngày 24 tháng Mười 1964, ông Phan Khắc Sửu được Thượng hội đồng quốc gia bầu làm Quốc trưởng thay Tướng Dương Văn Minh.

Ngày 27 tháng Mười 1964, cuộc họp ở Vũng Tầu giữa Tướng Khánh và các Tướng Kỳ( Không quân), Cang ( Hải quân), Khang (Thủy quân lục chiến) và Đống (Nhảy dù) đã quyết định đưa Tướng Khiêm ra khỏi nước; Tướng Khánh trở về làm Tổng tư lệnh quân đội. Do đó Tướng Khánh đã cử Tướng Khiêm đi làm đại sứ tại Mỹ tháng Mười 1964 vì sợ ông Khiêm làm cuộc đảo chính.

Đầu tháng Mười Một, Tướng Khánh cử Tướng Minh đi làm đại sứ tại Thái Lan.

Sau khi Tướng Khánh rời chức Thủ tướng về làm Tổng tư lệnh quân đội, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu đã cử ông Trần Văn Hương làm Thủ tướng và lập nội các mới ngày 30 tháng Mười 1964. Nội các mới bị sinh viên và Phật giáo biểu tình phản đối, sau đó ông Hương đã để một số tướng lãnh tham gia chính phủ. Tuy nhiên phía Phật giáo vẫn chống đối nội các của Thủ tướng Hương và đòi có sự cải tổ.

Thượng hội đồng quốc gia đã không áp lực được ông “già gân” Trần Văn Hương trong vấn đề này, nên sinh ra cuộc khủng hoảng chính trị.

Tướng Khánh lại ra tay can thiệp; giải nhiệm nội các và giam lỏng Thủ tướng Hương ở Vũng Tầu ngày 27 tháng Giêng 1965. Thượng hội đồng quốc gia cũng bị Hội đồng quân lực giải tán vì lý do bất lực.

Sau khi bãi nhiệm Thủ tướng Hương, Tướng Khánh đảm nhiệm vai trò thủ tướng để chờ người thay thế. Mãi đến ngày 16 tháng Hai 1965, Hội đồng quân lực mới cử ông Phan Huy Quát làm Thủ tướng. Chức Quốc trưởng vẫn do ông Phan Khắc Sửu đảm nhiệm.

Sau khi Đại tướng Khiêm đi làm đại sứ tại Mỹ, một âm mưu đảo chính Tướng Khánh lại manh nha vào đầu năm 1965 và vai trò đảo chính của Đại tá Phạm Ngọc Thảo lại xuất hiện trên chính trường.

Bản thân Phạm Ngọc Thảo là cấp chỉ huy tiểu đoàn Việt Cộng, khi về hồi chánh đã được Đức Tổng Giám mục Ngô Đình Thục cai quản địa phận Vĩnh Long giới thiệu với Tổng thống Diệm. Y được cử làm tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre) cuối năm 1957, nơi ở Việt Cộng nằm vùng chuẩn bị đồng khởi. Ông Thảo đã né không đụng tới chủ lực vùng mà chỉ thanh toán thành phần du kích, binh vận lẻ tẻ để che mắt chính quyền.

Trong một bữa ăn tại Cercle Tím trong Chợ Lớn có Thiếu tướng Nguyễn Văn Quan, người đã phụ giúp Trung tướng Dương Văn Minh trong việc liên lạc kêu gọi các đơn vị ủng hộ cuộc đảo chính ông Diệm ngày 1 tháng 11, 1963, Đại tá Phạm Ngọc Thảo, Thiếu tá Nguyễn Hữu Duệ, Tham mưu phó kiêm trưởng phòng 3 Sư đoàn 25 Bộ binh đóng ở Đức Hòa, Long An, Thiếu tá Lê Hoàng Thao, nguyên Phó tỉnh trưởng nội an Kiến Hòa dưới quyền Đại tá Thảo, đang là Trung đoàn trưởng trung đoàn 49 thuộc Sư đoàn 25 Bộ binh đóng ở Đức Hòa, Long An, Thiếu tá Hồ Văn Phàn, một thiếu tá Thiết giáp và một thiếu tá Địa phương quân. Cuộc họp bàn về việc lật tướng Khánh để Mỹ có cớ hỗ trợ việc thành lập một chính phủ mới”.[15]

Ngày 19 tháng Hai, 1965, cuộc đảo chính lật Tướng Khánh đã xẩy ra tại Saigon. Tham gia có Trung đoàn 49 thuộc Sư đoàn 25 Bộ binh, một đại đội Bảo an, một đơn vị trường sĩ quan Thủ Đức và vài xe thiết giáp. Trung đoàn 49 do Thiếu tá Thao chỉ huy đã vào chiếm Bộ Tổng tham mưu và phi trường Tân Sơn Nhất mà không gặp sự kháng cự nào. Quân đảo chính đã không bắt được tướng Khánh tại tư dinh bến Bạch đằng. Lúc đó Tướng Kỳ đã giúp đưa Tướng Khánh lên Đà Lạt bằng máy bay và dọa ném bom phi trường Tân Sơn Nhất khiến quân đảo chính phải rút lui. Sau đó qua sự trung gian dàn xếp của Tòa Đại sứ Mỹ, các toán quân đảo chính đã rút khỏi Saigon.

Ít lâu sau Đại tá Phạm Ngọc Thảo trốn tại Hố Nai đã bị bắt về Nha An ninh quân đội và có tin ông chết vì bị Thiếu tá Hùng Sùi bóp hạ bộ. [16]

Sau vụ đảo chính hụt lật Tướng Khánh, Hội đồng quân lực thấy cứ để ông Khánh nắm quyền sẽ gây thêm rối loạn trong nước và làm xói mòn niềm tin của quân đội, nên đã cử Trung tướng Trần Văn Minh, đương kim Tham mưu trưởng liên quân lên chức Tổng tư lệnh QLVNCH thay Tướng Khánh, và cử ông Khánh đi làm đại sứ lưu động ở nước ngoài ngày 22 tháng Hai, 1965.

Ngày 25, Đại tướng Nguyễn Khánh rời khỏi Bộ Tổng tư lệnh lên đường đi lưu vong, mang theo một nắm đất quê hương đã ghi dấu ấn cuộc đời binh nghiệp lẫn chính trị thăng trầm của ông.

Ngày 14 tháng Sáu, 1965, Thủ tướng Phan Huy Quát giao quyền lại cho Hội đồng quân lực sau 3 tuần lễ khủng hoảng nội các. Nguyên do Thủ tướng Quát muốn thay hai chức bộ trưởng đương nhiệm bằng hai người mới song không được Quốc trưởng Phan Khắc Sửu chấp thuận.

Chính phủ Phan Huy Quát đã làm được công việc mà Tổng thống Diệm luôn từ khước là để quân đội Mỹ qua tham chiến chống Cộng từ ngày 6 tháng Ba, 1965 và sử dụng hải cảng Cam Ranh.

Lúc này Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu là Phó thủ tướng kiêm Tổng trưởng quân lực trong nội các Phan Huy Quát. Do đó có tin ông Nguyễn Văn Kiểu, anh của Tướng Thiệu vận động ông Quát trao quyền lại cho quân đội.

Vai trò của Tướng Thiệu bắt đầu lóe sáng từ khúc ngoặt lịch sử này.

Chú thích:

[1] America’s Longest War, George C.Herring, 1979, p 105.

[2] Vietnam and America, Grove Press, New York, 1995,p 235.

[3] Theo Việt Nam Nhân Chứng của cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn, tr. 211.

[4] Theo truyện Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm của cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, tr. 159,160.

[5] Theo truyện Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm của cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, tr.162.

[6] Theo truyện Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm của cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, tr.170.

[7] Theo truyện Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Dinh Diệm của cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, tr.22.

Theo cuốn Việt Nam Nhân Chứng, nơi 2 trang cuối sách, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn viết số bạc mặt 2.390.000 đồng và 6.297 đôla do ông Võ Văn Hải giao cho Trung tướng Dương Văn Minh thì Tướng Minh lấy 6000 đôla và chia cho Tướng Trần Thiện Khiêm 297 đôla. Số bạc Việt Nam được phân phát cho các tướng, tá: Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Trần Ngọc Tám và Phạm Ngọc Thảo. Riêng Tướng Trần Văn Đôn nhận 24.500 đồng. (Tuần báo Thời Báo số 39).

[8] Vietnam and America, New York, 1995, p136.

[9] America's Longest War, George C.Herring, p. 106.“he leaped to his feet and rushed from the roont with a look of shock and dismay on his face which 1 had never seen before. ”(Taylor)

[10] Ông Cẩn được Bộ Ngoại Giao Mỹ cho tỵ nạn, song Đại sứ Henry Cabot Lodge lại giao cho Tướng Minh.

[11] Theo truyện Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm của cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, tr. 119, 171. Hiện mộ của ba anh em ông Diệm và bà cụ cố để ở Lái Thiêu.

[12] Một Trời Tâm Sự, cựu Trung tướng Nguyễn Chánh Thi, tr. 210.

[13] Sau đảo chính, ông Thi từ Cam bốt về được phục hồi cấp bậc Đại tá.

[14] Tài liệu giải mật của Ủy ban An ninh Quốc Gia Hoa kỳ cho thấy không có sự kiện tấn công này! (AFP, 8/1/2008).

[15] Theo truyện Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm của cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, tr.l 15.

[16] Đại tá Phạm Ngọc Thảo được Việt Cộng phong liệt sĩ sau ngày 30/4/1975.