Chương Chín Chiến sự gia tăng
Ngày Tướng Nguyễn Khánh đi khỏi Bộ Tổng tham mưu, Bình đã được thuyên chuyển về lại Saigon và có mặt trong buổi lễ tiễn đưa một ông tướng từng chọc trời khuấy nước ra đi. Trời hôm ấy vẫn rực rỡ nắng vàng đầu xuân, như không có gì thay đổi về thời tiết hàng năm ở miền Nam.
Trở lại Saigon, chàng vẫn nhớ thời gian ở Biệt khu Phước Bình Thành; nơi rừng sâu, đất đỏ, người dân còn phải đổ mồ hôi, xương máu để giành cuộc sống an lành. Chàng vẫn chưa quên hình ảnh Đại úy trưởng phòng 2 Biệt khu, người bạn ở cạnh phòng đã hy sinh khi chiếc xe jeep của ông bị mìn Việt Cộng gài trên đường vào ấp.
Những chất liệu sống đã giúp chàng viết thành truyện Những Người Không Chết; một huyền thoại về những con người ngã xuống cho miền đất đỏ thấm máu được hồi sinh. Đi về đâu những thanh niên nam nữ tuyên vận miền Tây mà có anh mới ra trường đã phải hy sinh ở quận Tân Uyên, Phước Thành, ngay sau mấy ngày đầu công tác. Trên đường phục vụ chính nghĩa quốc gia, hoài bão của dân tộc, các chàng trai, cô gái đã thoát ly gia đình, quên hạnh phúc cá nhân để lao vào trận địa đấu tranh tư tưởng chống chủ nghĩa Cộng sản. Liệu những hy sinh thầm lặng, những đóng góp tâm huyết của họ có đạt được mơ ước là thấy đất nước tồn tại trong tự do và thanh bình.
Lúc Bình về, căn nhà trong hẻm Lê Văn Duyệt vui hẳn lên. Con cái đã lớn dần theo thời gian. Ngọc vẫn chăm chỉ làm tròn bổn phận người vợ và người mẹ hiền. Chàng cũng sẽ phải góp phần mình để giúp đỡ gia đình sau hai năm xa vắng.
Công việc một trưởng phòng nghiên cứu ở Nha Chiến tranh tâm lý khá bề bộn: soạn thảo tài liệu tuyên truyền, học tập, thảo kế hoạch vận động các trường học yểm trợ cho chiến sĩ tiền tuyến và thương bệnh binh ở hậu phương.
Những lá thư xinh xắn do các em học sinh viết thơm tho mùi mực đã mang theo cả những tâm hồn thơ ngây, trong trắng để thăm hỏi và động viên các chiến sĩ ngoài chiến trường: từ miền địa đầu giới tuyến đến mỏm đất mũi cuối cùng, từ tây nguyên xuống đồng bằng và các hải đảo.
Với những gia đình có con em nhập ngũ, tâm tư họ luôn hướng về những người thân yêu đang chiến đấu ngày đêm để bảo vệ từng tấc đất, từng thôn xóm hẻo lánh. Họ không đòi hỏi gì ở đất nước mà chỉ đem chính xương máu của mình ra bảo vệ quê hương xứ sở.
Cả những thương binh đang nằm ở các quân y viện, họ không nghĩ mình bị bỏ quên vì luôn nhận được những lời khích lệ từ các em học sinh và nhân dân tới thăm hỏi. Mối tình quân dân gắn bó đã trở thành động lực để họ vững lòng đứng dậy tiếp tục cuộc chiến đấu cho quê hương, dân tộc.
Ngày 6 tháng Hai, 1965, Việt Cộng pháo kích vào phi trường Pleiku làm 9 lính Mỹ tử thương, 5 máy bay trực thăng bị phá hủy. Biến cố này dẫn đến việc Mỹ gia tăng oanh tạc miền Bắc, khởi đầu một bước leo thang chiến cuộc mới cho cả hai phía ta và địch.
Ngày 8 tháng Ba, thể theo lời yêu cầu của chính phủ VNCH (Phan Khắc Sửu ), Tổng thống Johnson đã cho Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng để trợ giúp Quân lực VNCH chống Cộng sản xâm lược và bảo vệ tự do cho 20 triệu dân miền Nam. Trong năm 1965 đã có 184.000 quân Mỹ được bố trí trong nội địa VNCH. Sau đó các quốc gia Đồng minh gồm Úc, Tân Tây Lan và Thái Lan, mỗi quốc gia cử 1 trung đoàn bộ binh, Đại Hàn cử 2 SƯ đoàn: Bạch Mã và Mãnh Hổ. Phi Luật Tân và Cộng Hòa Trung Hoa (tức Đài Loan) chỉ gửi các toán dân sự vụ hoạt động tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Về mặt chính quyền, Thủ tướng Phan Huy Quát đã trao quyền cho Hội đồng Quân lực đảm nhiệm trọng trách lãnh đạo quốc gia. Hội đồng đã cử Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu giữ chức Chủ tịch ủy ban Lãnh đạo Quốc Gia và Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ giữ chức Chủ tịch ủy ban Hành pháp Trung ương từ ngày 19 tháng Sáu, 1965. Tướng Kỳ đã cử các nhân vật thân ông nắm những chức vụ then chốt trong chính quyền.
Kể từ năm 1964, trước đà gia tăng chiến sự và nhu cầu của cuộc chiến về Ý thức hệ: Vì độc lập, tự do của dân tộc chống Cộng sản độc tài xâm lược, Quân lực VNCH đã thành lập Tổng cục Chiến tranh Chính trị (CTCT) từ Bộ Tổng tham mưu đến các đơn vị, thay thế cho hệ thống Phòng 5 không còn thích hợp với tình thế mới.
Tổng cục CTCT dựa theo tổ chức CTCT của Quân đội Trung Hoa do Trung tướng Vương Thăng và phái đoàn sĩ quan từ Đài Bắc qua Saigon thuyết trình, theo yêu cầu của Bộ Tổng tham mưu QLVNCH. Nội dung CTCT gồm lục đại chiến: Tình báo chiến, Tâm lý chiến, Tư tưởng chiến, Mưu lược chiến, Quần chúng chiến và Tổ chức chiến. Quân đội Trung Hoa quốc gia quan niệm bảy phần chính trị, ba phần quân sự, tức đặt nặng phần hoạt động CTCT hơn cả phần quân sự để đối đầu với hệ thống chính trị trong quân đội Trung Cộng ở Hoa lục. Nhờ vậy quân đội của Thống chế Tưởng Giới Thạch đã trở nên hùng hậu hơn cả thời kỳ còn ở Hoa lục.
Tổng cục CTCT được thành lập sau Tổng cục Tiếp vận và Tổng cục Quân huấn, có nhiệm vụ xây dựng tinh thần chiến đấu vững mạnh cho quân và dân, làm suy yếu tinh thần địch và thắt chặt tình đoàn kết với các lực lượng đồng minh trong mặt trận tranh đấu cho tự do [1]
Khác với quân đội Cộng sản dùng hệ thống chính ủy để nhồi sọ bộ đội bằng chủ nghĩa Mác xít vô thần và đường lối chiến tranh bạo lực của đảng Cộng sản, hệ thống CTCT của quân lực VNNCH lấy chính nghĩa dân tộc và tư tưởng tự do, dân chủ làm cơ sở lý luận và hành động.
Về mặt tổ chức, Tổng cục CTCT có Cục Tâm lý chiến (Tiền nhân là Nha Chiến tranh tâm lý) Cục Chính Huấn, Cục An ninh quân đội, Cục Xã hội và trường Đại học CTCT Đà Lạt có nhiệm vụ đào tạo các sĩ quan CTCT hệ 4 năm để cung cấp cán bộ cho toàn ngành. Tổng cục cũng đã thành lập Biệt đoàn văn nghệ trung ương và 5 Tiểu đoàn CTCT đặt thuộc quyền sử dụng của 4 Vùng chiến thuật và Biệt khu Thủ Đô.
Ngành CTCT đã suy tôn nhà chiến lược tài ba, nhà văn hóa uyên bác Nguyễn Trãi (1380-1442) làm thánh tổ của ngành. Nguyễn Trãi, một bậc đại công thần đã giúp vua Lê Lợi đánh thắng 20 vạn quân Minh năm 1427 bằng mưu lược đi đôi với quân sự và nghệ thuật tâm lý chiến.
Ở vào thế kỷ thứ 14, nước ta chưa có kỹ thuật ấn loát như bây giờ; Nguyễn Trãi đã phải vận dụng sáng kiến rất tài tình; ông sử dụng truyền đơn lá, cho kiến đục 8 chữ viết bằng mỡ: “Lê Lợi Vi Quân, Nguyễn Trãi Vi Thần”. (Lê Lợi là Vua, Nguyễn Trãi là bề tôi) để gây niềm tin trong dân chúng mà ra sức giúp Vua Lê Lợi trong sự nghiệp kháng chiến chống quân Minh. Ông cũng đã sử dụng cả văn thơ để chiêu dụ các tướng Minh ra hàng, lời lẽ rất thuyết phục và có lý, có tình.
Bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi là áng thơ phú bất hủ trong kho tàng văn chương Việt Nam; kể lại 10 năm kháng chiến gian lao, hào hùng của Bình Định Vương Lê Lợi chống quân Minh. Tội ác của quân giặc đã được ghi rõ:
“Tát cạn nước Đông Hải không rửa sạch tanh hôi,
Chặt hết trúc Nam Sơn khó ghi đầy tội ác. ”
Tinh thần nhân đạo của quân dân Đại Việt cũng đã được đề cao:
“Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn,
Đem chí nhân để thay cường bạo
Đó chính là kim chỉ nam cho công tác CTCT của Quân lực VNCH, là tiền đề để kêu gọi và đối xử nhân hậu với cán binh Cộng sản rời bỏ hàng ngũ địch trở về với chính nghĩa quốc gia, theo đúng với Quy ước Genève về đối xử nhân đạo với tù hàng binh địch.
Sau khi Hội đồng quân lực nắm chính quyền, một Đại hội toàn quân đã được tổ chức tại rạp Rex, Saigon; quy tụ các sĩ quan đại diện Quân, Binh chủng về tham dự để thông suốt đường lối chủ trương của Hội đồng quân lực trong giai đoạn mới. Đại hội đã thể hiện tinh thần đoàn kết nhất trí chống Cộng trong toàn thể quân đội.
Để đánh dấu ngày Quân lực VNCH lãnh trọng trách điều khiển quốc gia, chính phủ quân nhân đã chọn ngày 19 tháng Sáu là Ngày Quân lực hàng năm. Bộ Quốc phòng đã giao cho Tổng cục CTCT lập đề án hướng dẫn các Quân, Binh chủng chọn một vị anh hùng dân tộc làm thánh tổ của ngành mình và xây dựng tượng đài tại các công viên trong thành phố Saigon.
Tượng An Dương Vương (257 trước Công nguyên). Do binh chủng Công binh xây tại công viên trước hội trường Diên Hồng, tức trụ sở của Thượng viện. An Dương Vương đã có công xây thành cổ Loa, một công trình quy mô, cổ kính của người Âu Lạc hiện vẫn được bảo tồn tại huyện Đông Anh, Hà Nội. Tượng An Dương Vương với chiếc nỏ thần cũng được binh chủng Pháo binh dựng tại công viên Ngã Sáu Chợ Lớn.
Tượng Hưng Đạo Đại Vương (1228-1300). Do quân chủng Hải quân dựng tại bến Bạch Đằng. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là vị đại nguyên soái đã có công đánh thắng quân đội Nguyên Mông ba lần xâm lăng Đại Việt vào các năm 1258, 1285 và 1288. Với chiến thắng trên sông Bạch Đằng ngày 9 tháng Tư năm 1288, Trần Hưng Đạo đã làm tan mộng xâm lăng của quân Mông cổ, một quân đội hùng mạnh nhất ở thế kỷ thứ 13 đã chinh phục cả một vùng đất đai rộng lớn từ Nga đến Ả Rập và Trung Hoa. Trần Hưng Đạo đã soạn Binh Thư Yếu Lược để dạy bảo quân sĩ và đề cao tư tưởng toàn dân đánh giặc: “Quân không cần nhiều mà tinh, sức lực lấy ở dân, toàn dân đánh giặc”.
Tượng Phù Đổng Thiên Vương. Còn có tên là Thánh Gióng, xuất hiện vào thời đại Hùng Vương (2879- 258 trước CN), đời vua Hùng thứ sáu. Tượng do binh chủng Thiết giáp dựng tại Ngã Sáu Saigon. Cậu bé Gióng cỡi ngựa sắt phun lửa, tay cầm khúc tre ngà, trông rất uy nghi.
Huyền thoại Thánh Gióng đã làm say mê các thế hệ Việt Nam với niềm tự hào dân tộc anh hùng. Thánh Gióng sinh ra ở làng Phù Đổng, Gia Lâm, nay thuộc Hà Nội. Mới lên ba, cậu Gióng ăn nằm một chỗ, nghe Vua Hùng thứ 6 kêu gọi nhân tài ra đánh giặc Ân xâm lăng nước Văn Lang (vào thế kỷ thứ 17 trước CN), cậu nói với sứ giả về tâu với vua:
“Bay về bay đổng vua bay,
Cơm thời bay thồi cho đầy bẩy nong,
Cà thời muối lấy ba gồng,
Ngựa sắt, vọt sắt ta dùng dẹp cho”.
Sau khi được người dân trong làng cho ăn no, cậu bé Gióng uống cạn một khúc sông và trở thành con người khổng lồ. Gióng liền phi ngựa sắt ra trận dẹp giặc Ân; ngựa phi đến đâu, phun lửa đến đó, thiêu đốt cả một vùng hiện nay gọi là làng Cháy. Những vết chân khổng lồ của ngựa sắt giẫm lún xuống thành các ao, hồ trong vùng Quế Võ, Hà Bắc, nơi giặc Ân trú quân. Gióng dùng roi sắt giết giặc Ân; khi roi sắt gẫy, Gióng nhổ từng khóm tre ngà đánh giặc. Ca dao kể lại chiến công hiển hách của Gióng:
“Đứa thì sứt mũi, sứt tai,
Đứa thì chết nhóc vì gai tre ngà”.
Dẹp xong giặc Ân, Gióng phi ngựa lên núi Sóc rồi biến lên trời. Vua Hùng phong cho Gióng là Phù Đổng Thiên Vương. Đời nhà Lý cho xây đền thờ Thánh Gióng ở làng Phù Đổng, Bắc Ninh. Hàng năm đến ngày mồng 9 tháng Tư có Hội Gióng rất trọng thể. Đây là thiên anh hùng ca của con Hồng cháu Lạc trong thời kỳ các Vua Hùng dựng nước và giữ nước, một dấu mốc khởi đầu truyền thống tranh đâu kiên cường chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.
Tượng Trần Nguyên Hãn. Do binh chủng Truyền tin dựng tại công viên trước chợ Saigon. Tướng Trần Nguyên Hãn đã dùng chim bồ câu đưa tin cho Bình Định Vương Lê Lợi, giúp Lê Lợi đánh đuổi quân Minh ra khỏi nước Đại Việt năm 1427.
Tượng Tổ Quốc Không Gian. Là một mũi tên sắt bay vòng lên không gian, do Quân chủng Không quân dựng tại công viên trước tòa Đô Chính”.[2]
Tượng Thủy quân lục chiến. Do binh chủng TQLC dựng nguyên hình một chiến sĩ tại công viên trước Nhà hát thành phố, nơi dùng làm trụ Sở Hạ viện [3]
Tượng Bình Định Vương Lê Lợi (1428-1433). Do binh chủng Địa phương quân và Nghĩa quân dựng tại công viên cuối đường Hồng Bàng, Chợ Lớn để tôn vinh người anh hùng áo vải đất Lam Sơn đã phất cờ khởi nghĩa trong 10 năm chống quân Minh (1418-1427).
Tượng Vua Quang Trung Nguyễn Huệ (1789-1792). Do Cục Quân vận dựng tại công viên Nguyễn Tri Phương, Chợ Lớn. Với cuộc hành quân thần tốc như xe chạy, cứ hai người cáng một người khi quân lính mệt mỏi, Vua Quang Trung Nguyễn Huệ đã tiến quân từ Phú Xuân ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Mãn Thanh xâm lược vào sáng ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu, tức ngày 30 tháng Giêng năm 1789. Trước khi xuất quân, Vua Quang Trung đã cổ vũ quân sĩ nêu cao quyết tâm đánh giặc Thanh:
“Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn,
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ ”
Còn nhớ năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Huệ đã dẫn quân Tây Sơn vào Nam đánh tan 2 vạn thủy binh và 300 chiến thuyền của quân Xiêm tại trận Rạch Gầm, Mỹ Tho. Quân Xiêm qua phò Nguyễn Ánh phục hồi ngôi báu nhà Nguyễn, song bị quân Tây Sơn đánh đuổi nên lại phải chạy qua Xiêm (Thái Lan) tá túc. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ chỉ làm vua được 4 năm thì mất.
Tượng ông Phan Đình Phùng. Do Cục Quân cụ dựng tại công viên trước ty bưu điện Chợ Lớn. Ông Phan Đình Phùng làm quan dưới triều nhà Nguyễn, đã giúp phong trào cần vương của Vua Hàm Nghi chống Pháp trong 10 năm (1885-1896). Ông đã cùng ông Cao Thắng chế tạo 500 khẩu súng trường để Nghĩa quân đánh Pháp.
Các tượng thánh tổ Quân, Binh chủng trong Quân lực VNCH đã làm sống dậy các trang sử hào hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam chống ngoại xâm, đồng thời làm tăng thêm vẻ mỹ quan, hoành tráng cho các công viên của Thủ đô Saigon. Đó cũng là dấu ấn về sự hiện diện của Quân lực VNCH trong giai đoạn lịch sử vệ quốc.
Trong thời gian từ tháng Ba đến tháng Sáu 1966, Thượng tọa Thích Trí Quang lại phát động phong trào Phật giáo đấu tranh tại Huế nhằm vận động phật tử và quần chúng biểu tình đòi giải tán chính quyền quân nhân Thiệu-Kỳ, chấm dứt sự can thiệp của Mỹ vào công cuộc nội bộ của miền Nam VN. Dân chúng đem cả bàn thờ Phật và bàn thờ gia tiên xuống đường để ngăn cản lực lượng cảnh sát và quân đội đi dẹp biểu tình. Hình thức biểu tình này bị quần chúng chỉ trích vì công khai xúc phạmm đến cả việc thờ cúng, tín ngưỡng và không thể biện minh cho cứu cánh.
Về phương diện chính trị, các cuộc biểu tình tại Huế đã không gây ảnh hưởng đến chính quyền quân nhân và cũng không giúp cho Cộng sản trong việc lũng đoạn miền Nam. Trung tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Quân đoàn 1 án binh bất động trong lúc thành phố Huế trở nên hỗn loạn và tê liệt.
Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ tịch ủy ban Hành pháp Trung ương đưa 1000 Thủy quân lục chiến từ Saigon ra Đà Nẩng, cùng Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia dẹp các cuộc biểu tình tại Huế và Đà Nẵng. Trung tướng Nguyễn Chánh Thi sau đó đã phải rời bỏ chức vụ qua Mỹ chữa bệnh. [3]
Phong trào Phật giáo đấu tranh ở Saigon với bàn thờ xuống đường cũng đã bị cảnh sát và quân đội dẹp tan.
Đầu năm 1967, quân đội Mỹ mở cuộc hành quân Johnson City vào Cục R ở Tây Ninh, giáp biên giới Cam bốt, nhằm triệt hạ cơ quan chỉ huy đầu não Việt Cộng. Sau cuộc hành quân, Cục R đã phải dời sâu vào nội địa Cam Bốt.
Về phương diện lập pháp, Quốc hội Lập hiến được thành lập từ năm 1966 đã soạn thảo bản hiến pháp nền Đệ nhị Cộng hòa. Do đó tháng 9, 1967 có cuộc bầu cử Tổng thống và lưỡng viện quốc hội, mở đầu nền Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam. Liên danh Tổng thống của hai ông Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ thu được 35% phiếu bầu; liên danh luật sư Trương Đình Du, người chủ trương thương thuyết với Mặt trận Giải phóng miền Nam chỉ được 17% phiếu bầu.
Mới đầu ông Kỳ ra ứng cử riêng một liên danh song Hội đồng tướng lãnh quyết định ông Kỳ đứng chung liên danh với ông Thiệu để có sự đoàn kết trong quân đội. Tuy đồng sàng song dị mộng; giữa ông Thiệu và ông Kỳ không có sự hòa hợp vẹn toàn vì mỗi người có một cá tính, một tham vọng chính trị riêng. Ông Thiệu thâm trầm, mưu lược; còn ông Kỳ bộc trực và hay bốc đồng. Ông Nguyễn Văn Lộc đã được bổ nhiệm làm Thủ tướng vào thời gian này.
Năm 1968, quân đội VNCH tăng đến 1 triệu người gồm chủ lực quân, địa phương quân và nghĩa quân. Quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã lên đến con số 536.100 người, với kỳ vọng của Tổng thống Johnson sớm đạt được thắng lợi về quân sự để làm yên lòng quốc hội và dân chúng Mỹ.
Trong khi đó Cộng sản Bắc Việt đã nhận 15.000 cố vấn quân sự Liên Xô ở cấp sư đoàn, bộ đội tên lửa, 300.000 bộ đội Trung Cộng lo hậu cần và pháo phòng không và 800 phi công Bắc Hàn lái phi cơ MIG của Liên Xô. Tổng số viện trợ của các nước Cộng Sản cho Bắc Việt lên tới 1 tỷ mỹ kim mỗi năm.
Lúc này hai siêu cường Mỹ và Liên Xô đang ở trong thời kỳ chiến tranh lạnh nên Bắc Việt đã được hưởng sự viện trợ dồi dào của khối Cộng sản. Bộ đội Bắc Việt và vũ khí vẫn gia tăng xâm nhập miền Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh và đường biển bằng các tầu đánh cá ngụy trang, gọi là đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. Mỹ đã cho các phi vụ B.52 trải bom xuống đường mòn Hồ Chí Minh để triệt hạ các đoàn quân xa Bắc Việt và đặt máy điện tử dọc đường mòn để phát hiện các cuộc chuyển quân của địch.
Tình hình cuối năm 1967 trở nên sôi động cho cả hai phía. Quân đội Mỹ và VNCH mở các cuộc hành quân lùng và diệt Việt Cộng ở miền Nam, trong khi Bắc Việt chuẩn bị mở các cuộc tấn công để phá kế hoạch bình định của VNCH. Chiến dịch Phượng Hoàng đã làm bật rễ nhiều cơ sở hạ tầng Việt Cộng ở nông thôn; Việt Cộng không thể bám sát dân để vận động một cuộc tổng nổi dậy. Bởi vậy CSBV dốc toàn lực mở cuộc tổng công kích vào dịp Tết Mậu Thân 1968 ở miền Nam để gây tiếng vang trước dư luận quốc tế.
Theo thông lệ hàng năm, đôi bên đều đồng ý hưu chiến trong ba ngày Tết để binh sĩ có dịp xả hơi về thăm gia đình, hoặc ở lại doanh trại đón xuân với tinh thần cảnh giác. Cũng theo thông lệ, Cục Tâm lý chiến (TLC) mở chiến dịch Nguyễn Trãi để kêu gọi cán binh ở bên kia chiến tuyến về hồi chánh trong dịp Tết. Công việc này đã quen thuộc với Bình ở Cục TLC trong nhiều năm. Hàng triệu tờ truyền đơn với cảnh ngày Tết cổ truyền và lời kêu gọi cán binh Việt Cộng trở về với chính nghĩa quốc gia đã được máy bay quân đội rải xuống các mật khu và hành lang xâm nhập của Cộng quân từ Bắc vào Nam. Con số 200.000 cán binh địch từ các mặt trận trở về vào thời điểm này; trong đó có các thượng tá Tám Hà, Huỳnh Cự, nhà văn Xuân Vũ, ca sĩ Đoàn Chính, con nhạc sĩ Đoàn Chuẩn và ca sĩ Bùi Thiện, đã được sự chú ý của dư luận và là niềm khích lệ lớn cho hoạt động tâm lý chiến và chiêu hồi.
Ngoài ra, công tác binh vận cũng đã được thực hiện tại trung ương và các đơn vị. Nhiều đoàn thể và học sinh thủ đô đã mang quà, thư đến các bệnh viện, đơn vị trong vùng để thăm hỏi chiến sĩ và thương bệnh binh trong những ngày áp Tết.
Trời SaiGon vào xuân có nắng dịu gió êm.
Ngày 30 tháng Giêng, 1968 lại là ngày 30 Tết, chợ hoa Nguyễn Huệ vẫn đông người đi mua sắm. Đại tá Văn Văn Của, Đô trưởng Saigon đã có sáng kiến đưa cả một rừng hoa Đà Lạt, Hóc Môn, Lái Thiêu về giữa Saigon, trên đường Nguyễn Huệ sầm uất để thiên hạ đến vãng cảnh và mua hoa về trưng ba ngày Tết cho vui mắt. Đây cũng là dịp để khách son phấn má hồng đua sắc với thiên nhiên: mai, lan, cúc, trúc, đào, huệ, thủy tiên, cẩm chướng đẹp nõn nà. Saigon như tạm quên hình ảnh chiến tranh hàng ngày chiếu trên tivi để chuẩn bị đón xuân. Chiến tranh như bão hòa với cuộc sống của người dân nông thôn và thành thị.
Vợ chồng Bình cũng chen vào dòng người mua hoa để thấy xuân đã về trong tâm hồn mình. Con người và thiên nhiên lúc này như hòa thành một thực thế. Chợt nghĩ đến Huế mà chàng đã ở trong những ngày đầu quân ngũ 1956, chàng biết Huế đang chìm trong cái lạnh tê tái của mùa đông kéo dài. Nhưng những chợ hoa ở chân cầu Tràng Tiền, trên đường Trần Hưng Đạo, trong chợ Đông Ba và bên Gia Hội cũng đủ đem lại cái vui ngày Tết cho người dân hiền hòa đất thần kinh.
Ngọc chuẩn bị lễ đón giao thừa. Bình cũng ngưng công việc viết hàng đêm. Thời gian như dừng lại ở cái phút thiêng liêng mà mọi người đều lặng lẽ châm nén nhang thành khẩn đón năm mới, trong khi cả bầu khí quyển thủ đô như vỡ ra từng mảnh, rung lên với tiếng pháo mừng Xuân. Hầu như mọi nhà đều đốt những phong pháo ròn rã để tiễn năm cũ đi, đón năm mới về và cầu cho hòa bình đến với mọi người, giàu cũng như nghèo.
Những tràng pháo Xuân chưa dứt thì những tiếng súng lác đác nổ quanh thủ đô, song vẫn khó phân biệt. Sau đó tiếng súng nổ nghe nhiều hơn và chát chúa hơn. Ngọc ngạc nhiên hỏi:
- Đảo chính hả anh?
Bình không nghĩ có đảo chính vì Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đang được quân đội hậu thuẫn. Người Mỹ, sau vụ giết Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ là ông Cố vấn Ngô Đình Nhu, đã chán ngấy những cuộc đảo chính liên miên ở xứ này nên cũng chẳng hề bật đèn xanh cho ai làm thêm một cuộc đảo chính gây lộn xộn nữa. Rồi chàng nói:
- Chắc Việt Cộng tấn công.
Nàng bảo:
- Hưu chiến mà anh?
- Cái đó chỉ là ước lệ. Họ thường vi phạm những điều đã cam kết, ngay cả trên giấy trắng mực đen.
Chàng liền mở đài phát thanh nghe tin tức. Hàng đêm chàng vẫn thường thức khuya để viết bài bình luận thời sự cho đài quân đội, thì giờ còn lại thi viết feuilleton ( những truyện nhiều tập) cho nhật báo như một thói quen cố hữu. Lúc này đài quốc gia ở đầu đường Phan Đinh Phùng, gần Cục An ninh quân đội đã hoàn toàn im lặng, khiến cho giả thuyết của chàng có phần đúng. Còn đài quân đội vẫn phát các tiết mục đón xuân như thường lệ, chưa có tin tức gì mới. Tuy nghi Việt Cộng tấn công nhưng chàng vẫn chưa nghe có lệnh lạc gì trong đêm khuya. Sáng sớm mở đài quân đội, chàng nghe Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ kêu gọi quân nhân các cấp trở lại ngay đơn vị vì VC đã mở cuộc tổng công kích trên toàn lãnh thổ miền Nam từ đêm qua.[4] Sao lại có tiếng ông Kỳ mà không có tiếng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu? Hoá ra ông Thiệu đã rời dinh Độc Lập ở Saigon xuống Mỹ Tho, quê vợ ăn Tết.
Trước Tết, tin tình báo quân đội cũng chỉ cho biết Cộng quân có thể đánh phá ở vài địa phương nhưng không quy mô, nên Bộ Tổng tham mưu chỉ cho cấm trại một nửa quân số các đơn vị. Còn tình báo Mỹ có thể đã biết ý đồ của Việt Cộng vào dịp Tết. Tướng William Westmoreland, Tư lệnh MACV, đã cho tăng cường 6000 Thủy quân lục chiến Mỹ ở tiền đồn Khe Sanh, gần khu phi quân sự, sát với biên giới Lào, để đối đầu với hai sư đoàn quân Bắc Việt đang bao vây tiền đồn này. Ý đồ của Bộ Chính trị đảng Cộng sản Bắc Việt muốn biến Khe Sanh thành điểm, hay một trận Điện Biên Phủ thứ hai để buộc Mỹ phải rút quân, như tướng Pháp De Castries đã phải thất bại hồi tháng Năm 1954 tại Điện Biên Phủ. Trong khi đó Bắc Việt muốn biến miền Nam thành một diện để tấn công hỗ trợ cho điểm, sự phân tích tình hình của các nhà quân sự không phải là không có cơ sở, nếu nhìn kỹ vào kế hoạch tấn công của Cộng quân.
Bình ngồi trên xe jeep do tài xế lái vào Cục Tâm lý chiến ở gần cầu Thị Nghè. Con đường Hồng Thập Tự sáng mồng Một Tết vắng hoe. Ánh nắng vừa len lỏi trên những ngọn cây cổ thụ cao vót. Thỉnh thoảng có xe nhà binh, xe hơi dân sự cùng vài chiếc xích lô máy chạy hối hả trên mặt đường. Vào tới sở chàng mới biết Đại tá Vũ Quang, Cục trưởng còn kẹt ở Đà Lạt, cũng như một số vị chỉ huy các đơn vị còn kẹt ở các địa phương chưa về kịp. Cục phó Cục TLC là Trung tá Phan Trọng Thiện cùng các quân nhân bắt tay vào việc phòng vệ cơ sở và thực hiện công tác thông tin tuyên truyền quân đội lẫn dân sự.
Một số phóng viên quân đội dã được cử đi làm phóng sự mặt trận ở Saigon, sau đó ra Huế. Giữa lúc trận chiến đang tiếp diễn ở Saigon, một vài nhà báo ngoại quốc đã bị thiệt mạng trên đường phố trong khi thu hình vào ống kính. Trong những giờ đầu giao tranh, có nhiều thường dân bị thương vong đã được chở vào các bệnh viện trong thành phố. Đồng bào di tản từ các khu vực nóng bỏng: Trường đua Phú Thọ, Bưu điện Chợ Lớn về mạn trung tâm thành phố khá đông. Phía Đài phát thanh quốc gia đang có giao chiến giữa VC và các chiến sĩ Dù. Thủy quân lục chiến Mỹ đang phản công một số VC lọt được vào toà Đại sứ Mỹ. Dinh Độc Lập cũng bị VC tấn công nhưng chúng đã không vào được vòng rào dinh vì có Lữ đoàn phòng vệ cẩn mật.Trung tướng Trần Văn Trung, Tổng cục trưởng Chiến tranh chính trị đi họp trên Bộ Tổng tham mưu về, đã họp các Cục để thông báo kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu là phân chia lực lượng địch tại Saigon ra nhiều khu vực để các quân binh chủng truy quét, công tác chiến tranh chính trị cũng theo đó mà góp phần yểm trợ thông tin tuyên truyền cho kịp thời.
Phía Thị Nghè, Hàng Xanh được giao cho Cọp Biển; tức Thủy quân lục chiến. Biệt động quân được điều vào Chợ Lớn chiếm lại ty bưu diện. Cảnh sát dã chiến lùng địch ở chùa Ấn Quang và bệnh viện Nhi đồng. Anh nhà báo Mỹ Eddie Adams đã chụp được ảnh lúc Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia, rút súng bắn một sĩ quan Việt Cộng vì anh này đã nổi lửa đốt nhà dân gần chùa Ấn Quang. Phía Bình Hòa, Gia định, Biệt động quân đang truy quét dịch. Trong phi trường Tân Sơn Nhất, Đại tá Lưu Kim Cương, Tư lệnh Không đoàn 33 đã điều động binh sĩ mở cuộc phản công, đẩy lui địch ra khỏi phi trường trước khi ông hy sinh tại trận tiền. Phía Bộ Tổng tham mưu và Bộ Tư lệnh Hải quân, Việt Cộng cũng đã bị đẩy lui sau những cuộc giao tranh ngắn.
Qua hệ thống viễn thông, Bình được biết ngoại trừ thành phố Huế bị V C chiếm, các nơi khác từ Quảng Trị trở vào Đà Nẵng, Kontum, Pleiku, Quảng Ngãi, Bình Định và các tỉnh cực nam, tình hình đã sáng sủa trở lại. Cộng quân đã bị đánh bật ra khỏi địa bàn các tỉnh thành và trật tự đã được vãn hồi. Không có một cuộc nổi dậy nào của dân chúng theo VC; dù ở nông thôn hẻo lánh hay ở thành thị, nơi có thợ thuyền và dân lao động sinh sống.
Trong lúc làm công tác thông tin tuyên truyền ở Cục TLC, Bình thấy sự có mặt của các nhà văn, nhà thơ, nhà báo quân đội như: Văn Quang, Nguyễn Đạt Thịnh, Du Tử Lê, Hà Huyền Chi, Phạm Huấn, Tâm Vũ, Tô Thùy Yên, Đặng Trần Huân, Mai Trung Tĩnh, Lê Huy Linh Vũ, Huy Phương, Huy Vân, Huy Thanh, Tường Linh, Viên Linh, Nguyễn Triệu Nam. Các hoạ sĩ Tạ Tỵ, Hiếu Đệ, cùng các ca nhạc sĩ Nhật Bằng, Nguyễn Hiền, Trần Thiện Thanh, Minh Chánh, nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh cũng có mặt.
Nhà văn Đỗ Tốn vài năm trước làm việc ở đây đã qua đời. Nhà văn Mặc Thu và nhà thơ Tô Kiều Ngân đã giải ngũ. Các văn nghệ sĩ ở các đơn vị rất đông. Tất cả đều phục vụ trong ngành chiến tranh chính trị.
Các bài bình luận thời sự, tin tức, phóng sự trên phát thanh, vô tuyến truyền hình, các tấm bích chương dán trên đường phố và các tờ báo quân đội là do công sức của các văn nghệ sĩ quân đội đóng góp. Lúc đó nhật báo Tiền Tuyến đã ra đời, do “Hà chưởng môn” tức nhà thơ Hà Thượng Nhân và nhà văn Phan Lạc Phúc điều hành.
Theo ý kiến chỉ đạo từ trên, Bình đã hoàn thành một cuốn sách về cuộc Tổng công kích của Việt Cộng, ghi lại thời khắc biểu của cuộc tổng tấn công trên 44 tỉnh thành miền Nam. Số tổn thất của đôi bên trong hai tuần lễ đầu được ghi nhận như sau:
VC: 50.000 cán binh, VNCH: 2.300 quân nhân, Mỹ: 1.100 quân nhân, thường dân: 12.500 người.
Sự thất bại của Việt Cộng là trải quân quá rộng, không có nguồn tiếp viện tại chỗ, cán binh lại không thuộc địa hình, vào thành phố bị lạc lõng, khi bị bao vây không biết lối thoát; nhiều cán binh tuổi mới 15,16, thiếu kinh nghiệm chiến trường [5].
Tại cố đô Huế, 4000 người đã bị Việt Cộng sát hại trong các mồ tập thế, sau khi họ được lệnh “đi học tập” nhưng không thấy trở về. [6] Các nhiếp ảnh viên quân đội đã chụp được ảnh những thi thể còn đeo cây thánh giá hoặc tượng Phật ở ngực, nhẫn cưới đeo ở ngón tay. Thành nội Huế được Sư đoàn 1 Bộ binh và Thủy quân lục chiến Mỹ tái chiếm ngày 24 tháng Hai, 1968. Các cung điện và kiến trúc cổ trong thành nội bị thiệt hại nặng nề vì bom đạn.
Ở Khe Sanh, 2 sư đoàn chủ lực Bắc Việt và các trung đoàn biệt lập cũng bị thất bại trong kế hoạch bao vây tiền đồn này. Cộng quân đã không chịu nổi các đột oanh tạc của máy bay B- 52 và hỏa lực hùng hậu của Mỹ. Kế hoạch điểm và diện của Cộng quân đã bị tan vỡ cùng một thời gian. Tưởng cũng cần nhắc đến 4 câu thơ khai lệnh tổng tấn công của Hồ Chí Minh đọc trên đài Phát thanh Hà Nội đêm giao thừa Tết Mậu Thân, 1968:
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà,
Nam, Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta.
Song sự thất bại đã khiến ông Hồ thêm bi quan.
Ngày tết đã qua. Tiếng súng không còn vang trong thành phố Saigon, cuộc cắm trại 100% quân số vẫn được duy trì tại các đơn vị. Tuy mệt mỏi vào lúc thời tiết nóng dần trước khi bước vào mùa mưa, Bình vẫn cảm thấy thư thới tâm hồn mỗi buổi chiều được về thăm vợ con, rồi đến tối lại vào đơn vị ứng chiến. Có những đêm ánh hỏa châu rực sáng cả góc trời Hàng Xanh, trong lúc Thảo Cầm viên gần đó nổi lên tiếng cọp kêu vượn hú thật hoang liêu vô cùng.
Thế rồi ngày 5 tháng Năm, 1968, Việt Cộng lại mơ cuộc tấn công nhỏ vào vùng ngoại vi Saigon, Gia định. Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan đã bị thương trên cầu Phan Thanh Giản khi ông chỉ huy cánh quân gồm cảnh sát dã chiến và quân đội truy lùng Việt Cộng phía trại gà Thanh Tâm.[7] Sau đó tàn quân Việt Cộng rút qua biên giới Cam Bốt để chỉnh đốn đội ngũ. [8]
Ngày 3 tháng Ba 1968, Mỹ hạn chế ném bom miền Bắc, chỉ còn từ vĩ tuyến 20 trở xuống. Ngày 16 tháng Ba 1968, hai đại đội lính Mỹ hành quân tại ấp Mỹ Lai, Mỹ Khê (Quảng Ngãi) có Việt Cộng ẩn náu, sát hại khoảng 500 thường dân. Năm 1971, Trung úy William Calley, Jr. bị toà án quân sự phạt tù chung thân. Năm 1974, Tổng thống Nixon xét lại nội vụ; Calley chỉ bị quản chế trong ít lâu.
Chú thích:
[1] Trung tướng Trần Văn Trung là vị Tổng cục trưởng lâu năm nhất, từ 1965 đến ngày 30/4/1975.
[2] Tượng đã bị Việt Cộng phá bỏ năm 1975.
[3] Cựu Trung tướng Nguyễn Chánh Thi mất ngày 23/6/ 2007 tại Lancaster, Pennsylvania, hưởng thọ 84 tuổi.
[4] Việt Cộng đã ém các toán biệt động và vũ khí trong một số nhà dân tại Saigon; vài cơ sở đã bị Cảnh Sát phá vỡ.
[5] Hội nghị Trung ương thứ 21 của đảng CSVN đã nghiêm khắc kiểm điểm là: “Chủ quan trong việc đánh giá tình hình nên ta đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó. (Báo Quân Đội Nhân Dân trên Internet ra ngày 23/1/2008).
[6] Ngoài viên chức, quân nhân, nhiều tín đồ Công giáo đã bị Việt Cộng giết hại bằng búa; cuốc và súng trong các mồ tập thể.
[7] Cựu Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan mất ngày 14/7/ 1998 tại Burke, Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 68 tuổi.
[8] Tướng Văn Tiến Dũng thú nhận:" Năm 1968 đánh Pleiku vất vả lắm, chỉ chiếm giữ được đài phát thanh thôi, nhưng được ba ngày sau cũng phải rút.” (Đại thắng mùa xuân 1975, tr.87). Vì có mâu thuẫn với Tổng bí thư Lê Duẩn, tướng Võ Nguyên Giáp không nhắc vụ Tết Mậu Thân trong Tổng tập hồi ký