← Quay lại trang sách

Chương Mười Hòa bình mong manh

Bình cùng phái đoàn CTCT trong đó có Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư lệnh Quân đoàn 4 và Thiếu tướng Phạm Quốc Thuần, Tư lệnh Quân đoàn 3 đi tham quan công tác CTCT tại Đài Bắc vào mùa hè 1969, được Đại tướng Trần Thiện Khiêm đang làm Đại sứ VNCH tại đây tiếp thân mật. Coi bộ ông không được vui với chức vụ khiêm tốn ở đảo quốc này và có ý chờ đợi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đưa về nước giữ chức vụ quan trọng hơn. Hai ông vẫn thân nhau từ trước.

Tướng Thiệu từ khi được bầu làm Tổng thống đã củng cố quyền lực bằng cách đưa các tướng lãnh thuộc phe mình nắm các chức vụ then chốt trong quân đội và cảnh sát, thay phe thân ông Kỳ. Ông còn lập Đảng Dân Chủ để tạo thêm hậu thuẫn trong chính quyền. Ngày 25 tháng Năm 1968, ông Trần Văn Hương được cử làm Thủ tướng thay ông Nguyễn Văn Lộc. Ông Hương giữ chức vụ này đến tháng Chín 1969.

Vào thời điểm này, một người mà ông Thiệu chú trọng hơn cả là Đại tướng Trần Thiện Khiêm. Điều này cũng dễ hiểu vì ông Thiệu muốn trả cái ơn mà Tướng Khiêm đã dành cho ông được đóng vai trò chính trong cuộc đảo chính ngày 1 tháng Mười Một, 1963, lúc ấy ông đưa Sư đoàn 5 về lật đổ ông Diệm. Từ đó ông Thiệu mới có cơ hội bay bổng tới chức Tổng thống VNCH. Quả nhiên ông Thiệu đã triệu hồi Tướng Khiêm từ Đài Bắc về làm Tổng trưởng Nội vụ, rồi làm Phó Thủ tướng cho ông Hương. Sau đó Tướng Khiêm lên thay ông Hương giữ chức Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng từ tháng Chín, 1969. Diều đã gặp gió. Tướng Khiêm ngồi ở chức Thủ tướng suốt hai nhiệm kỳ của Tổng thống Thiệu.

Riêng chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH, ông Thiệu giao cho Thiếu tướng Cao Văn Viên từ tháng 10, 1965, tuy không được ông tin cậy bằng Trung tướng Đặng Văn Quang song lại được lòng Phái bộ Viện trợ Quân sự Mỹ (MACV) hơn Tướng Quang. Vả lại Tướng Viên có thái độ ôn hòa, không có tham vọng chính trị. Tướng Viên sau lên Đại tướng, phục vụ suốt hai nhiệm kỳ của Tổng thống Thiệu [1]

Một bước tiến triển mới của tình hình chiến sự sau tết Mậu Thân là các hoạt động quân sự của Việt Cộng lắng xuống mà ta có thể hiểu là địch đang cần thời gian bổ sung quân số, chỉnh đốn hàng ngũ sau những tổn thất nặng nề của cuộc tổng công kích, tổng nổi dậy.

Ngày 31 tháng Năm, 1968, Bắc Việt chịu ngồi vào bàn hội nghị Paris tại Pháp, theo lời kêu gọi của Tổng thống Johnson.

Hội nghị diễn ra tại lâu đài La Celle Saint Cloud ở Paris (vùng Yvelines). Mới đầu Xuân Thủy, đại diện Bắc Việt đòi Mỹ ngưng ném bom miền Bắc, đòi cho Mặt trận Giải Phóng Miền Nam, được ngồi vào bàn hội nghị. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không chấp nhận MTGPMN là một thực thể chính trị để ngồi vào bàn hội nghị ngang hàng với VNCH, nên đã không cử phái đoàn đi họp vì như vậy là VNCH mất thể diện quốc gia và quốc tế.

Thực tế cái gọi là MTGPMN chỉ là tấm bình phong do CSBV dựng lên để đánh lừa Mỹ và công luận quốc tế. Nhân dân miền Nam lại càng thấy rõ MTGPMN chỉ gồm những phần tử Cộng sản nằm vùng khủng bố nhân dân, giết hại các cán bộ xã ấp, âm mưu lật đổ chính quyền VNCH. Mặt trận bao gồm cả những đơn vị bộ đội BV xâm nhập miền Nam để thực hiện ý đồ xâm lăng của đảng Cộng sản.

Cũng bởi Tổng thống Johnson muốn sớm có giải pháp danh dự để rút quân Mỹ ra khỏi VN, nên ngày 18 tháng Giêng,1969, phía Mỹ đồng ý để MTGPMN tham dự cuộc hòa đàm. Mỹ cũng gây áp lực VNCH ngồi vào bàn hội nghị để cuộc hòa đàm được tiến hành suôn sẻ. Do đó có bốn phái đoàn tham dự cuộc hòa đàm: Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) và Mặt trận GPMN do bà Nguyễn Thị Bình cầm đầu phái đoàn.

Ngày 1 tháng Mười Một, 1968, Mỹ ngưng thả bom Bắc Việt. Theo báo chí Mỹ, trong ba năm rưỡi ném bom Bắc Việt, số bom do phi cơ Mỹ thả bằng số bom dùng trong Đệ nhị Thế chiến. Phía Mỹ mất 900 máy bay các loại (con số do BV đưa ra cao gấp 4 lần); phía BV mất 121 máy bay Mig.

Thật bất ngờ, ông Johnson tuyên bố không tái ứng cử tổng thống năm 1969 vì ảnh hưởng cuộc chiến Việt Nam kéo dài mà không mang lại thắng lợi cụ thể như ý ông mong muốn.

Thêm một biến cố nữa là ngày 2 tháng Chín

1969, ông Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước VNDCCH qua đời sau cơn bệnh kéo dài, thọ 79 tuổi. Trọn đời ông Hồ đã phục vụ cho Cộng sản Quốc tế và đem chủ nghĩa Cộng sản vào đất nước ta, gây bao tang tóc đau thương cho dân tộc.

Theo các sử liệu, ông Hồ tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi tên là Nguyễn Tất Thành, sinh ngày 19 tháng Năm, 1890 tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông rời khỏi nước vào năm 1911, qua Pháp sống nhiều nghề rồi qua Liên Xô học chủ nghĩa Marx -Lenin.

Ngược dòng thời gian, sau khi cuộc Cách mạng Tân Hợi, 1911 do Tôn Trung Sơn lãnh đạo đã lật đổ triều đình Mãn Thanh và thiết lập chính quyền dân chủ đầu tiên ở Trung Hoa, nhiều nhà cách mạng Việt Nam qua Trung Hoa hoạt động để xây dựng các tổ chức yêu nước chống thực dân Pháp, trong đó có các ông Phan Bội Châu, Nguyễn Hải Thần, Hồ Học Lãm. Hồ Chí Minh khi ấy mang tên Nguyễn Ái Quốc, cũng có mặt ở Quảng Châu, Trung Hoa năm 1924 để hoạt động bí mật cho Cộng sản Quốc tế và phụ trách Bộ phương Đông, Cục phương Nam.

Tháng Bảy, 1925, Nguyễn Ái Quốc dưới bí danh Lý Thụy hoạt động ở Quảng Đông, đã âm mưu với Lâm Đức Thụ mật báo cho Pháp bắt ông Phan Bội Châu tại Thượng Hải đem về nước giam lỏng ở Huế rồi qua đời ngày 29 tháng Mười, 1940. Mục đích của Lý Thụy là dập tắt thanh thế của ông Phan Bội Châu và phong trào Đông Du cầu học, đồng thời lôi kéo các phần tử quốc gia theo mình dưới danh nghĩa Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, gọi tắt là Thanh Niên.

Ngày 3 tháng Hai, 1930 tại Hương cảng, Nguyễn Ái Quốc đã tập hợp các phe nhóm Cộng sản Việt thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau mỗi giai đoạn, đảng được đổi thành: Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ ngày 6 tháng Sáu 1931 đến tháng Hai 1933, Nguyễn Ái Quốc bị Anh bắt giam ở Hương Cảng vì hoạt động cho Cộng sản Quốc tế. Nguyễn Ái Quốc qua Liên Xô hoạt động vào tháng Bảy 1934. Tháng Năm

1941, Nguyễn Ái Quốc về Pắc Bó, Cao Bằng, hoạt động cho đảng CSĐD, chờ thời cơ cướp chính quyền trong tay Nhật-Pháp. Tháng Tám 1942, Nguyễn Ái Quốc qua Trung Hoa vận động quốc tế hỗ trợ thì bị Tưởng Giới Thạch bắt giam 14 tháng mới thả ra. Người quốc gia còn nhớ danh từ Việt Minh xuất hiện ngày 19 tháng Năm 1941 là do Nguyễn Ái Quốc (2) đã đổi Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội của ông Nguyễn Hải Thần thành Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Việt Minh, nhằm thu hút các phần tử quốc gia theo Việt Minh. Sau khi cướp được chính quyền ngày 19 tháng Tám, 1945, ông Hồ và đảng Cộng Sản đã cai trị nhân dân bằng chính sách độc tài đảng trị, bóp nghẹt tự do, dân chủ.

Qua năm 1969, Tổng thống Richard M. Nixon tuyên bố Việt Nam hóa chiến tranh và rút dần quân Mỹ ra khỏi miền Nam; các phi vụ B. 52 cũng đã cắt giảm. Trong khi đó quân đội Đồng minh đã rút khỏi miền Nam. Ông Nixon đã yêu cầu Bắc Việt rút hết quân đội của họ ra khỏi miền Nam để sớm tái lập hòa bình tại đây. Năm 1970 chỉ còn 334.600 quân Mỹ ở miền Nam; giảm hơn 200.000 quân.

Về phần quân đội VNCH, sau khi đập tan cuộc tổng công kích tết Mậu Thân 1968 của Việt Cộng, qua năm 1970, quân đội đã dồn các hoạt động vào mục tiêu triệt hạ cơ quan đầu não cùng cơ sở hậu cần của CSBV tại biên giới Kampuchea và Lào, bàn đạp để tiếp tế cho Cộng quân ở miền Nam. Tháng Tư, 1970, liên quân Việt Mỹ dưới quyền chỉ huy của Trung tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh Quân đoàn 3, đã mơ cuộc hành quân Toàn Thắng vào vùng Mỏ Vẹt, Kampuchea, nhằm triệt hạ Cục R, tức Trung ương Cục miền Nam của CSBV, gần biên giới tỉnh Tây Ninh.

Đồng thời Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư lệnh Quân đoàn 4, cũng chỉ huy 4 chiến đoàn bộ binh và thiết giáp mở cuộc hành quân tiễu Cộng sâu vào biên giới Kampuchea để tiến lên tiếp xúc với cánh quân của Tướng Trí. Song Tướng Thanh đã bị ngộ nạn phi cơ trực thăng tại biên giới thuộc địa phận tỉnh Kiến Tường ngày hôm sau của cuộc hành quân. Ông được truy thăng Trung tướng sau tai nạn này. Là một tướng lãnh thanh liêm, hết lòng với nhiệm vụ và luôn ăn chay trường, Tướng Thanh đã được sự kính nể của quân và dân Vùng 4.

Cuộc hành quân hỗn hợp Việt Mỹ gồm 6 sư đoàn đã gây cho Việt Cộng những tổn thất nặng nề. Hơn 11.000 Cộng quân thuộc Công trường 7 tức Sư đoàn 7 VC và các đơn vị biệt lập đã bị hạ. Tướng Nguyễn Thế Bổn, Tư lệnh Công trường 7, Đại tá VươngThế Hiệp, Chính ủy Công trường 7 đều bị tử thương. Liên quân Việt-Mỹ đã thu được 143.000 trái pháo các loại, 199.000 dây đạn cao xạ, 25.000 vũ khí và phá hủy 435 xe tải cùng nhiều kho gạo dự trữ.

Ngoài những vũ khí do Liên xô chế tạo, ta còn thu được những vũ khí, quân nhu, quân cụ, quân y do Trung Cộng chế tạo. Theo ước tính, số lượng vũ khí lớn lao bị tịch thu kể trên đủ cho Việt Cộng sử dụng trong một năm tại chiến trường miền Nam. Một số chiến lợi phẩm trong các cuộc hành quân Toàn Thắng đã được đưa về triển lãm tại sân vận động Hoa Lư gần Thảo Cầm Viên Saigon trong một tuần cho dân chúng và người nước ngoài coi. Cuộc hành quân tạm thời chấm dứt vào tháng Sáu, 1970.

Qua tháng 1 năm 1971, Trung tướng Đỗ Cao Trí đã mở tiếp cuộc hành quân Toàn Thắng nhắm đánh vào Cục R tại Kratie trên đất Miên, cách Lộc Ninh ngót 100 cây số. Lực lượng hành quân gồm các tiểu đoàn Biệt động quân, pháo binh và thiết đoàn họp thành chiến đoàn 5 BĐQ, chiến đoàn 333 BĐQ. Ngoài ra có Lữ đoàn 3 Kỵ binh cùng các đơn vị tăng phái và sự yểm trợ của không quân Hoa Kỳ. Cuộc hành quân đang tiếp diễn thì Trung tướng Đỗ Cao Trí bị tử nạn máy bay trực thăng ngày 23-2- 1971 tại Tây Ninh, ông được truy thăng Đại tướng sau tai nạn này. Đại tướng Đỗ Cao Trí được ca ngợi là vị tướng có tài, đã từng gây cho Cộng quân nhiều tổn thất lớn lao.

Lực lượng hành quân của ta đã phá hủy các cơ sở hậu cần Việt Cộng và gây tổn thất cho hai sư đoàn Cộng quân là Công trường 7, 9 và một trung đoàn đặc công.

Sang tháng Hai, 1971.QLVNCH đã mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 qua Hạ Lào để triệt tiêu các cơ sở hậu cần của CSBV. Cuộc hành quân được đặt dưới quyền chỉ huy của Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Quân đoàn 1. Lực lượng tham chiến gồm có sư đoàn 1 Bộ binh, Liên đoàn 1 Biệt động quân, Nhảy dù, Thủy quân lục chiến, Thiết giáp, Pháo binh và sự yểm trợ của không quân Hoa Kỳ.

Trong trận này, hai Sư đoàn CSBV là 306 và 320 đã bị tổn thất nặng nề: 15.000 cán binh địch đã bị hạ trong các cuộc giao chiến và B.52 oanh tạc. Nhiều kho vũ khí, đạn dược và ống dẫn xăng dầu từ miền Bắc vào đã bị phá hủy. Hạ Lào vẫn được CSBV coi là mắt xích an toàn trong hệ thống tiếp vận của chúng vào miền Nam đã bị QLVNCH triệt tiêu.

Về mặt chính trị, tháng Chín, 1971, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu lại ra ứng cử Tổng thống nhiệm kỳ 2, chung liên danh với ông Trần Văn Hương ứng cử Phó Tổng thống. Vì muốn ngăn cản hai Tướng Nguyễn Cao Kỳ và Dương Văn Minh cũng ra ứng cử Tổng thống, ông Thiệu đã vận động đa số dân biểu thuộc phe ông sửa luật bầu cử khiến các ông Kỳ và Minh không hội đủ số chữ ký giới thiệu của các dân biểu nên đã phải rút lui. Kết quả chỉ có liên danh Tướng Thiệu và ông Hương trúng cử. Báo chí và dư luận đã chỉ trích màn ứng cử độc diễn này của ông Thiệu.

Sau khi trúng cử Tổng thống, ông Thiệu vẫn để Đại tướng Trần Thiện Khiêm tiếp tục giữ chức Thủ tướng.

Ngày 17 tháng Hai, 1972, Tổng thống Nixon thực hiện chuyến thăm hữu nghị Trung Cộng. Đây là bước ngoại giao đầu tiên của Mỹ với Trung Cộng kể từ sau khi Trung Cộng chiếm được Hoa Lục năm 1949, đẩy Tưởng Giới Thạch ra đảo Đài Loan. Qua cuộc hội đàm với Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai, ông Nixon ngỏ ý muốn Bắc Kinh dùng ảnh hưởng của mình để thuyết phục Hà Nội từ bỏ ý đồ xâm lăng miền Nam VN. Làm như vậy, Mỹ sẽ rút quân ra khỏi VN trong danh dự.

Sau khi ông Nixon thăm Bắc Kinh, Lê Duẩn, Tổng bí thư đảng CSVN vội vàng sang thăm Mao Trạch Đông, được họ Mao khuyến dụ nên trường kỳ mai phục và rút hết bộ đội BV ra khỏi miền Nam để đổi lấy hòa bình. Có thể đây là chiến lược của họ Mao muốn ngăn chặn bước tiến của CSBV xuống phía Nam và lấy lòng Mỹ. Bắc Việt vẫn chưa quên năm 1954, chính Chu Ân Lai đã ép Bắc Việt nhận vĩ tuyến thứ 17 thay vì vĩ tuyến thứ 16 để đổi lấy sự thỏa thuận của Pháp trong việc chia đôi Việt Nam thành hai miền Nam, Bắc.

Tính đến 1972, theo kế hoạch ‘‘Việt Nam hoá chiến tranh”, Tổng thống Nixon đã cho rút 512.100 quân Mỹ về nước, trong tổng số 536.100 quân đã được đưa vào miền Nam VN; số còn lại 24.200 quân sẽ được rút về hết. Trong khi đó cuộc hoà đàm Paris vẫn chưa có tiến triển cụ thể.

Lợi dụng thời gian Mỹ rút gần hết quân số và phong trào phản chiến còn đang sôi động ở nước Mỹ, đảng CSVN ra nghị quyết tập trung 10 trong số 13 sư đoàn chính quy với hỏa lực hùng mạnh do khối Liên Xô viện trợ, mở 3 cuộc tấn công vào Quảng Trị, Kon tum và Bình Long nhằm chia cắt lãnh thổ VNCH thành từng khúc và tiếp sức cho Việt Cộng tổng nổi dậy khi thời cơ thuận lợi.

Ngày 30 tháng Ba, 1972, Bắc Việt tung 5 Sư đoàn 304, 308, 312, 320B, 325 cùng một số trung đoàn biệt lập, pháo 130 ly, hỏa tiễn 122 ly, xe tăng T54, xe lội nước PT.76, ào ạt vượt sông Bến Hải và vùng phi quân sự tiến vào Quảng Trị. Lực lượng bảo vệ vùng địa đầu giới tuyến có Sư đoàn 3 Bộ binh mới được thành lập trong sáu tháng do Chuẩn tướng Vũ Văn Giai làm Tư lệnh, 3 Lữ đoàn Thủy quân lục chiến 147, 258, 369, 2 Liên đoàn Biệt động quân 5, 6, Lữ đoàn 1 Thiết Giáp, cùng Địa phương quân và Nghĩa quân Tiểu khu Quảng Trị.

Trước lực Iượng địch đông gấp bốn lần, thị xã Đông Hà, Ái Tử và cổ thành Quảng Trị đã bị Cộng quân chiếm giữ. Quốc lộ 1 từ Quảng Trị về Mỹ Chánh dài ngót 20 cây số đã trở thành Đại Lộ Kinh Hoàng với cảnh tang tóc thê thảm trong đoàn người di tản gồm dân và quân rút lui khỏi Quảng Trị. Pháo 130 ly của Cộng quân có tiền sát viên là bộ đội ngụy trang lính VNCH chỉ mục tiêu, đã bắn thẳng vào đoàn người và xe cộ di chuyển, gây chết chóc cho vô số thường dân, trẻ em, phụ nữ và người già yếu.

Mặc dù ít hơn địch về quân số và hoả lực, các đơn vị VNCH ở Quảng Trị đã giáng trả địch những đòn mạnh mẽ trước khi rút khỏi thị xã. Phía Cộng quân đã bị tổn thất nặng nề: hai Sư đoàn 304, 308 Bắc Việt bị mất quá nửa quân số, nhiều chiến xa địch đã bị phá hủy bởi hỏa lực và chiến xa M 48 của ta

Hơn hai tháng sau, ngày 9 tháng Sáu, 1972, quân đội VNCH đã tái chiếm Quảng Trị. Dưới quyền chỉ huy của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, tân Tư lệnh Quân Đoàn 1 và Vùng 1 thay thế Trung tướng Hoàng Xuân Lãm. Tướng Trưởng được tiếng thanh liêm và có tài dụng binh, đã từng lập nhiều chiến công tại trận tiền.

Lực lượng tái chiếm gồm Sư đoàn Thủy Quâ Lục Chiến, Sư đoàn Dù, Sư đoàn 1 Bộ binh, Lữ đoàn 1 Biệt động quân cùng các đơn vị Thiết giáp, Pháo binh. Ngoài ra có sự yểm trợ của B 52, hải pháo Hoa Kỳ và Không quân VNCH. Trận đánh giáp lá cà với địch đã diễn ra ngay trong các hầm hố và lá cờ vàng ba sọc đỏ đã tung bay trở lại trên cổ thành Quảng Trị. Đám Cộng quân còn lại phải bỏ chạy tán loạn khiến các xe tăng và xe lội nước chồng chất lên nhau chạy không kịp, bị Cộng quân bỏ lại cùng với nhiều khẩu đại bác, vũ khí và xe cộ.

Đầu tháng Tư 1972, tướng BV Hoàng Minh Thảo (đã từng dự trận đánh Điện Biên Phủ năm 1954) chỉ huy Sư đoàn 320 Bắc Việt và Sư đoàn 2 Sao Vàng tấn công vào thị xã Kontum. Địch bố trí các khẩu pháo 130 ly trên các ngọn đồi có sương mù bao quanh thị xã, bắn dồn dập vào các vị trí quân đội VNCH để mở đường cho xe tăng T54 và bộ binh tiến vào thị xã.

Tại vòng ngoài thị xã, Cộng quân đã vấp phải sức kháng cự mạnh mẽ của Trung đoàn 45, thuộc sư đoàn 23 Bộ binh do Chuẩn tướng Lý Tòng Bá làm Tư lệnh và chỉ huy cuộc tủ thủ Kontum. Một đơn vị địch vào được thị xã liền bị Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 Bộ binh đẩy lui và truy diệt. Sau đó, Cộng quân đã phái rút lui toàn bộ khỏi thị xã Kon tum, một thị xã nhỏ bé mà Cộng quân cũng phải bó tay!

Tại Bình Long, tỉnh lỵ cách Saigon 90 cây số về phía tây bắc, các trận đánh lớn đã bùng nổ vào đầu tháng Tư, 1972. Mở đầu, Cộng quân bắn hàng ngàn quả đạn pháo 130 ly, hỏa tiễn 122 ly vào quân lỵ Lộc Ninh và thị xã An Lộc để yểm trợ cho các Sư đoàn 5,7,9 và một số trung đoàn biệt lập cùng xe tăng T54 mở các đợt tấn công vào hai vị trí này.

Lực lượng phòng thủ của VNCH chỉ có một trung đoàn thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh, Liên đoàn 3 Biệt động quân, Liên đoàn 81 Biệt cách Dù, Thiết đoàn 1 Kỵ binh và pháo 105 ly của Tiều khu. Về sau có thêm Lữ đoàn 1 Dù vào An Lộc. Quân số ta chỉ bằng 1/4 quân số địch nhưng tinh thần chiến đấu rất vững vàng.

Sáng 6 tháng 4, Chuẩn tướng Lê Văn Hưng và một số sĩ quan đáp trực thăng từ Lai Khê nhảy vào An Lộc để chỉ huy cuộc tử thủ. Sau khi chiếm quận lỵ Lộc Ninh ngày 7 tháng 4, Cộng quân dồn nỗ lực tấn công thị xã An Lộc với chiến thuật tiền pháo hậu xung. Thị xã nhỏ bé này đã phải hứng chịu các cuộc pháo kích dữ dội và các đợt tấn công ồ ạt của Cộng quân từ ngày 13 tháng Tư đến ngày 9 tháng Sáu. Trước tinh thần tử thủ không hề lay chuyển của quân đội VNCH tại An Lộc, Cộng quân đã phải rút lui. Không quân VNCH và B.52 Hoa Kỳ đã hỗ trợ đắc lực cho bộ binh ta tác chiến tại đây.

Đặc biệt dân chúng trong thị xã dù đã phải chịu cảnh chết chóc, nhà cửa bị đổ nát vì đạn pháo của địch, vẫn tỏ ra bình tĩnh và hỗ trợ quân đội chống trả Cộng quân. Nghĩa quân và thanh niên cũng đã gan dạ dùng súng M 72 bắn cháy xe tăng địch trên các đường phố.

Trong khi đó các xạ thủ súng cao xạ và bộ đội Cộng sản lái xe tăng đã bị cấp chỉ huy xích chân vì sợ bỏ chạy. Bộ đội bị ta bắt khai rằng các cán binh trước khi ra trận được chích thuốc kích thích của Trung Cộng để không sợ chết! Đó là hai hình ảnh trái ngược về tinh thần chiến đấu của ta và địch. Ta thì quyết chiến để giữ lấy đất, còn địch thì nao núng về tinh thần.

Trong khi An Lộc còn giao tranh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu với cương vị Tổng tư lệnh đã bay tới nơi để khen ngợi tinh thần chiến đấu quả cảm của các chiến sĩ QLVNCH.

Cuộc tấn công mùa hè năm 1972 đã đem lại sự thất bại cho CSBV trong mưu đồ chiếm thêm đất để tạo lợi thế trên bàn hội nghị. Cộng quân bị tổn thất 100.000 bộ đội, so với QLVNCH bị tổn thất 25.000 chiến sĩ.

Trong lúc chiến trường ở Việt Nam sôi sục, thì phong trào phản chiến ở Mỹ lên cao. Từ năm 1964, phong trào phản chiến đã khởi sự tại diễn đàn Free Speech (Tự do ngôn luận) của nhóm sinh viên Đại học Berkely, thuộc tiểu bang Califomia; họ đòi Mỹ bất can thiệp vào chiến tranh VN và rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam VN. Thêm vào đó nữ tài tử Jane Fonda qua Hà Nội chụp hình với bộ đội phòng không Bắc Việt đã từng bắn hạ máy bay Mỹ làm cho dư luận Mỹ phẫn nộ.

Phong trào phản chiến được thể lan rộng ra một số trường đại học Mỹ, trợ thủ cho nỗ lực tuyên truyền chống Mỹ của phe CS, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến tinh thần chiến đấu của quân đội Mỹ ở miền Nam VN.

Phong trào phản chiến và các cuộc biểu tình của dân chúng Mỹ chống chiến tranh Việt Nam, trong đó có các lời kêu gọi hòa giải với Cộng sản và kích động vấn đề bách hại chủng tộc giữa da trắng và da vàng, đã gây thêm sức ép để Tổng thống Nixon đẩy mạnh chủ trương Việt Nam hóa chiến tranh[3]

Mặt khác giới truyền thông Mỹ đã thông tin thiên lệch về cuộc chiến VN. Tổng thống Nixon đã nhận xét về giới truyền thông Mỹ như sau:

“Vào thời điểm tôi đã trở thành Tổng thống (năm 1969J, tôi cảm thấy cách thức hướng dẫn và tường thuật cuộc chiến Việt Nam đã làm cho tinh thần và niềm tự tin của nước Mỹ bị suy sụp.” I felt that by the time I had become President the way the Vietnam war had been conducted and reported had worn down America’s spirit and sense of confidence[4]

Ngày 16 tháng Tư, 1972, Tổng thống Nixon cho lệnh tái oanh tạc Bắc Việt và phong tỏa cảng Hải Phòng bằng mìn để áp lực phía Cộng sản rút hết quân BV ra khỏi miền Nam và cuộc hòa đàm Paris giữa bốn bên sớm đi đến chỗ kết thúc. Ngày 8 tháng Mười năm 1972, Lê Đức Thọ và phái đoàn CSBV đưa bản Hiệp định ngưng bắn do họ soạn thảo ra bàn tại hội nghị Paris. Bản hiệp định đề cập đến các vấn đề thiết yếu sau:

-Các bên ngưng bắn tại chỗ.

-Quân ngoại quốc rút hết ra khỏi miền Nam.

-Trao đổi tù binh giữa các bên.

-Thiết lập Hội đồng Hòa hợp Hòa giải ba thành phần (VNCH, MTGPMN và Trung Lập) Hội đồng này có nhiệm vụ tổ chức cuộc tổng tuyển cử tại miền Nam Việt Nam để ấn định thể chế tương lai cho miền Nam.

Tuyệt nhiên không thấy ghi quân Bắc Việt phải rút hết ra khỏi miền Nam VN và ấn định quy chế vùng phi quân sự tại vĩ tuyến thứ 17!

Các cuộc họp kế tiếp giữa bốn bên vẫn không đi đến đâu; phái đoàn Cộng sản vẫn dùng các luận điệu quanh co, lúc thì bảo: “Không có bộ đội miền Bắc ở miền Nam’’; lúc thì bảo: “ Người Việt Nam có quyền đi bất cứ đâu”. Họ không hề đá động đến việc rút quân chính quy Bắc Việt ra khỏi miền Nam.

Ngày 18 tháng Mười, Ngoại trưởng Mỹ, ông Henry Kissinger, người cầm đầu phái đoàn Mỹ tại cuộc hòa đàm Paris đến Saigon gặp Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, mang theo lá thư của Tổng thống Nixon thúc giục ông Thiệu chấp nhận hiệp định ngưng bắn và hứa sẽ có phản ứng thích hợp nếu phía Cộng sản vi phạm hiệp định. Sau đó ông Thiệu đã đưa ra bản phản đề nghị cho ông Kissinger bao gồm mấy điểm chính như sau:

-CSBV phải rút hết quân của họ ra khỏi miền Nam Việt Nam.

- Quyền tự quyết về chính trị của nhân dân miền Nam phải được bảo đảm.

- Vùng phi quân sự tại vĩ tuyến thứ 17 phải được đôi bên tôn trọng.

- Đề nghị 6 tháng sau khi hiệp định được ký kết sẽ có cuộc bầu cử tự do tại miền Nam để bầu tổng thống, có sự giám sát của quốc tế. Về điểm đề nghị này của ông Thiệu có ý tránh cho Hội đồng Hòa hợp Hòa giải 3 thành phần sẽ dễ dàng trở thành một thứ chính phủ liên hiệp khi quân CSBV còn hiện diện ở miền Nam.

Các phản đề nghị trên của VNCH đã được ông Kissinger đưa ra bàn hội nghị ngày 13 tháng Mười Hai cho phía Cộng sản tu chỉnh, song Lê Đức Thọ vẫn tỏ thái độ ngoan cố và không chấp nhận. Sau đó Thọ bỏ về Hà Nội, nói là để tham khảo ý kiến của Bộ chính trị.

Để áp lực CSBV phải trở lại cuộc hòa đàm và sửa đổi các điều khoản theo đề nghị của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, ngày 14 tháng Mười Hai, Tổng thống Nixon ra lệnh cho các máy bay B.52 từ Thái Lan và Guam chuẩn bị tới oanh tạc các mục tiêu quân sự ở Hà Nội và Hải Phòng.

Ngày 17 tháng Mười Hai, các máy bay Mỹ lại thả mìn xuống cảng Hải Phòng, hôm sau máy bay Mỹ oanh tạc các mục tiêu ở Hà Nội và Hải Phòng. Tướng Võ Nguyên Giáp có kể lại chuyện này như sau: “Chiều ngày 18 tháng 12 năm 1972, chiếc chuyên cơ BH 195 (đây là chiếc chuyên cơ trước đó dành riêng cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, nên được mang ký hiệu BH (Bác Hồ) và ngày sinh của Người (19-5) đưa anh Lê Đức Thọ về nước đáp xuống sân bay Gia Lâm lúc 16 giờ 45 phút. Cũng khoảng thời gian ấy, Níchxơn gửi công hàm như một tối hậu thư, hạn trong 72 giờ ta phải trở lại bàn đàm phán theo những điều kiện của Mỹ. ”[5] về cường độ của các máy bay B.52 thả bom ở Hà Nội, Giáp kể “Đã có lúc căn hầm chỉ huy kiên cố của Tổng hành dinh rung chuyển như động đất [6]

Bom bỏ lạc xuống phố Khâm Thiên, Hà Nội và bệnh viện Bạch Mai. Cuộc bỏ bom B. 52 ở Hà Nội đã làm cho giới lãnh đạo đảng Cộng sản thực sự lo ngại. Như vậy sau khi Mỹ đã giáng một đòn trên không thật đau, CSBV mới chịu nhích thái độ ngoan cố của họ.[7]

Ngày 29 tháng Mười Hai, Mỹ ngưng ném bom phía trên vĩ tuyến thứ 20 tại Bắc Việt, sau khi Lê Đức Thọ đồng ý trở lại bàn hội nghị ngày 8 tháng Giêng để tiếp tục cuộc hòa đàm. Tuy nhiên cuộc hòa đàm vẫn giậm chân tại chỗ vì thái độ ngoan cố trở lại của phía Cộng sản. Mỹ nôn nóng muốn hiệp định sớm được ký kết để đưa các tù binh Mỹ về nước và rút hết quân đội ra khỏi miền Nam nên đã ép Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chấp nhận bản hiệp định. Cuối cùng bản Hiệp định Ngưng bắn đã được bốn bên ký ngày 27 tháng Giêng năm 1973. Quân Bắc Việt vẫn ở lại miền Nam là một sự thua thiệt cho VNCH, một sự nhượng bộ của Mỹ cho CSBV trong ý đồ thôn tính miền Nam.

Trong cuộc nói chuyện với các cán bộ ngành CTCT tại rạp Thống Nhất, Saigon, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố ông không tin Cộng sản tôn trọng hiệp định Paris. Ông nói dứt khoát: “Nếu Việt Cộng bắn ta 1, ta phải bắn lại 10." Ông đã có kinh nghiệm chiến đấu với Cộng sản: năm 1952 ông là trung úy Quân đội Quốc gia, phụ tá phòng 3 hành quân tại vùng Hưng Yên, Bắc Việt, nên ông hiểu chiến thuật của Cộng sản.

Trước khi bản Hiệp định Paris được ký kết, Bộ Tổng tham mưu QLVNCH đã có kế hoạch Trần Hưng Đạo chỉ thị các đơn vị cắm quốc kỳ cờ vàng ba sọc đỏ dọc các đường ranh do quân đội ta kiểm soát để đề phòng Việt Cộng thực hiện âm mưu lấn đất giành dân.

Năm 1973, ủy ban giải thưởng Hòa bình Nobel Thụy Điển đã trao giải thưởng Hòa bình chung cho Ngoại trưởng Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, kẻ đã coi hiệp định Paris như một đòn bẩy đưa Mỹ ra khỏi miền Nam VN, và coi đó như một lá chắn cho Cộng quân chuẩn bị thôn tính miền Nam. Lê Đức Thọ đã không dám nhận giải thưởng này vì y chỉ là một thành viên trong Bộ chính trị và tự xét CS còn tiếp tục chiến tranh.

Còn với ông Kissinger, chẳng những ông đã mang lại một nền hòa bình thật mong manh cho miền nam Việt Nam; mà ông còn nhượng bộ CSBV để quân chính quy ở lại miền Nam hầu dễ bề thôn tính VNCH. Đây là mặt trái của cuộc chiến VN, một cuộc chiến mà Mỹ đã cam kết hỗ trợ VNCH chống Cộng sản xâm lược đến thắng lợi cuối cùng để bảo vệ tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á[8]

Hơn 58.000 quân nhân Mỹ đã hy sinh trong cuộc chiến và dân tộc Việt Nam đã chiến đấu kiên cường chống Cộng suốt 25 năm không phải để miền Nam dễ dàng mất vào tay Cộng sản.

Ngày 29 tháng Ba năm 1973, các đơn vị Mỹ còn lại rút hết về nước; các phi công Mỹ bị bắt làm tù binh cũng đã được Hà Nội trao trả cho phía Mỹ. Riêng VNCH đã xúc tiến ngay việc trao trả hết số tù binh cho đại diện Cộng sản ở Lộc Ninh. Trong khi đó số quân nhân và dân sự VNCH bị Cộng sản bắt giữ chỉ được trao trả nhỏ giọt. Số phận của đa số tù binh VNCH còn bị Cộng sản giam giữ vẫn mù mịt trước những lời ngụy biện của đại diện Cộng sản trong Ủy ban quân sự bốn bên họp tại trại David, trong sân bay Tân Sơn Nhất.

Sau Hiệp định Paris, miền Nam lại đứng trước giai đoạn thử thách đầy khó khăn. Mỹ đã phủi tay; nguồn quân viện cho VNCH cạn kiệt trông thấy. Tình hình trở nên phức tạp do các cuộc biểu tình của dân chúng, tín đồ và các nhà báo chống chính phủ Nguyễn Văn Thiệu tham nhũng. Nổi bật là Phong trào Chống Tham nhũng do Linh mục Trần Hữu Thanh lãnh đạo gồm một số dân biểu tham gia. Trong khi đó Cộng quân vẫn vi phạm Hiệp định Paris qua các cuộc tấn công lấn đất giành dân ở Bình Định, Thường Đức thuộc Vùng 2. ở Vùng 3, Việt Cộng lấn chiếm tại Bình Dương.

Ngọc có người em ruột là Trần Anh Vỹ, thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh đã hy sinh trong trận chống trả Việt Cộng lấn chiếm đất đai ở đây vào ngày 9 tháng 6, 1973.

Tại Bình Long, tiền đồn Tống Lê Chân do Biệt động quân trấn đống đã bị Việt Cộng tấn công, bao vây nhiều ngày song không chiếm nổi. Sau đó ta rút đi vì vị trí nằm sâu trong rừng, trở ngại cho việc tiếp tế và tải thương.

Sau một thời gian làm việc tại Tổng cục Chiến tranh chính trị, Bình được đổi về Trung tâm Thi hành Hiệp định Paris thuộc Phủ Tổng thống để theo dõi việc thi hành hiệp định của các bên liên hệ.

Tại trại David trong phi trường Tân Sơn Nhất, phái đoàn quân sự VNCH luôn thảo luận nghiêm chỉnh việc thi hành các điều khoản về ngưng bắn Và trao trả tù binh, trái lại phía Cộng sản cứ dây dưa cốt kéo dài thời gian. Phía ta đã tổ cáo trước công luận việc Cộng sản thường xuyên vi phạm hiệp định Paris qua các cuộc tấn công lấn đất giành dân trên khắp lãnh thổ VNCH.

Chú thích:

[1] Vì quyền hành tập trung vào Tổng thống Thiệu, Tướng Viên đã nhiều lần xin từ chức mà không được chấp thuận.

[2] Theo sứ gia Pháp Daniel Hémery: Nguyễn Ái Quốc là tên chung của Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành ký trong bản yêu sách của người An Nam gửi Hội nghị Versailles Pháp họp ngày 28/6/1919, sau khi Đức đầu hàng Đồng Minh, kết thúc Thế chiến I. Hội nghị đề cập đến quyền tự cai trị của các dân tộc do Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson đưa ra. (Báo Thời Luận ngày 4/10/2007).

[3] Tại các trường đại học Mỹ còn lưu những tài liệu của phong trào phản chiến trong thập niên 1960. (Chú thích của tác giả).

[4] The Memoirs of Richard Nixon, xb năm 1978, tr. 350.

[5] Tổng Tập Hồi Ký của Võ Nguyên Giáp, xuất bản năm 2006, tr. 1143.

[6] Tổng Tập Hồi Ký của Võ Nguyên Giáp, Xuất bản năm 2006, tr. 1150.

[7] Sau này trong cuộc phỏng vấn ngày 29 tháng Giêng 2006, nhân kỷ niệm 33 năm ngày ký Hiệp định đình chiến Paris, bà Nguyễn Thị Bình, nguyên trưởng đoàn MTGPMN trong hòa hội Paris có trả lời phóng viên báo Nhân Dân về việc Mỹ cho B.52 ném bom 12 ngày đêm ở Hà Nội vào cuối tháng 12- 1972 như sau:“ Về mặt ngoại giao, chúng ta tuyên bố phản đối thái độ lật lọng, ngoan cố của Mỹ. Mặt khác ở Paris, chúng tôi rất lo. Ngay cả các nước bạn bè cũng rất lo. Vì B.52 là máy bay tối tân nhất lúc bấy giờ với phương tiện phá sóng ra đa và sức mạnh hủy diệt khủng khiếp. ”

[8] Nhật báo San Francisco ra ngày thứ Bảy, 27 tháng Năm, 2006 đã trích đăng vài chi tiết được Văn khố An ninh quốc gia của trường Đại học George Washington tiết lộ như sau: “Henry Kissinger quietly acknowledged to China in 1972 that Washington could accept a communist takeover of South Vietnam if that evolved after a withdrawal of U.S. troops." Nghĩa là năm 1972, Henry Kissinger đã ngầm cho Trung Cộng biết Hoa Thịnh Đốn có thể chấp nhận Cộng sản chiếm miền Nam Việt Nam nếu việc đó tiến triển sau khi Mỹ rút quân!