Chương Mười Một Cộng sản Bắc Việt xâm chiếm Việt Nam Cộng Hòa
Một năm làm việc tại Trung tâm thi hành Hiệp định Paris, Bình cảm thấy mọi việc ngừng trệ, bản hiệp định đã trở thành vô hiệu lực bởi chỉ có Việt Nam Cộng Hòa thi hành mà phía Cộng sản không thi hành, lại vi phạm rất nghiêm trọng. Cùng một số phận với hiệp định Genève 1954, hiệp định Paris 1973 cũng bị CS chà đạp. Nền hòa bình non yếu đang chết dần trong tay CS.
Gia đình Bình vừa trải qua một cái Tết ở căn nhà được quân đội cấp, nằm trong hẻm Ngã Sáu Saigon, nơi có tượng Thánh Gióng cỡi ngựa sắt tay vung khúc tre ngà thời kỳ chống giặc Ân.
Mới đầu năm 1974, tình hình chiến sự đã sôi động khác thường, như báo hiệu một điềm dữ cho miền Nam. Lần đầu tiên trận hải chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng Hòa và Trung Cộng đã xẩy ra tại quần đảo Hoàng Sa.
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm duới vĩ tuyến thứ 17; thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa.
Trải qua nhiều triều đại nối tiếp, hai quần đảo này vẫn là phần đất bất khả phân của Việt Nam. Trên các đảo Hoàng Sa và Trường sa đều có dựng bia chủ quyền của VNCH và có quân đội đồn trú. Tại Hoàng Sa có đài khí tượng của Việt Nam Cộng Hòa và Địa phương quân canh giữ đảo. Hoàng Sa trực thuộc địa phận tỉnh Quảng Nam và Trường Sa thuộc địa phận tỉnh Khánh Hoà. Các chiến hạm VNCH vẫn tuần tiễu quanh các đảo này để bảo vệ chủ quyền của mình.
Với tham vọng bành trướng đất đai và biển tại Nam Hải, Trung Cộng đã dòm ngó hai quần đảo này, trước mắt là chiếm Hoàng Sa. Theo các tài liệu và nhân chứng Hải quân VNCH tham gia trận đánh, thì diễn tiến trận hải chiến Hoàng Sa xẩy ra như sau: Ngày 11 tháng Giêng, 1974, Trung Cộng tuyên bố chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.Tiếp theo ngày 15 tháng Giêng, Trung Cộng cho các tàu chiến xâm nhập hải phận Hoàng Sa và đổ quân lên 4 đảo trong nhóm Nguyệt Thiềm gồm Duy Mộng, Quang Hòa, Cam Tuyền và Vĩnh Lạc; các đảo này không có quân ta đồn trú như trên đảo Hoàng Sa.
Ngày 16 tháng Giêng, tàu HQ-16 của VNCH ra Hoàng Sa tăng cường thấy có 2 tàu Trung Cộng ở đảo Cam Tuyền và Vĩnh Lạc, trên các đảo thấy có cắm cờ Trung Cộng. Sau đó tàu HQ-4 của ta ra tăng cường. Các tàu ta gọi loa yêu cầu tàu Trung Cộng rời khỏi hải phận. Tàu Trung Cộng ngoan cố nên HQ-4 húc mũi vào tàu Trung Cộng làm hư tháp chỉ huy vì tàu địch thấp nhỏ hơn. Sau đó tàu ta đổ biệt hải lên đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc nhổ cờ Trung Cộng. Thấy vậy, hai tàu Trung Cộng chạy về đảo Quang Hòa và Duy Mộng.
Ngày 17 tháng Giêng, Trung Cộng tăng cường 2 chiến hạm Kronstad tới các đảo Quang Hòa, Duy Mộng; khi gặp tàu ta tới gần đảo Quang Hòa chúng tỏ thái độ khiêu khích. Thấy tình hình căng thẳng, Hải quân VNCH phái thêm 2 chiến hạm HQ-5 và HQ-10 ra Hoàng Sa.
Ngày 18 tháng Giêng, các tàu ta hình thành thế trận đối đầu với các tàu Trung Cộng ở khu vực đảo Quang Hòa. Sáng ngày 19 tháng Giêng, một chiến hạm của ta đã đổ một số biệt hải lên tái chiếm đảo Quang Hòa nhưng không thành công, phải rút ra vì bị quân Trung Cộng áp đảo. Sau đó lúc 10 giờ 25 phút các chiến hạm ta đã nổ súng vào các chiến hạm Trung Cộng. Lực lượng ta có 4 chiến hạm gồm khu trục hạm Trần Khánh Du (HQ4), 2 tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ5), Lý Thường Kiệt (HQ 16) và hộ tống hạm Nhựt Tảo (HQ10). Phía Trung Cộng có 11 tàu gồm 2 chiến hạm Kronstad số 271, 274 và 2 trục lôi hạm số 389, 396. Số còn lại là tàu chở quân và các thuyền đánh cá có võ trang.
Tổn thất đôi bên được ghi nhận như sau: Trung Cộng có 1 chiến hạm Kronstad bị bắn chìm, 2 chiếc khác bị hư hại nặng. Phía VNCH có chiếc Nhựt Tảo bị chìm cùng thủy thủ đoàn, trong đó có Trung tá Ngụy Văn Thà, Hạm trưởng và Thiếu tá Nguyễn Thành Trí, Hạm phó. Ba chiếc còn lại bị hư hại về tới Đà Nẵng. 50 thủy thủ và biệt hải đã hy sinh, đa số thuộc tàu Nhựt Tảo. Ngay sau đó, Trung Cộng phái thêm tàu chiến ra tăng cường hải lực của chúng ở Hoàng Sa.
Ngày 20 tháng Giêng. Trung Cộng chiếm trọn các đảo Hoàng Sa. Số quân nhân và 6 nhân viên khí tượng VNCH ở đảo Hoàng Sa bị Trung Cộng bắt giữ được trả về Saigon tháng 3-1974, qua tòa Lãnh sự VNCH tại Hồng Kông. Trận hải chiến Hoàng Sa đã chứng tỏ tinh thần chiến đấu anh dũng của Hải quân VNCH. Mặc dầu lực lượng không cân xứng, Hải quân VNCH đã giáng cho Hải quân Trung Cộng một đòn quyết liệt, nêu cao hào khí Bạch Đằng Giang.
Phản ứng của Bắc Việt đối với trận hải chiến Hoàng Sa hoàn toàn tiêu cực. Đài Phát thanh Hà Nội đưa ra luận điệu:“ Hai bên thương lượng về Hoàng Sa?” Trong công hàm ngày 14 tháng Chín, 1958 gửi Chu
Ân Lai, Phạm Văn Đồng lúc ấy là Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đã công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Cộng, mặc nhiên hiến quần đảo Hoàng Sa cho Trung Cộng để đổi lấy sự giúp đỡ của đàn anh trong mưu đồ xâm lăng miền Nam [1]
Nhận xét về khả năng và tinh thần chiến đấu của QLVNCH, các nhà quân sự thế giới đã nhìn nhận quân đội ta có ưu thế về chiến thuật nên đã giành phần thắng trong các cuộc chiến đấu chống quân CSBV.
Ngày 8 tháng Tám 1974, Tổng thống Nixon đã phải tuyên bố từ chức trong nhiệm kỳ 2 vì vụ Watergate. Ủy ban Tư pháp Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu truất nhiệm ông Nixon vì ông không chịu trao các cuốn băng nghe lóm cuộc tranh cử Tổng thống năm 1972 của Đảng Dân Chủ tại khách sạn Watergate, Washington D.C. Trước khi từ chức, ngày 5 tháng Tám, 1974 ông Nixon mới trao các cuốn băng cho Ủy ban Tư pháp Hạ viện. Phó Tổng thống Gerald R. Ford lên nhậm chức Tổng thống thay ông Nixon. Việc ông Nixon từ chức đã ảnh hưởng đến cuộc chiến Việt Nam; các lời hứa của ông với Tổng thống Thiệu là sẽ ra tay can thiệp một khi CSBV vi phạm Hiệp định Paris đã bị chìm vào quên lãng.
Tháng 12/2007, Trung Quốc lập thành phố hành chính Tam Sa tại đảo Hải Nam để quản lý 3 quần đảo trên biển Đông trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, đã bị thanh niên, sinh viên trong nước và Việt Kiều hải ngoại biểu tình phản đối, mà không thấy nhà cầm quyền CS có thái độ phản đối Trung Cộng.
Ngày 6 tháng Giêng, 1975, sư đoàn 3 VC tấn công tỉnh lỵ Phước Long, cách Saigon 100 cây số về phía tây bắc. Lực lượng trú phòng tại thị xã Phước Long với sự yểm trợ của Không quân đã chống trả mãnh liệt các đợt tấn công của Cộng quân. Cuối cùng thị xã bị thất thủ vì quân số địch đông hơn và bên ta thiếu tiếp viện. Bình có người em là Thiếu úy Nguyễn Tiến Bông làm việc ở Tiểu khu Phước Long đã tham gia trận đánh này.
Tướng Võ Nguyên Giáp đã công nhận vai trò chủ yếu của CSBV trong việc tấn công vào thị xã Phước Long như sau: “ Trong hội nghị, các anh Phạm Hùng và Trần Văn Trà kịp thời xin ý kiến của đồng chí Bí thư thứ nhất và Quân ủy trung ương cho phép giải phóng luôn Phước Long (tức sau khi Cộng quân đã chiếm Đồng Xoài), có sử dụng một đại đội xe tăng, một đại đội pháo 130 ly. Anh Ba (tức Lê Duẩn) chấp nhận. Tôi cũng đồng ý. Ngày 31 tháng Mười Hai (1974), Quân đoàn 4 được tăng cường trung đoàn 16 bộ binh, hai tiểu đoàn pháo cao xạ, do Tư lệnh Hoàng Cầm trực tiếp chỉ huy, mở cuộc tiến công vào thị xã [2]
Tư lệnh Quân Đoàn 3 và Vùng 3 Chiến thuật là Trung tướng Dư Quốc Đống có xin tăng viện để tái chiếm Phước Long song không được Tổng thống Thiệu chấp thuận. Thái độ của ông Thiệu lúc ấy là: “Chờ xem Mỹ có phản ứng gì không! ” Nhưng Tổng thống Ford đã không có phản ứng gì cả! Tướng Đống sau đó xin từ chức.
Năm 1973, Quốc hội Mỹ ra một đạo luật về quyền hạn chiến tranh (War Povvers Act), hạn chế bớt quyền hành của tổng thống trong việc đưa quân đội ra ngoại quốc tham chiến. Theo luật này, Tổng thống được ủy nhiệm đưa quân đội ra ngoại quốc tham chiến không quá 60 ngày, sau thời hạn này phải có sự chấp thuận của quốc hội.
Trong khi đó ngân khoản viện trợ Mỹ tài khóa 1974-75 cho VNCH chỉ còn 700 triệu, so với năm 1973-74 là 1 tỷ đô la. Tổng thống Thiệu xin thêm 300 triệu đô la quân viện đã bị Quốc hội Mỹ từ chối. Đây là sự kiện Mỹ bỏ rơi VNCH để rồi đi đến chỗ thảm bại. Sau đó ông Thiệu qua Âu Châu xin viện trợ song không có kết quả.
Các nguồn tin tình báo tiết lộ trong năm 1974, Bộ chính trị CSBV đưa ra kế hoạch chống phá Hiệp định Paris trong mùa khô hai năm 1975-76. Năm 1975, Cộng sản chú trọng phá công cuộc bình định ở miền Nam, lấn chiếm đất đai miền đông Nam Bộ, nam Tây Nguyên, vùng Trị Thiên và Quân khu 5. Năm 1976, Cộng sản sẽ tiến hành tổng tấn công, tổng khởi nghĩa tòan miền Nam.
Song le những biến cố dồn dập xẩy ra như vụ mất Ban Mê Thuột ngày 10 tháng Ba năm 1975, sau đó là vụ triệt thoái của Quân đoàn 2, Vùng 2 từ Pleiku về Tuy Hòa theo đường số 7 ngày 16 tháng Ba đã tạo thời cơ cho CS đốt cháy giai đoạn và tiến hành tổng tấn công miền Nam mà không đợi đến năm 1976!
Việc Mỹ cắt giảm quân viện cho VNCH đã làm suy giảm tiềm năng chiến đấu của quân đội, giúp cho CSBV liều lĩnh tấn chiếm miền Nam. Tình thế này đã khiến Tổng thống Thiệu đi đến quyết định tái phối trí lực lượng để tăng cường bảo vệ các khu vực đông dân cư ở miền Nam [3].
CSBV cho rằng Mỹ khó trở lại miền Nam bằng bộ binh, còn nếu Mỹ lại sử dụng B.52 chỉ gây cho chúng các tổn thất về người và của cải mà vẫn không giải quyết được tòan thể cuộc chiến.
Đó là những lý do khiến CSBV thay đổi kế hoạch quân sự đã dự trù cho hai năm 1975-76.
Đầu năm 1975, CSBV tập trung 15 sư đoàn tiến chiếm miền Nam, gồm các Sư đoàn chính quy BV và VC hợp thành 5 quân đoàn, chỉ để lại sư đoàn 308 tại Bắc Việt. VNCH có 13 sư đoàn trên 4 Vùng chiến thuật; gồm 11 Sư đoàn Bộ binh, 1 sư đoàn Nhảy dù, 1 Sư đoàn Thủy quân lục chiến, 20 liên đoàn Biệt động quân, 1 liên đoàn Biệt cách Dù, ngoài ra có thêm 500.000 Địa phương quân và Nghĩa quân bố trí tại các Tiểu khu và Chi khu. Về cơ giới ta có 4 lữ đoàn kỵ binh thiết giáp với chiến xa M. 48, thiết vận xa M.l 13, 1 ngàn khẩu pháo 105 ly và 155 ly do các đại đơn vị và Tiểu khu sử dụng.
Ta lại có Ưu thế về Không quân và Hải quân hơn CSBV. Riêng không quân, ta có 60.000 người, tổ chức thành 6 sư đoàn tác chiến, mỗi vùng chiến thuật được bố trí từ 1 đến 2 sư đoàn, 1 sư đoàn vận tải. Số phi cơ khu trục có trên 500 chiếc, trong đó có loại phản lực A. 37 và F.5, 1000 trực thăng, 150 phi cơ vận tải. Về Hải quân, ta có 40.000 người phục vụ cho 1 hạm đội gồm các tuần dương hạm, hộ tống hạm, khu trục hạm, trợ chiến hạm, tuần duyên hạm và dương vận hạm; 14 giang đoàn hoạt động trên các sông rạch cùng các lực lượng đặc nhiệm thủy bộ khác đặt trực thuộc các Vùng chiến thuật. Trừ trận hải chiến với Trung Cộng ngoài quần đảo Hoàng Sa ngày 19 tháng Giêng năm 1974, lực lượng Hải quân VNCH gần như nguyên vẹn.
Tổng số quân lực VNCH đầu năm 1975 là một triệu rưỡi quân. Qua các trận phản kích quy mô từ Tết Mậu thân 1968 đến mùa hè 1972, ta đã đánh bại mọi nỗ lực của Cộng quân trong kế hoạch xâm chiếm lãnh thổ miền Nam, ngoại trừ vài nơi hẻo lánh đã bị địch chiếm đóng. Đồng thời ta đã gây cho địch những tổn thất nặng nề về quân số và vũ khí.
Nhưng từ tháng Ba 1975, trước áp lực của Cộng quân, ta rơi vào tình thế bị động do sự co cụm về chiến thuật ở Vùng 2 (Tây nguyên) và Vùng 1 (địa đầu), khiến miền Nam bị suy sụp mau lẹ.
Ngày 10 tháng Ba năm 1975, CSBV tập trung 3 sư đoàn F10, 316, 320, một số xe tăng T54 và pháo 130 ly tấn công vào thị xã Ban Mê Thuột, cửa ngõ ở Tây nguyên xuống phía Nam. Hà Nội đã cử tướng Văn Tiến Dũng vào trực tiếp chỉ huy trận đánh Ban Mê Thuột. Cộng quân đã gặp sự kháng cự rất mạnh mẽ của Trung đoàn 53 thuộc Sư đoàn 23 Bộ binh và Địa phương quân đồn trú tại Tiểu khu. Lúc đó 2 Trung đoàn 44 và 45 của Sư đoàn 23 đang bảo vệ thị xã Pleiku và Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 do Thiếu tướng Phạm Văn Phú làm tư lệnh.
Tại phi trường Phụng Dực đã diễn ra nhiều đợt ác chiến giữa quân của Trung đoàn 53 và cộng quân trong suốt một tuần lễ. Sau khi cộng quân chiếm thị xã Ban Mê Thuột ngày 11 tháng Ba, 2 Trung đoàn 44 và 45 mới được trực thăng vận từ Pleiku xuống Phước An để phản công địch ở Ban Mê Thuật, cùng với Liên đoàn 21 Biệt động quân từ Buôn Hồ về giải cứu song bị cộng quân chận đánh. Bộ Tổng tham mưu cũng đã tăng cường Liên đoàn 6 BĐQ cho Vùng 2 để tái chiếm Ban Mê Thuột song không thành công.
Có thể Thiếu tướng Phạm Văn Phú hoài nghi cộng quân đánh Ban Mê Thuột, dù ông nắm tin tức về vụ này. Ông nghĩ chúng sẽ đánh Pleiku nên ông rút 2 trung đoàn của Sư đoàn 23 về bảo vệ Plei ku, chỉ để lại 1 trung đoàn bảo vệ thị xã Ban Mê Thuột có dân số 100.000 người. Đó là lý do khiến Ban Mê Thuột thất thủ trước cuộc tấn công của 3 sư đoàn CS có xe tăng và pháo binh yểm trợ.
Để đánh lạc hướng tấn công Ban Mê Thuật, ngày 25 tháng Hai, sư đoàn 968 VC đã pháo kích vào sân bay Cù Hanh và tấn công 2 căn cứ của ta trên đường 19 phía tây Pleiku. Từ ngày 4 đến 5 tháng Ba, Sư đoàn 3 VS cắt đường 19 ở An Khê và trung đoàn 25 VS cắt đường 21 ở phía đông Chư Cúc.
Ngày 14 tháng Ba, một cuộc họp tại Cam Ranh gồm Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên; Tổng Tham mưu trưởng, Trung tướng Đặng Văn Quang, cố vấn an ninh của Tổng thống và Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 để bàn về việc cứu Ban Mê Thuột. Tướng Phú xin thêm viện binh song Đại tướng Viên cho biết không còn quân trừ bị. Do đó hội nghị đã cho phép Tướng Phú được rút quân ra khỏi Cao nguyên để bảo vệ đồng bằng duyên hải và chọn đường số 7 triệt thoái về Tuy Hòa để tạo sự bất ngờ vì đường này lâu nay bị bỏ hoang. Các đường 14 và 19 không thể đi được vì sợ cộng quân phục kích đoàn quân di chuyển.
Tướng Phú cũng đã yêu cầu Tổng thống Thiệu thăng cấp Chuẩn tướng cho Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng BĐQ Quân khu 2. Sau đó Tướng Phú giao quyền chỉ huy cho Chuẩn tướng Tất rồi về Nha Trang chuẩn bị tổ chức lại Bộ tư lệnh tiền phương Vùng 2. Liên đoàn 22 Biệt động quân lại Kontum cũng được lệnh rút theo Quân đoàn 2. Vì có lệnh của Tổng thống Thiệu không cho các tỉnh trưởng biết cuộc triệt thoái của Quân đoàn 2 nên khi dân chúng tại thị xã Pleiku thấy các gia đình binh sĩ hối hả theo các đơn vị rời Pleiku về Phú Bổn thì sự hoảng loạn lan truyền rộng rãi khiến dân chúng cũng bỏ thị xã đi theo đoàn quân.
Ngày 16 tháng Ba, Văn Tiến Dũng tại sở chỉ huy Tây nguyên điều Sư đoàn 320 bám sát phục kích đoàn quân triệt thoái cùng dân chúng chạy theo, gây cảnh chết chóc tang thương cho trẻ em, người già, phụ nữ vô kể. Xe cộ, khí tài bị phá hủy nằm ngổn ngang dọc đường số 7. Đây là một cuộc rút lui đẫm máu vì thiếu chuẩn bị và đường Số 7 lại bị nghẽn. Thị xã Pleiku đã bị sư đoàn 968 VC vào chiếm ngay hôm đó.
Cuộc triệt thoái của Quân đoàn 2 đã gây sự hoang mang cho Quân đoàn 1. Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1, Vùng 1 mới đầu ra lệnh tử thủ Huế. Sau đó Sư đoàn Dù được lệnh rút về Saigon; riêng Lữ đoàn 3 Dù về tới Nha Trang được lệnh lên Khánh Dương tăng cường cho Bộ tư lệnh tiền phương Vùng 2 của Tướng Phạm Văn Phú. Sau đó Tướng Trưởng lại được lệnh của Tổng thống Thiệu rút khỏi Huế về tử thủ Đà Nẵng. Dân chúng ở Quảng Trị, Huế đổ xô chạy về Đà Nẵng theo chân quân đội. Tỉnh trưởng Thừa Thiên là Đại tá Nguyễn Hữu Duệ đã lo chuyển bằng máy bay một số đồ cổ của Triều Nguyễn trong Viện bảo tàng Huế vào Saigon để Phủ Đặc trách Văn hóa bảo quản [4]
Ngày 19 tháng Ba, các đơn vị CSBV tiến chiếm Quảng Trị. Ngày 22 tháng Ba, hai sư đoàn BV 324 và 325 bao vây thành phố Huế, chặn đường rút lui của Sư đoàn 1 Bộ binh, Sư đoàn TQLC và các đơn vị khác xuống cửa Thuận An và Đà Nẵng. Ngày 29 tháng Ba, hai Sư đoàn BV kể trên cùng sư đoàn 304 tiến vào Đà Nẵng, ngay sau khi các đơn vị QLVNCH rút vào Nam bằng tàu Hải quân và máy bay vận tải của Không quân. Tướng Trưởng đã rút bằng tàu Hải quân về dưỡng bệnh tại Tổng Y viện Cộng Hòa, Saigon. Sư đoàn 2 VC chiếm Tam Kỳ ngày 24 tháng Ba và Quảng Ngãi ngày 25 tháng Ba.
Ngày 30 tháng Ba, các trận giao tranh đã diễn ra giữa Sư đoàn 22 Bộ binh với sư đoàn 3 VC tại Quy Nhơn, giữa Lữ đoàn 3 Dù và sư đoàn F10, sư đoàn 320 BV tại Khánh Dương. Các tỉnh Bình Định, Khánh Hòa thất thủ ngày 1 và 2 tháng Tư. Bộ Tư lệnh tiền phương Vùng 2 của Thiếu tướng Phú đã phải rút vào Cam Ranh và Phan Thiết. Phần còn lại của Sư đoàn 22 Bộ binh rút khỏi Bình Định và Lữ đoàn 3 Dù rút về Phan Rang. Ngày 3 tháng Tư Sư đoàn F 10 chiếm Cam Ranh.
Lúc này Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho sát nhập hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận thuộc Vùng 2 vào Vùng 3 để bảo vệ Saigon và đặt Bộ Tư lệnh tiền phương Vùng 3 tại Phan Rang do Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm Tư lệnh, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân làm Phó tư lệnh với trên 40 máy bay khu trục. Lực lượng Bộ Tư lệnh tiền phương Vùng 3 gồm Sư đoàn 2 Bộ binh từ Vùng 1 rút về, Lữ đoàn 2 Dù được không vận từ Saigon ra thay Lữ đoàn 3 Dù về Saigon và Liên đoàn 31 Biệt động quân cùng Địa phương quân.
Tại Saigon, lúc 10 giờ sáng ngày 8 tháng Tư, một chiếc A. 37 do Trung úy Nguyễn Thành Trung cất cánh từ sân bay Biên Hòa với chiếC A.37 khác đi làm nhiệm vụ oanh kích cộng quân, đã tự tách rời bay về ném bom và bắn hỏa tiễn xuống dinh Độc Lập. [5]
Tổng thống Thiệu đang làm việc không bị hề hấn gì. Dinh chỉ bị hư hại nhẹ. Lúc ấy súng phòng không trên nóc dinh đã bắn lên máy bay của Trung, chiếc máy bay này đã bay về phía tây bắc; sau này VC cho biết là sân bay Phước Bình, thuộc tỉnh lỵ Phước Long.
Lúc máy bay oanh kích, Bình đang làm việc tại tòa nhà Trung tâm thi hành Hiệp định Paris, bên cánh phải dinh Độc Lập, cùng với các sĩ quan khác. Tiếng nổ nghe rất gần, mọi người phải tìm chỗ núp sợ còn có tiếng nổ nữa.
Ngày 9 tháng Tư, cộng quân mở cuộc tấn công vào thị xã Xuân Lộc, thuộc tỉnh Long Khánh. Địch huy động quân đoàn 4 gồm 3 sư đoàn: 6,7 và 341, cùng một số đơn vị thuộc quân khu 7 do tướng Hoàng Cầm chỉ huy tấn công vào Xuân Lộc. Lực lượng ta đã đào chiến hào, hố cá nhân, chuẩn bị sẵn thế phòng ngự tại Long Khánh.
Thành phần chiến đấu bên ta gồm có Sư đoàn 18 Bộ binh do Chuẩn tướng Lê Minh Đảo làm Tư lệnh, Lữ đoàn 1 Dù trấn giữ mặt Gia Rai, Chứa Chan, Lữ đoàn 3 Thiết giáp, các tiểu đoàn Biệt động quân, Địa phương quân Long Khánh và các đơn vị Pháo binh trực thuộc. Ngoài ra ta còn có sự yểm trợ của Không quân thuộc Quân đoàn 3 ở Biên Hòa và Tân Sơn Nhất.
Mặc dầu với quân số đông hơn, cộng quân vẫn không chiếm được Xuân Lộc trong mấy ngày đầu tấn công. Các đợt tiến công của địch bị ta đẩy lui; địch có phần nao núng tinh thần trước sức kháng cự mạnh mẽ của ta. Trung đoàn 95 cộng quân bị tổn thất nặng, không còn khả năng chiến đấu phải rút về tuyến sau. Một số xe tăng địch bị các chiến sĩ ta bắn hạ.
Không chiếm nổi Xuân Lộc, quân đoàn 4 CV quay ra đánh Lữ đoàn 3 Thiết giáp và Lữ đoàn 1 Dù ở Gia Rai nhưng cũng bị thiệt hại nặng. Hai trái bom Daisy Cutter có sức công phá mạnh do không quân thả đã tạo thêm tổn thất cho Cộng quân ở Xuân Lộc [6]
Quả nhiên địch đã không ngờ được tình huống tại Xuân Lộc và sức phản kích mãnh liệt của các chiến sĩ bộ binh, nhảy dù và thiết kỵ đã ngăn cản các đợt tấn công ồ ạt của địch.
Sau 11 ngày cầm chân quân đoàn 4 CSBV ở Xuân Lộc, ngày 20 tháng Tư, Sư đoàn 18 Bộ binh rút về Bà Rịa rồi về Biên Hòa. Lữ đoàn 1 Dù rút ra Vũng Tàu bằng tàu Hải quân. Các đơn vị khác cũng rút đi để bảo tòan lực lượng.
Ngày 14 tháng Tư, một số tàu thuyền của hải quân CSBV khởi sự chiếm các đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
Ngày 16 tháng Tư, cộng quân điều động sư đoàn 325, Sư đoàn 3, trung đoàn 25 cùng xe tăng, pháo binh tấn công vào thị xã Phan Rang và phi trường Thành Sơn. Các đơn vị ta với sự yểm trợ của không quân đã gây cho địch những tổn thất nặng nề. Riêng Lữ đoàn 2 Dù đã hạ trên 100 tên địch. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang và một số sĩ quan trong bộ tham mưu đã bị địch bắt trên đường rút về Phan Thiết.
Tiếp theo ngày 19 tháng Tư, một trận đánh hiệp đồng ngoạn mục giữa bộ binh, không quân và hải quân ta chặn đánh quân đoàn 2 CS tiến xuống Phan Thiết trên quốc lộ 1. Đoàn xe của địch đã bị máy bay ta oanh tạc từ trên không và tàu hải quân pháo từ ngoài biển vào rất chính xác, thiêu hủy nhiều xe cộ, khí tài và bộ đội địch trước khi chúng vào được thị xã.
Như vậy không có chuyện quân đội ta bỏ chạy mà không giao chiến như các tin tức thất thiệt đã loan, trái lại lực lượng còn lại của ta vẫn bám sát quân địch trên đường tiến quân của chúng về phía Nam để giáng các đòn quyết liệt.
Sau khi Bộ tư lệnh tiền phương Vùng 3 đặt ở Phan Rang bị cộng quân tràn ngập và các đơn vị ta đã rút khỏi Xuân Lộc, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân Đoàn 3 và Vùng 3 đã củng cố lại vòng đai phòng thủ Saigon, từ Long Thành qua Long Bình đến củ Chi. Các đơn vị bảo vệ thủ đô Saigon gồm các Sư đoàn 5, 25, 22, Lữ đoàn 3 và 4 Dù, Lữ đoàn 468 Thủy quân lục chiến, Lữ đoàn 3 Thiết giáp, Liên đoàn 81 Biệt cách Dù, các đơn vị Biệt động quân, Pháo binh, Không quân và Bộ Tư lệnh Hải quân. Riêng Quân đoàn 4 do Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam làm tư lệnh vẫn còn nguyên ba Sư đoàn 7, 9, 21 tại Vùng 4.
Trong lúc cộng quân tập trung lực lượng đông đảo quanh Saigon, tình hình chính trị tại thủ đô đã có những diễn biến sau đây:
- Chiều 21 tháng Tư, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên tivi tuyên bố từ chức và trao quyền lại cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương vốn là nhà mô phạm có lòng yêu nước thương dân. Trong lời tuyên bố, ông Thiệu chỉ trích gay gắt Mỹ đã không giữ đúng lời cam kết trợ giúp VNCH chống Cộng sản xâm lược đến giờ phút cuối cùng. Ông bầy tỏ ý nguyện trở về với quân đội để sát cánh với các chiến hữu chống Cộng sản xâm lược. Câu nói của ông được nhiều người nhắc tới là "Đừng nghe những gì Cộng sản nói, hãy nhìn những gì Cộng sản làm!”, một câu nói lột trần bản chất dối trá của Cộng sản từ trước đến nay.
Tân Tổng thống Trần Văn Hương sau đó kêu gọi MTGPMN và VNCH cùng nhau thương thuyết để đem lại hòa bình cho miền Nam. Ông cũng kêu gọi các chiến sĩ giữ vững tay súng để bảo vệ đất nước đến giờ phút cuối cùng. Tối ngày 25 tháng Tư, ông Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm cùng gia đình đáp máy bay Mỹ qua Đài Loan tị nạn [7].
Trong lúc rối ren, Pháp lại đóng vai trò vận động giải pháp trung lập hóa miền Nam VN.
Đại sứ Merillon ở Saigon theo chỉ thị của Tổng thống Giscard D’Estaing, đã tiếp xúc với các phe lâm chiến, cả Trung Cộng và vài nước Đông Nam Á để bàn về giải pháp trung lập hóa miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên ý đồ này của Pháp đã không thành tựu phía Cộng sản lăm le chiếm nốt Saigon để hoàn thành mục tiêu xâm lăng của họ.
Nội tình khối Cộng sản lúc này có sự rạn nứt trầm trọng giữa Brezhnev, lãnh lụ Liên Xô và Mao Trạch Đông, lãnh tụ Trung Cộng. Brezhnev theo chủ nghĩa xét lại; còn Mao theo chủ nghĩa giáo điều Mác xít. CSBV lúc này lại thiên về Liên Xô nên không được lòng họ Mao, quan hệ giữa đôi bên lạnh nhạt hẳn.
Chiều ngày 26 tháng Tư, nhóm Lê Đức Thọ, Phạm Hùng và tướng Văn Tiến Dũng trong bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh đã ra lệnh cho 5 quân đoàn Cộng sản cùng các lực lượng tăng cường, chiến xa T.54, pháo 130 ly tiến về Saigon để mở cuộc tấn công cuối cùng. Ở trận tuyến phía tây bắc, quân đoàn 3 Cộng sản đã bị Sư đoàn 25 Bộ binh ta chặn đánh từ Tây Ninh về Đồng Dù, trong khi Sư đoàn 5 Bộ binh ta đã chống trả mãnh liệt mũi tấn công của quân đoàn 1 CS ở Bình Dương và Lái Thiêu. Phía đông, quân đoàn 2 CS bị khựng lại ở Long Thành và căn cứ Nước Trong. Tại căn cứ Nước Trong, mặc dầu cộng quân dùng hàng chục khẩu pháo bắn vào trường Thiết Giáp, nơi các sinh viên sĩ quan Thiết giáp và Thủ ĐứC đang thực tập, song các cánh quân địch đã bị ta đẩy lui. Trận đánh diễn ra ác liệt suốt ngày 27 tháng Tư và kéo dài sang ngày 28, có máy bay của không quân ta yểm trợ đắc lực. Tổn thất của địch rất nặng nề về nhân mạng và xe tăng. Tuy không được báo chí tường thuật cặn kẽ vì liên lạc khó khăn; trận đánh Nước Trong đã nêu cao tinh thần chiến đấu dũng cảm của các chiến sĩ ta trong việc ngăn chặn địch tiến về Saigon. [8] Ngày 28 tháng Tư, Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng QLVNCH đã đáp máy bay rời khỏi Saigon, sau khi ông đã đệ đơn xin từ chức lên Tổng thống Trần Văn Hương. Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tổng Cục trưởng Tổng cục Tiếp vận xử lý thường vụ chức vụ của Đại tướng Cao Văn Viên [9].
Vào những ngày sôi động này, Bình vẫn đi làm như thường lệ ở trung tâm thi hành Hiệp định Paris trong khuôn viên dinh Độc Lập. Thực ra các sĩ quan ở đây cũng không nắm được tình hình biến chuyển mau lẹ nên không khỏi hoang mang chờ chung cuộc. Lác đác có người tìm được phương tiện lén đưa gia đình ra ngoại quốc lánh nạn CS. Ai đi được thì cứ đi. Người ở lại không có phương tiện đành chịu chung số phận với quê hương mà mình đã không bảo vệ nổi.
Bất ngờ Khối hành chánh mời tất cả sĩ quan các Khối tới để phát quà của Tổng thống Thiệu gửi tặng. Bình lấy làm lạ nhưng nghĩ rằng đây là những thứ còn lại trong kho dinh Độc Lập được đem ra phân phát cho nhân viên. Mỗi người được 10 ngàn đồng và 1 chai rượu ngoại, loại đắt tiền như: Gin, Bordeaux, Whisky. Không rõ đây là chỉ thị của ông vua không ngai đã ra đi, hay người quản lý dinh đã tự ý đem phân phát các thứ này cho viên chức trực thuộc để lưu lại cái cảm tình của ông Thiệu?
Bình giao số tiền cho Ngọc. Nàng bảo:
- Biết tiêu gì bây giờ. Thôi mua bao cát tránh đạn.
-Phải đấy. Nhà có con nhỏ. Có pháo kích chẳng biết chạy đi đâu.
Cái ăn chẳng lo mà chỉ lo tránh đạn. Cả Saigon đang lo có vụ Cộng sản tàn sát như Tết Mậu Thân ở Huế khi cộng quân tấn công vào Saigon. Mua được hơn chục bao cát, Bình đem quây quanh cái bàn ăn trong nhà ở Ngã Sáu Saigon để các con nhỏ núp khi có pháo kích. Quả nhiên rạng sáng ngày 29 tháng Tư có trái hỏa tiễn 122 ly rớt nổ ngay khu vực Ngã Sáu Saigon mà không nghe nói có thương vong. Thành phố này thỉnh thoảng vẫn bị Việt Cộng pháo kích, gây thương vong cho một số thường dân.
Từ chiều ngày 28 tháng Tư, Tổng thống Trần Văn Hương [10] đã yêu cầu Quốc hội cho phép ông trao quyền lại cho Đại tướng Dương Văn Minh để thực hiện việc hòa giải với Cộng sản. Sau đó ông Minh nhận chức Tổng thống và kêu gọi hòa giải, ngưng bắn với MTGPMN, đồng thời ông cũng kêu gọi QLVNCH bảo vệ phần đất còn lại cho đến khi có lệnh ngưng bắn thì nghiêm chỉnh thi hành lệnh này. Ông Minh đã cử Trung tướng Vĩnh Lộc làm Tổng tham mưu trưởng QLVNCH, thay thế cho Trung tướng Đồng Văn Khuyên ra đi, rồi lại cử Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh là nội tuyến Cộng sản. phụ tá của Trung tướng Vĩnh Lộc, làm Tổng tham mưu trưởng, thay thế Tướng Vĩnh Lộc từ chức. Ông Dương Văn Minh đã cử ông Vũ Văn Mẫu làm Thủ Tướng, đồng thời nhờ Thượng tọa Thích Trí Quang ngầm liên lạc với MTGPMN để xin hòa giải song không thành công.
Chú thích:
[1] Ngày 14-4- 1975, Cộng sản Bắc Việt tiến chiếm quần đảo Trường Sa của VNCH. Đến ngày 14-3-1988, Trung Cộng chiếm 7 đảo và bãi đá ngầm tại Trường Sa, đánh đắm 3 tàu Cộng sản Việt Nam làm 74 thủy thủ mất tích. Cuộc đọ súng giữa đôi bên xẩy ra thật ngắn ngủi và không thấy nói sự thiệt hại của Trung Cộng. So sánh hai trận hải chiến trên để thấy rõ tinh thần yêu nước và chiến đấu cao cả của Hải quân VNCH chống quân Trung Cộng xâm lược.
[2] Tổng Tập Hồi Ký của Võ Nguyên Giáp, Xb 2006, tr. 1230,
[3] Theo các tài liệu đã phổ biến của cựu Đại tướng Cao Văn Viên, nguyên Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH.
[4] Theo truyện Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm của cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, tr. 241. Số đồ cổ gồm 14 thùng bị mất nhiều vào tay cán bộ CS sau 30-4-1975.
[5] Theo Văn Tiến Dũng kể trong cuốn Đại Thắng Mùa Xuân, trang 209, thì trung úy Nguyễn Thành Trung là con một cán bộ huyện úy ở Bến Tre đã bị ta bắn hạ, vào Không quân nằm vùng để chờ cơ hội làm nội tuyến cho Việt Cộng.
[6] Trong cuốn Đại Thắng Mùa Xuân, xb 1976, tr. 204, tướng Văn Tiến Dũng, tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh thú nhận:
“Trận chiến đấu Xuân Lộc ngay từ những ngày đầu trở nên gay go, ác liệt. Các sư đoàn 6,7, 341 của ta đã phải tổ chức tiến công nhiều lần vào thị xã, đánh đi đánh lại diệt từng mục tiêu và phải nhiều lần đẩy lui các cuộc phản kích của địch. Xe tăng, xe bọc thép của ta một số bị hỏng. Kế hoạch tiến công Xuân Lộc của Quân đoàn 4 lúc đầu chưa tính hết được sự phát triển phức tạp của tình hình, chưa đánh giá hết tính chất ngoan cố của địch. Tính chất giằng co ác liệt qua trận đánh này không phải chỉ trong phạm vi của Xuân Lộc- Long Khánh nữa rồi”.
[7] Ông Nguyễn văn Thiệu sau qua Anh rồi qua Mỹ cư ngụ và mất ngày 29/09/2001 tại Boston, MA, hưởng thọ 78 tuổi.
[8] Có hai tài liệu của Cộng sản nói về trận Nước Trong: 1. Trong cuốn Đại Thắng Mùa Xuân, Xb 1976, tr. 267, tướng Văn Tiến Dũng kể: “ Chúng ngoan cố chống cự và phản kích suốt cả ngày 27. Ta tổ chức liên tiếp nhiều đợt tiến công nhưng chưa giải quyết được. Quân ta vừa đánh lại quân địch trên mặt đất, vừa phải đánh trả máy bay địch lồng lộn trên không oanh tạc bừa bãi. 2. Báo Công An Thành phố Hồ Chí Minh ra ngày 29 tháng Tư năm 2000 thuật lại lời nói của trung tá CSBV Bùi Văn Tùng, nguyên chính ủy lữ đoàn 203 thiết giáp thuộc quân đoàn 2 từ Bắc Giang vào tham dự trận đánh, thì đã có 500 cộng quân bị hạ và một đại đội xe tăng Cộng sản bị phá hủy.
Các con số này chắc chắn còn cao hơn vì Cộng sản không khi nào nói thật số thiệt hại của mình (chú thích của tác giả).
[9] Cựu Đại tướng Cao Văn Viên mất ngày 22/1/2008 tại Fairfax, Tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 87 tuổi.
[10] Cụ Trần Văn Hương ở lại Việt Nam, từ chối quyền công dân cộng sản và mất ngày 27-1-1982 tại Saigon, hưởng thọ 80 tuổi.