← Quay lại trang sách

Chương Mười Một (tt)

Cũng chiều ngày 28 tháng Tư, lúc 15 giờ 40 phút, 5 chiếc khu trục A37 do viên phi công phản bội Nguyễn Thành Trung hướng dẫn đã cất cánh từ phi trường Thành Sơn, Phan Rang tới oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất, phá hủy một số máy bay của ta đậu tại đây và máy bay Mỹ di tản người tị nạn. 5 chiếc A37 kể trên do cộng quân chiếm được của ta sau khi chúng tấn chiếm thị trấn Phan Rang.

Ngày 29 tháng Tư, ông Dương Văn Minh đã cử luật Sư Trần Ngọc Liễng, linh mục Chân Tín và giáo Sư Châu Tâm Luân thuộc thành phần thứ ba (trung lập) vào trại David trong sân bay Tân Sơn Nhất, gặp phó trưởng đoàn Cộng sản là đại tá Võ Đông Giang [11] để thương lượng hoà bình và tránh cuộc tấn công vào Saigon gây đổ máu cho dân chúng, nhưng phái đoàn đã thất bại. Hôm sau 30 tháng Tư, khi Cộng quân tràn vào Saigon, phái đoàn này mới được Cộng sản cho ra về

Cũng ngày 29 tháng Tư, các cánh quân thuộc quân đoàn 4 CS tiến từ Quốc lộ 1 về Trảng Bom, Long Bình, Biên Hòa đã bị các lực lượng ta chặn đánh và ngăn cản, xe tăng địch bị khựng lại bởi hệ thống hào chống tăng.

Chiến sự bỗng trở nên ác liệt khi địch tấn công vào sân bay Biên Hòa và Bộ tư lệnh Quân đoàn 3. Ở các vị trí trên, cộng quân đã bị các lực lượng ta chống trả, với sự yểm trợ của phi cơ từ căn cứ Tân Sơn Nhất chặn đánh, gây cho địch nhiều thương vong. Ở cầu Rạch Chiếc, Rạch Cú, Đồng Nai và cầu xa lộ Saigon, địch cũng đã bị chặn lại; phải đánh đi đánh lại nhiều lần mới vượt qua được. Lúc ấy Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ở Bộ Tổng tham mưu đã ra lệnh không cho Tướng Lê Minh Đảo phá cầu để xe tăng CS có thể tiến vào Saigon. [12] Hạnh lại không cho mở kho súng chống tăng bằng điện tử (TOW) để bó tay quân đội, nhưng ông đã không cản được ý chí quyết tâm chiến đấu của các chiến sĩ ta.

Trong khi đó các trận đánh ở ven đô vẫn tiếp diễn ác liệt trong ngày 29 tháng Tư. Các Sư đoàn còn lại của ta gồm: Sư đoàn 25 Bộ binh ở Đồng Dù đã giao chiến với quân đoàn 3 CS, Sư đoàn 5 Bộ binh ở Lái Thiêu đã giao chiến với quân đoàn1 CS và Sư đoàn 22 Bộ binh ở Long An đã chống trả quân đoàn 232 CS. Trung tâm huấn luyện Quang Trung đã ra cản địch, trong khi đó Lữ đoàn 4 Dù đánh chặn mũi tiến công của địch vào xa lộ trước cửa ngõ Hàng Xanh.

Sáng 29 tháng Tư, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu tuyên bố trên đài phát thanh Saigon là cơ quan Cố vấn quân sự Mỹ trong phi trường Tân Sơn Nhất phải rời khỏi nơi đây trong vòng 24 tiếng [13]

Trưa ngày 29 tháng Tư, Tổng thống Ford ra lệnh cho các máy bay trực thăng bắt đầu cuộc di tản những người Mỹ còn lại và những người làm việc cho Mỹ cùng gia đình ra hạm đội ở ngoài khơi. Làn sóng người bỏ nước ra đi đã khởi sự từ mấy ngày trước vì họ thấy tình hình rất bấp bênh và lo sợ cuộc tắm máu của Cộng sản khi Saigon bị tấn công. Họ ra đi bằng mọi phương tiện: tàu, thuyền, máy bay, bỏ lại cả tài sản, sự nghiệp đã gây dựng từ bao lâu nay.

Một số tướng lãnh bỏ đơn vị ra đi trong khi quân đội còn chiến đấu đã gây xôn xao, bất bình trong dư luận. Tướng Nguyễn Cao Kỳ hô hào tử thủ Saigon cũng bỏ đi cùng các tướng Ngô Quang Trưởng [14], Vĩnh Lộc, Trần Văn Trung. Vài cao ốc và sân thượng tòa Đại sứ Mỹ ở đường Thống Nhất đã trở thành bãi đáp cho trực thăng chở nhân viên làm việc cho Mỹ đi tị nạn. Cảnh chen lấn đã xẩy ra ở các nơi máy bay bốc người đi.

Sáng ngày 30 tháng Tư, Đại sứ Martin là người Mỹ di tản vào giờ chót, chấm dứt sự can thiệp của Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam trong 20 năm.

Buổi sáng hôm đó cơn nóng nực làm đầu óc Bình căng thẳng. Nắng tháng Tư đổ xuống đường hầm hập. Tuy biết mình đang bị cuốn vào một cơn lốc, một tình thế tuyệt vọng, chàng vẫn lái chiếc xe lambretta đến Trung tâm xem tình hình ra sao. Các sĩ quan đến đây trong chốc lát rồi lặng lẽ rút lui, trong đó có Đại tá Tôn Thất Hùng, người đã vượt thoát trong trận đánh ở Tân Cảnh, sau viết cuốn hồi ký Người về Từ Tân Cảnh, Đại tá Hiệu và Đại tá Quý mới lên lon được 1 tháng, Đại tá Cả, Chuẩn tướng Trực, Trung tâm phó. Riêng Trung tướng Đặng Văn Quang, Cố vấn an ninh và là Trung tâm trưởng đã ra ngoại quốc.

Trong bàn giấy của Bình còn tập bản thảo ghi những sự kiện vi phạm của Cộng sản trong các lãnh vực trao trả tù binh VNCH và lấn đất giành dân ở khắp nơi. Sự kiện cuối cùng: Cộng sản xâm chiếm miền Nam chưa kịp ghi vì cộng quân đang tấn công ồ ạt vào thủ đô Saigon.

Trước lúc bình minh ngày 30 tháng Tư 1975, các trận đánh ác liệt cuối cùng đã diễn ra từ các ngả dẫn vào thành phố. Ở cầu Bình Phước, Thủ Đức, cộng quân đã bị lực lượng trường Sĩ quan Thủ Đức và Lữ đoàn 3 Thiết Giáp chặn đánh. Những thanh niên Ưu tú sắp trở thành sĩ quan, những chiến binh thiết kỵ già dặn trong binh nghiệp đã anh dũng chiến đấu chống bộ đội CS trước khi họ phải giã từ vũ khí.

Từ sáng sớm, Cộng quân pháo kích vào sân bay Tân Sơn Nhất, song một số máy bay đã cất cánh di tản qua Thái Lan, ra hạm đội 7 của Mỹ và về Cần Thơ. Tại ngã tư Bẩy Hiền, ngã ba Ông Tạ, Thị Nghè, Lữ đoàn 3 Dù, Liên đoàn 81 Biệt cách Dù, Bộ binh, Thiết giáp, Thủy quân lục chiến đã chặn đánh các cánh quân thuộc quân đoàn 1 và 3 CSBV. Các tay súng và xe thiết giáp đã bắn cháy 6 xe tăng T 54 của cộng quân ngoài cổng sân bay Tân Sơn Nhất, ngăn không cho địch vào Bộ Tổng tham mưu. Lúc địch vào sân bay, các chiến sĩ và phi cơ ta từ căn cứ Trà Nóc, Cần Thơ bay lên đã tấn công vào đội hình địch, gây cho chúng nhiều tổn thất.

Tại Phú Lâm và trường đua Phú Thọ, các chiến sĩ Biệt động quân đã ngoan cường chống trả các cánh quân của quân đoàn 2 và quân đoàn 4 CS. Bộ Tư lệnh Biệt Khu Thủ đô vẫn liên lạc với các cánh quân ta và điều động cuộc chiến; tuy không còn liên lạc hay nhận được lệnh gì từ Bộ Tổng tham mưu.

Trong khi đó tại Vùng 4, các sư đoàn 7, 9 và 21 Bộ binh đang giao chiến với các sư đoàn 4 và 8 cộng quân. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân đoàn 4 vẫn cố thủ tại Cần Thơ cùng Bộ tham mưu và các đơn vị dưới quyền. Ông đã nghiêm khắc ra lệnh cho các sĩ quan tỉnh trưởng, chỉ huy trưởng không ai được tự ý rời bỏ nhiệm sở để làm gương cho thuộc cấp.

Tại Bộ Tổng tham mưu trong buổi sáng ngày 30 tháng Tư, viên tướng Pháp Vanuxem, người đã từng chiến đấu với Việt Minh trước năm 1954 tại Bắc Việt, bỗng xuất hiện với mưu tính cứu vãn tình thế. Vanuxem cũng thân đến dinh Độc Lập, nơi nội các Dương Văn Minh đang họp để hiến kế nhưng việc ông làm như công dã tràng.

Trong cảnh hỗn mang, người dân Saigon, kể cả một số quân nhân vẫn ra các bến xe đò và bến tàu tìm đường chạy về các tỉnh hoặc ra nước ngoài.

Rồi những chiếc xe tăng T.54 và bộ đội cộng sản trong bộ quân phục mầu xanh lá cây, đầu đội mũ cối xanh tiến vào dinh Độc Lập. Chiếc cổng sắt chính đã bị xe tăng húc đổ để xe chạy vào bên trong khuôn viên. Điều đáng chú ý là không thấy người dân ở ngoài đường hoan hô bộ đội cộng sản. Tâm tư họ đang nặng trĩu mối lo sợ Cộng sản trả thù, mất công ăn việc làm thường ngày, thất thoát tài sản trong lúc hỗn quân hỗn quan và khó kiếm đâu ra gạo, sữa cho người già lẫn trẻ em cầm hơi.

Lúc 10 giờ 30 phút sáng 30 tháng Tư, qua làn sóng điện của đài phát thanh quốc gia, Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân đội buông vũ khí và các cấp chính quyền bàn giao nhiệm sở cho Mặt trận Giải phóng đến tiếp thu.[15] Theo tường thuật của các đơn vị tham gia các trận đánh tại Saigon ngày 30 tháng Tư, 1975, số tổn thất sơ khởi của phía cộng quân như sau:

1000 cộng quân bị hạ.

30 chiến xa và xe bọc thép bị bắn cháy.

30 quân xa bị thiêu hủy.

11 giờ trưa ngày 30 tháng Tư, Bình ra đứng đầu hẻm số7 đường Nguyễn Trãi quan sát tình hình: xung quanh ngã Sáu Saigon, dân chúng chạy ngược xuôi kiếm thực phẩm tích trữ.

Ông Dương Văn Minh được Cộng sản cho qua Pháp cư ngụ năm 1983. Sau đó ông qua Mỹ cư trú và mất ngày 5/8/2001 tại Pasadena, CA, hưởng thọ 85 tuổi.

Dòng người đi xe gắn máy chạy xen với những chiếc xe tải chở toán quân giải phóng đội mũ tai bèo đi giữ an ninh ngoài đường phố. Saigon lúc này trông thật ảo não và đau xót; cái đau xót của mất mát, tan hoang đang ngấm sâu vào tâm can chàng. Ngày xưa, người dân Việt chắc cũng cảm thấy nỗi đau xót như thế này khi đất nước bị rơi vào tay ngoại bang, tài sản bị chiếm đoạt và thân phận người dân bị đọa đầy. Nỗi đau xót của người dân ngày nay còn lớn hơn vạn lần vì Cộng sản Việt Nam đem chủ nghĩa Mác xít thống trị miền Nam sau một phần tư thế kỷ dân chúng được sống trong tự do và dân chủ.

12 giờ trưa, Bình ở trong nhà đóng cửa lại vì nghe tiếng súng nổ bên phía đường Lê Lai vọng lại. Ngọc và bảy đứa con nàng, đứa con gái út mới 1 tuổi ở trong nhà không dám hé cửa ngó ra ngoài sợ đạn lạc. Tự nhiên chàng cảm thấy ân hận vì đã không liều đem gia đình đi di tản dằng đường thủy trong mấy ngày vừa qua, trong lúc dân chúng Saigon vẫn nhốn nháo đổ ra bến Bạch Đằng và Tân Cảng đi tàu để lánh nạn Cộng sản.

Chàng sợ con đông, có đứa còn quá nhỏ, e không chịu nổi cảnh cơ cực trên đường đi vượt biên nên đã bỏ lỡ cơ hội. Ông trung tá ở xế cửa nhà chàng, làm ngành tiếp vận, đã cho vợ con di chuyển bằng chuyến bay tiếp vận của Mỹ, sáng hôm nay ông và người nhà chạy ra Tân cảng đi nốt. Còn ông bạn trung tá ở đường Lê Lai chiều hôm qua mượn xe và tài xế của chàng đi hỏi tàu hải quân cho cả hai gia đình đi tị nạn, sau đó ông đi mất tự lúc nào, để chàng cứ ngóng đợi ở nhà. Cảnh này cho thấy mạnh ai nấy chạy, buồn là ở chỗ đó!

Lúc 1 giờ chiều ngày 30 tháng Tư, chàng mở cửa thấy có mấy đứa trẻ bu trước căn nhà đầu hẻm bàn tán nhỏ to. Hỏi ra mới biết ông Trung tá Trúc làm ở Bộ Chiêu Hồi đã tự sát cùng vợ và đứa con gái nuôi hơn một tuổi. Chàng cảm thấy đau buồn trước cảnh ngộ của anh chị Trúc và cháu bé. Lúc 11 giờ sáng chàng còn thấy anh Trúc ra đầu hẻm quan sát phố phường với vẻ bình thản, không hề có dấu hiệu sa sút tinh thần. Chàng nghĩ nếu như không có cái ngày đen tối thê thảm này thì vợ chồng anh Trúc vẫn sống những ngày hạnh phúc êm đềm và kín đáo ở trong hẻm với đứa con gái xinh đẹp. Con hẻm này là khu cư xá quân đội, chỉ có mấy gia đình sĩ quan làm việc cho các Phủ, Bộ trung ương nên rất thân thiết với nhau.

Cái chết của Trung tá Trúc còn gây bàng hoàng cho chàng thì hôm sau chàng và Ngọc lại nhận được hung tin: Trung tá Đặng Sĩ Vĩnh, làm việc tại Bộ Tư lệnh cảnh sát Quốc gia đã dùng súng lục tự sát cùng với vợ và 7 người con gồm 2 trai, 5 gái tại nhà riêng khu Ông Tạ vào buổi trưa ngày 30 tháng Tư. Ông Vĩnh là chú rể của Ngọc. Sau đó thân nhân đã lo việc mai táng gia đình ông Vĩnh tại nghĩa trang Chí Hòa [16].

Mấy ngày sau, tin tức các vị tướng lãnh VNCH, tư lệnh các đại đơn vị đã anh dũng tuẫn tiết trong ngày mất nước 30 tháng Tư 1975 và các ngày sau đó khiến Bình kính phục tận đáy lòng:

- Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh.

- Chuẩn tướng Trần Văn Hai, Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh.

- Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 và Vùng 2 chiến thuật.

- Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân đoàn 4 và Vùng 4 chiến thuật.

- Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh phó Quân đoàn 4 và Vùng 4 chiến thuật.

Riêng Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh trưởng Chương Thiện đã ra lệnh cho các đơn vị trực thuộc chống trả cộng quân đến ngày 4 tháng Năm 1975, khi hết đạn dược mới chịu buông súng đầu hàng. [17] Còn nhiều tấm gương hy sinh tuẫn tiết khác của các chiến sĩ thuộc các Quân, Binh chủng mà vì thiếu thông tin liên lạc nên ít người được biết. Có những quân nhân VNCH bị Cộng sản giết hại tại các tỉnh, các vùng xa cũng không được nhắc tới.

Sau đây là con số tổn thất về nhân mạng mà cả hai phía đã nêu trên báo chí sau 20 năm chiến tranh, từ 1955 đến 1975:

Phía Cộng sản đã có 1 triệu bộ đội và dân công tử vong, theo sự tiết lộ của tướng Võ Nguyên Giáp với nữ ký giả Cộng sản Ý Fallaci ở Hà Nội năm 1974. Ngoài ra còn 200.000 cán binh cộng sản đã ra hồi chánh với chính phủ VNCH.

Về số tổn thất trong tháng Tư 1975, mãi về sau mới thấy Cộng sản cho loan trên báo chí con số 5000 bộ đội tử trận tại miền Nam. Các con số về thương vong của phía Cộng sản còn cao hơn gấp bội.

Phía VNCH bị tổn thất 250.000 chiến sĩ, chưa kể số thương phế binh, thường dân và viên chức các ngành, cán bộ xã ấp đã bị thương vong trước và sau ngày 30 tháng Tư 1975, trong đó có 4000 người tại Huế đã bị Cộng sản giết trong các mồ tập thể Tết Mậu Thân 1968. Riêng con số quân nhân hy sinh do Bộ Tổng tham mưu QLVNCH phổ biến trước khi kết thúc cuộc chiến.

Phía Hoa Kỳ có 58.256 chiến sĩ hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam. Ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn có bức tường đá hoa cương ghi tên từng chiến sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến cao cả này.

Ngoài ra phải kể hàng trăm ngàn người Việt đã phải bỏ mình trong các cuộc vượt biên trên bộ và trên biển, hàng chục ngàn quân, cán, chính đã phải chết trong các trại lao tù Cộng sản và sau khi được thả ra vì chế độ giam giữ kham khổ kéo dài trong nhiều năm, bệnh hoạn đã không được cứu chữa.

Chú thích

[11] Trưởng đoàn Cộng sản là tướng Trần Văn Trà đã được rút ra ngoài mấy tháng trước để tham gia chỉ huy các trận đánh vào phía Nam và Saigon.(Tác giả chú thích)

[12] Theo các tài liệu CS và của VNCH: Hạnh quê ở Mỹ Tho, được Việt Cộng móc nối nên thường xuyên tránh né các mục tiêu VC mỗi lần có cuộc hành quân. Năm 1968, khi làm Chỉ huy trưởng Biệt khu 44, (Châu Đốc, Kiến Tường, Kiến Phong) Hạnh đã để VC lẩn trốn trong vùng mà không truy quét. Sau Chuẩn tướng Phạm Văn Phú thay Hạnh, dẹp được nhiều mục tiêu VC. Bị An ninh quân đội nghi là thân Cộng nên Hạnh bị Tướng Thiệu cho về hưu tháng 4-1974.

[13] Theo lời kể của cựu Đại tá Phạm Bá Hoa, nguyên Tham mưu trưởng Tổng cục Tiếp vận, nguyên do việc đuổi Mỹ ra khỏi Saigon như sau: “ Trong bữa ăn tại nhà cựu Đại tá Nguyễn Linh Chiêu vào giữa tháng 11, 1991 tại Orange County, nam California, Đại tá Chiêu kể lại với bạn hữu là nhân chuyến ông sang Paris đầu năm 1991, ông có mời cựu Tổng Thống Dương Văn Minh và cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, đều là bạn thâm giao của ông dung cơm. Đại tá Chiêu có hỏi ông Minh tại sao mới nhận chức tổng thống mà lại ra lệnh đuổi Mỹ thì ông Minh trả lởi là bản văn đuổi Mỹ do Đại sứ Mỹ Graham Martin đưa cho ông và yêu cầu phổ biến.’’(Theo báo Saigon Nhỏ số 649 ra ngày 30/4/2004).

[14] Cựu Trung tướng Ngô Quang Trưởng mất ngày 22/1/2007 tại Washington DC, Hoa Kỳ, hưởng thọ 78 tuổi.

[15] Theo các báo Cộng sản và báo Công An Thành Phố Hồ Chí Minh ra ngày 28 tháng Tư năm 2000, thì sự việc ông Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng Cộng sản diễn tiến như sau: “ Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy lữ đoàn tăng 203 thuộc quân đoàn 2 đã thảo bản văn cho Tổng Thống Dương Văn Minh đọc trên đài Saigon lúc 10 giờ 30 ngày 30 tháng Tư năm 1975; kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí đầu hàng, giải tán các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương và bàn giao lại cho Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Bùi Văn Tùng đã chấp nhận sự đầu hàng của ông Dương Văn Minh trên đài phát thanh ngay lúc ấy”.

[16] Mấy năm sau 9 bộ hài cốt gia đình ông Vĩnh được thân nhân lo hỏa táng rồi đưa về an nghỉ trong ngôi bảo tháp của chùa Vĩnh Nghiêm, Saigon.

[17] Tháng 6-1975, Cộng sản xử bắn Đại tá Hồ Ngọc Cẩn tại sân banh Cần Thơ. Ông chỉ yêu cầu được phủ lá quốc kỳ VNCH lên người để tỏ lòng trung thành với Chính nghĩa Quốc gia mà ông đã hết lòng phục vụ.