Chương Mười Hai Đổi đời và tù đầy
Người đầu tiên đến chiếm nhà ông trung tá ở xế cửa nhà Bình là một cán bộ tên Hưng, người Nam tập kết ra Bắc từ năm 1954, vừa đem theo gia đình vào đây. Gốc bộ đội giải ngũ, ông hành nghề đông y. Bà vợ người Bắc tên Hòa, mập ú, nói năng có vẻ lanh lợi. Và cô con gái tên Hà, chưa có chồng. Khi vào đây, mỗi người chỉ mang theo chiếc va ly cũ đựng quần áo.
Thoạt nhìn căn nhà được cấp không có vẻ bề thế, nguy nga, bà Hòa chép miệng nói với chồng:
-Nhà thế này mà ông cũng nhận! Ông dễ tính quá. Hai chục năm tuổi đảng mà được cấp nhà cấp bốn.
Ông Hưng bảo:
- Thôi ở tạm. Rồi sẽ tính sau.
- Sao ông không lên ủy ban xin đổi nhà khác.
- Bà để tôi lo từ từ. Nhiều cán bộ còn chưa có nhà ở. Tôi quen mấy ảnh cấp nhà trên thành phố nên họ cho liền. Ở đây là trung tâm thành phố, đi đâu cũng tiện, bà còn đòi gì?
- Tôi cứ nghĩ nhà ở Saigon đẹp, ai ngờ lại xoàng xĩnh thế này. Thế mà lúc trước sĩ quan ngụy cũng ở đây à? Họ có nhiều tiền của lắm mà.
- Bà vẽ chuyện. Trước kia mình ở nhà tập thể thì sao?
- Trước khác. Bây giờ khác.
Ông Hưng lặng thinh trước vẻ mặt kênh kiệu của vợ.
Căn nhà này khi trước còn là nơi mấy bà vợ sĩ quan: vợ ông phi công vận tải, vợ ông quận trưởng quận Tư, vợ ông chủ nhà làm ở ngành tiếp vận và vợ ông làm cơ quan động viên tụ họp lại đánh bài vào lúc các ông chồng đi làm vắng để tiêu khiển. Ngọc ở gần, được mấy bà mời tham gia cuộc vui nhưng nàng bận chăm con cái nên từ chối. Nay thì nó đượm vẻ quạnh hiu với người chủ mới tới.
Sẵn nhà cửa, tiện nghi và một ít đồ đạc còn bỏ lại, họ chỉ việc vào ở, vậy mà vẫn chưa vừa lòng. Trong thành phố, nhiều nhà lớn, nhỏ bỏ không mà vắng chủ đã có đạo quân đông đảo cán bộ các ngành từ Bắc vào chiếm ngụ hết.
Được ít lâu, ông Hòa hay vắng nhà. Bà vợ có lần hạch hỏi ông ta:
- Ông đi đâu vậy?
- Tôi bận việc cơ quan.
- Cơ quan ông chữa bệnh đông y, có khỉ gió mà bận?
- Bà không hiểu. Cơ quan mới biên chế, cái gì tôi cũng phải lo. Tôi là viện trưởng mà.
- Ai chả biết thế. Thế nhân viên không đứa nào lo cho ông à?
- Không tin, bữa nào bà bảo con Hà đưa bà tới viện đông y mà coi.
- Tôi tới chi làm bận mắt ông thêm, chả được tích sự gì. Ở ngoài đó ông cứ ru rú trong nhà. Thế mà vào đây ông lại giở chứng, bỏ nhà đi hoang!
- Bà hay lắm chuyện. Ở đây tai vách mạch rừng, bà hãy cẩn thận đấy.
Bà Hòa nguýt ông chồng, giọng đay nghiến: -Ông sợ thì có. Tôi đâu có sợ ai.
Hồi ở ngoài Bắc trong những năm tháng chiến tranh, kinh tế bao cấp, hai vợ chồng được cấp căn phòng nhỏ trong khu tập thể, cuộc sống thiếu thốn, lương chồng ít ỏi, bà Hòa phải đi bán rau muống, đậu hũ ở ô Chợ Dừa để nuôi chồng con. Lúc ấy người Hà Nội sống bằng chế độ tem phiếu, thực phẩm nhỏ giọt, tiền kiếm không ra.
Biết thân phận mình, ông chồng miền Nam sống hiền hòa, ít giao du với ai, ngoài giờ đi làm, đi họp tổ dân phố, họp cơ quan lu bù, ông lại về hú hí với vợ. Trong tổ thấy vợ chồng hòa thuận nên cứ khen bà Hòa tốt số lấy được ông chồng tập kết. Phường đã đánh giá gia đình bà vào loại gia đình văn hóa, tặng bằng khen cho bà treo ở giữa nhà. Bà có vẻ hãnh diện với tổ lắm.
Hà được ông bố vận động với quận ủy, chỗ quen thuộc, cho vào làm trưởng phòng thuế quận Một, chẳng có chuyên môn gì cả. Lúc mới vào đây trông cô gầy gò, nước da xanh mét, tóc kẹp sau lưng, nay da dẻ hồng hào, tóc uốn, quần áo hở hang, đi giầy mũi nhọn, trông đẹp hẳn ra.
Danh từ đổi đời bắt đầu được loan truyền trong hàng ngũ cán bộ và nhân dân từ Bắc vào tiếp thu miền Nam. Mà đổi đời thật. Từ thắt lưng buộc bụng đến no cơm ấm cật, nhà cửa khang trang, tiền bạc đầy két, lên xe xuống ngựa. Sướng hết chỗ nói. Các cụ nói đúng: no cơm dửng mỡ!
Bình còn nhớ các thây ma bội thực ở nghĩa địa của quân Tàu ốm đói sang tước khí giới quân Nhật ở miền Bắc vào tháng Chín năm 1945, sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh. Hình ảnh đó có liên quan đến những cáo phó của nhiều cán bộ chết trẻ đăng trên tờ Saigon Giải Phóng.
Người miền Nam, trái lại; đổi giầu thành nghèo, sướng thành khổ, tự do thành tù đầy, chết trên cạn, trên biển, như từ trên cao rớt xuống hố thẳm.
Từ khi gặp lại bà Huệ, người tình của 21 năm về trước mà ông Hưng đã phải từ giã để ra Bắc, ông cứ nói dối vợ là bận việc cơ quan. Bà Huệ có tiệm may ở đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, gần viện đông y, có chồng đang ở tù vì móc nối người vượt biên để kiếm chác bị vỡ lở. Gặp lại ông Hưng vào đúng lúc bà cần có tay trong để lo lót với công an giúp chồng được ra tù, bà thấy hồ hởi vô cùng. Bà than thở, chiều đãi ông Hưng đủ thứ mong chắp nối mối duyên xưa đã bị quên lãng.
Một hôm bà Hòa sốt ruột đến cơ quan tìm ông Hưng, bất chợt thấy ông từ tiệm may của bà Huệ đi ra, bà túm lấy ông hỏi:
- Ông đừng chối nhé. Tôi bắt quả tang ông ở nhà con đĩ ngựa này ra. Thế mà ông cứ nói dối quanh với tôi là bận việc ở cơ quan. Bận gì đâu? Ông trốn việc chui vào cái ổ này hoài.
Ông Hưng ngượng tím mặt với vợ và người đi đường đứng lại coi. Ông vươn cổ cãi:
- Tôi vào may bộ quần áo. Bà làm gì vậy.
- Thế thì ông vào đây. Vào đây tôi hỏi ba mặt một nhời.
Vừa nói, bà ta vừa lôi tay ông chồng vào tiệm may. Thấy bà Hòa dữ dằn quá, ở trong tiệm bà Huệ vội lẻn ra cổng sau chuồn mất, để lại cô con gái trông coi cửa hàng.
Bà Hòa cau có hỏi cô gái:
- Có phải ông này may quần áo ở đây không?
-Con không rõ.
- Thế mẹ mày đâu?
- Má con đi công chuyện.
Bà ta trừng mắt nhìn cô gái rồi bảo ông chồng:
-Thôi được, ông về nhà để cho tôi nói chuyện.
Ông Hưng dịu giọng:
- Bà muốn gì thì để đến chiều. Bây gờ tôi phải đi làm. Trễ rồi.
- Được. Ông cứ đi làm.
Chiều hôm ấy, ông Hưng về muộn. Khi mới thấy mặt ông, bà Hòa cầm trong tay tấm thẻ đảng của ông, nói lớn:
- Tôi xé tấm thẻ này cho ông coi. Ông đâu còn xứng đáng là đảng viên đảng Cộng sản nữa.
Ông Hưng tái cả mặt, vội ôm chầm lấy vợ, cố giằng tấm thẻ đảng. Bị mất đà, ông ta té xuống nền gạch hoa làm vợ té theo, đè lên người ông. Ông bị dập đầu, máu chảy bên thái dương.
Hàng xóm thấy lộn xộn ở nhà ông bà cán bộ nhưng không ai dám vào can thiệp. Lúc ấy Hà vừa đi làm về, thấy bố chảy máu đầu, vội la lên:
-Bố làm sao thế này?
Bà Hòa lôi ông chồng dậy, cuống cuồng bảo Hà:
-Mày gọi cấp cứu chở bố mày vào bệnh viện ngay. Tao với ông ấy vừa cãi nhau vì ông ấy bỏ nhà đi theo con đĩ Huệ.
Hà nhìn ông bố, buồn rầu nói:
- Khổ quá. Bố mẹ cứ thế này thì chịu sao nổi.
Rồi nàng gọi điện thoại cho bệnh viện Saigon xin xe cấp cứu. Chợt ông Hưng gượng đứng dậy. Hà hỏi:
- Bố có sao không?
Ông bố than thở:
- Ê ẩm cả đầu.
- Để con lấy băng dán vết thương.
Vừa lúc ấy xe cứu thương tới trước cửa nhà. Anh y tá chả quen mặt ông Hưng, vội dìu ông ra xe. Anh ta nói với Hà:
- Đây là ông thầy chữa bệnh trĩ cho tôi. Chữa trĩ ở bệnh viện mãi không khỏi, tôi phải chạy đến ông.
- Vậy à. Nhờ anh đưa ông đi gấp.
Xe cấp cứu đi khỏi, Hà lấy xe máy chở mẹ vào bệnh viện. Hàng xóm xúm đông trong hẻm, xì xào bảo nhau:
- Lại chuyện ghen tương vợ lớn vợ bé. Thật dửng mỡ.
- Thế vợ bé đâu?
- Nào ai biết. Ông này giấu vợ bé, sức mấy đem về đây cho bà lớn xé tan xác!
- Mẹ kiếp. Từ hồi nào hẻm này đâu có chuyện ghen tương như thế này.
Có tiếng cười khúc khích lẫn tiếng thở dài của người dân trong hẻm đang phải chạy đôn đáo lo cái ăn từng ngày.
Hôm qua ở đầu hẻm, bà bán cháo heo đã bỏ thuốc rầy diệt chuột vào nồi cháo cho ba con nhỏ ăn, cả bốn mẹ con chết mà chưa ai ngó ngàng tới. Dân trong hẻm đang bảo nhau góp tiền lo ma chay cho mấy mẹ con bà ta. Thật đau xót hết chỗ nói.
Sau khi được băng bó vết thương và chiếu điện, ông Hưng chỉ bị thương nhẹ, nhưng phải nằm lại bệnh viện một đêm, sáng hôm sau mới về nhà.
Nhìn tấm thẻ đảng chưa bị xé, ông ta cầm bỏ túi rồi bảo vợ:
- Bà mà xé tấm thẻ này thì tôi bỏ bà luôn.
Bà Hòa bật khóc:
- Ông coi cái thẻ này hơn tôi. Tôi đâu ngờ nông nỗi này. Ông thật vô ơn bạc nghĩa. Có mới nới cũ. Mà mới gì cho cam. Nó là thứ rẻ rách ông đã bỏ từ hơn hai chục năm rồi, thế mà ông còn cứ ôm ấp mãi! Đến nước này mẹ con tôi bỏ về Bắc cho mà xem, để ông tha hồ hú hí với vợ bé.
-Tùy bà. Ở hay đi, tôi không cản.
Thế rồi hai vợ chồng xa nhau thật. Bà Hòa về Bắc được ít lâu, lại vào ở với cô con gái. Còn ông chồng thỉnh thoảng về thăm bà, đưa bà mớ tiền tiêu. Ông vẫn đi lại với vợ bé, chẳng quan tâm đến dư luận đàm tiếu. Sau khi ra tù, ông chồng bà Huệ bỏ nhà đi vượt biên, biệt vô âm tín từ đó.
Vắng mặt ông bố đẻ, Hà mang bồ về nhà; anh cán bộ thuế cùng cơ quan. Ngành thuế béo bở nhất vì các khoản thu ngoài sổ sách. Đến lúc nàng có chửa ba tháng, anh chồng mới chịu làm đám cưới. Tiệc tùng ở nhà hàng và ở nhà kéo dài hai hôm. Ông Hưng đem về một tràng pháo đại dài tới ba thước treo trước cửa nhà đốt để mừng đám cưới của cô con gái rượu.
Nghe tiếng pháo nổ đinh tai nhức óc đến nửa giờ mới dứt, ông thợ sơn ở cuối hẻm nói với vợ:
-Thật điếc cả tai. Sao cái hẻm này bây giờ lắm chuyện ồn ào thế nhỉ.
Bà vợ cười bảo:
- Họ đốt tiền để khoe của đấy, ông biết không?
-Tiền Hồ có khác. Cả thúng tiền mà giá trị chẳng là bao.
Coi bộ ở mãi trong con hẻm này không đẹp mặt vì chuyện nọ chuyện kia, gia đình ông Hưng dọn đi nơi ở mới, còn căn nhà đang ở được cơi lên ba lầu lộng lẫy cho tây ba lô, khách khứa cán bộ đến thuê phòng giải trí để hốt đôla.
Từ vô sản biến thành tư bản đỏ, đó là bản lý lịch mới của ông Hưng. Còn những cán bộ có quyền chức cao hơn thì giàu đến đâu?
Trở lại với tình trạng gia đình Bình.
Ngày 14 tháng 6, 1975, Ủy ban quân quản ra thông báo trên đài phát thanh là các sĩ quan chế độ cũ phải tới trình diện các địa điểm được ấn định trong thành phố để tập trung đi học tập cải tạo, mỗi người mang theo một tháng tiền ăn. Nghe lệnh này, Bình nghi ngờ thời gian đi học tập có thể kéo dài vô hạn định, chứ không chỉ một tháng.
Đây lại là cái bẫy để các cựu sĩ quan đến trình diện cho đông với ảo tưởng học cho xong còn về lại với gia đình. Nhớ đến anh bạn đại úy quân đội quốc gia ở lại miền Bắc sau năm 1954 mà phải đi tù 13 năm, chàng mới cho là mình nghĩ đúng.
Ngọc vừa sắp ba lô, vừa ân cần bảo chàng:
- Đây là bộ quần áo đen của anh mặc trong lúc đi học tập.
Nàng đã phải nhờ cô em gái vào chợ Dân Sinh kiếm được bộ quần áo đen cho chàng. Thứ quần áo quê mùa này bây giờ trở nên hiếm hoi và đắt giá vì nhiều người đi học tập cần mua. Còn bộ nhà binh kaki mầu vàng của chàng, nàng phải thuê thợ nhuộm thành mầu đen cho chàng có đủ hai bộ mặc thay đổi.
Chàng dặn:
- Em nhớ bỏ thêm thuốc cảm, sốt rét và kiết lỵ. Ba thứ này cần lắm đấy.
Thế là nàng lại phải đi mua thêm mấy món thuốc tây ở chợ đen bỏ vào ba lô cho chàng. Số tiền bẩy chục ngàn chàng gửi nhà băng Anh, mới rút ra năm chục ngàn để Ngọc tiêu vặt, nay đã gần cạn. Không biết rồi đây sau khi chàng đi tù biền biệt, nàng sẽ phải xoay xở ra sao để nuôi bảy đứa con? Số tiền của chàng còn lại ở nhà băng coi như mất. Nhiều người bị mất những món tiền hàng triệu đồng gửi các nhà băng không kịp rút ra trước ngày 30 tháng Tư, nay về tay Cộng sản vơ vét.
Buổi chiều ngày 14 tháng Sáu là buổi chiều buồn thảm nhất đối với Bình, buổi chiều chàng phải từ giã vợ con để dấn thân vào chốn tù đầy mà không biết có ngày trở về đoàn tụ với gia đình không? Đó là buổi chiều tâm tư chàng có lúc nặng trĩu nghìn cân, có lúc thật trống rỗng khó tả.
Cái cảm nghĩ này không chỉ riêng chàng có mà có lẽ nhiều người đồng cảnh ngộ cũng có. Trong hẻm còn lại ba người cùng đi tù với chàng: một ông đại tá ở dinh Gia Long, một ông trung tá bưu điện và một ông thiếu tá truyền tin, như vậy cũng có người có ta. Chiếc lon thiếu tá thâm niên đến bảy năm của chàng đã vĩnh viễn bị chôn vùi trong ngày 30 tháng Tư. Nhiều huy chương, tưởng lục cũng đã trở thành ký ức. Chàng ra đi với cái nhìn lặng lẽ mà cảm động của Ngọc và mấy đứa con gái. Các con chàng cũng đã hiểu vì sao bố lại phải đi tù, phải xa chúng.
Chiếc xích lô chở chàng tới trường trung học Taberd đường Nguyễn Du thì dừng lại. Chàng bước xuống, trả tiền cho bác xích lô rồi xách chiếc ba lô bước vào trong sân trường. Đã có nhiều người tới trình diện, họ đứng ngồi trong sân, đợi vào văn phòng ghi tên và đóng tiền ăn.
-Này anh kia, tên gì nhỉ. Không được nói chuyện linh tinh ở chỗ này.
Một chị cán bộ ngồi ở bàn giấy cất giọng chua ngoa với một cựu sĩ quan trẻ đang nói chuyện ở góc phòng với vị tuyên úy Phật giáo thuộc đơn vị cũ. Thấy chị ta lên mặt, nhiều người đứng quanh đó chắc cảm thấy khó chịu mà đành lặng thinh. Chỗ này đã là ngưỡng cửa của nhà tù; không còn mảy may tự do cho người đi tù nữa.
Đóng tiền ăn xong, mọi người được dồn vào các phòng học chờ lệnh. Không ai biết sau đây mình sẽ phải làm gì và đi đâu? Cũng chẳng ai chợp được mắt vì thấp thỏm chờ đợi giờ phút ra đi. Chừng ba giờ sáng, tất cả mọi người được lệnh tập trung ở sân trường để lên những chiếc xe tải mầu xanh mang chữ “Giải phóng” của Trung Cộng.
Trời đổ mưa giữa đêm. Sân trường lạnh và ướt. Đoàn xe rời khỏi trường Taberd chạy theo hướng xa lộ Biên Hòa. Phút chốc Saigon lùi dần về phía sau, ánh đèn chỉ còn là những đốm sáng chập chờn qua màn sương.
Hơn một giờ sau, đoàn xe chạy vào trại Long Khánh. Trại này trước do quân đội Mỹ sử dụng, bỏ hoang lâu ngày nên cỏ mọc cao đến nửa thân người. Mỗi căn nhà tôn chứa 2 trung đội tù nhân, có một cán bộ quản giáo bộ đội phụ trách. Mỗi trung đội cử một người A trưởng để trông coi đội mình.
Hai ngày sau các đội bắt đầu đi lao động. Mới 5 giờ sáng tiếng kẻng đã báo thức, xé tan sự im lặng của buổi ban mai. Mỗi người lãnh một chén cơm với mắm, nuốt vội vàng rồi ra sân nhận dụng cụ. 7 giờ các đội đi phát quang, dọn mìn quanh trại, chuẩn bị đất đai trồng hoa mầu. Trưa về nghỉ một tiếng ăn cơm. Chiều 2 giờ lại đi lao động đến 5 giờ. Ngày nào cũng như ngày nào, trừ ngày chủ nhật được nghỉ xả hơi.
Những ngày đầu, Bình cảm thấy khó chịu khi nghe tiếng kẻng khô khan vào buổi sáng sớm, lôi tù nhân bật dậy như cái lò xo để sửa soạn đi lao động, cũng như tiếng kẻng nhốt chuồng vào lúc chập tối, tù nhân nằm sát nhau như cá hộp trên các tấm ván thùng ghép lại. May sao người nào cũng mang theo chiếc mùng cá nhân, không thì muỗi đốt chịu không nổi.
Tiếng kẻng nghe riết thành quen. Nó đã tạo cho chàng cái phản ứng tâm lý tự nhiên như Pavlov, nhà sinh lý học người Nga đã chứng minh phản ứng có điều kiện ở loài vật. Mỗi ngày chỉ có hai lần kẻng, kẻng sớm: ăn sáng và kẻng tối: đi ngủ.
Vài hôm sau có người kêu đau bao tử dữ dội, được quản giáo đưa đi bệnh xá điều trị rồi bặt tin luôn, không thấy quay về đội. Có người đạp phải mìn, bị cưa chân như chân gà bị chặt, đau ráng chịu. Số phận những người bị bệnh hoạn, tai nạn không biết ra sao. Kẻ ra đi vĩnh viễn được anh em bạn tù chôn ở sau trại, mãi sau này gia đình mới nhận được giấy báo tử của trại gửi về.
Nhờ vài trận mưa đổ xuống, những bãi cỏ hoang đã bắt đầu mơn mởn ngô, khoai. Mồ hôi, nước mắt và cả máu xương của tù nhân đổ ra ròng rã 5 tháng mới có được hình ảnh xanh tươi mát mắt.
Thỉnh thoảng tù được nghỉ 2 ngày để lên lớp nghe tẩy não và làm kiểm điểm bản thân. Đề tài là đế quốc Mỹ: con bạch tuộc có trăm vòi. Quản giáo đội nón cối đứng trên lớp nói như vẹt. Tù cứ lặng thinh, làm bộ nghe mà chẳng nghe tý nào. Bài học thật nhàm chán và ấu trĩ. Về tổ, mỗi người phải làm bản tự kiểm để truy hỏi lẫn nhau. Cũng chỉ là làm theo yêu cầu của quản giáo đấy thôi. Đã là kẻ ngã ngựa thì ai cũng như ai.
Chiều chiều Bình gặp nhà văn Văn Quang ra sân ngắm mây gió. Có vài văn nghệ sĩ quân đội chàng quen mặt ở tản mác trong các đội, thỉnh thoảng mới gặp nhau trong lúc đi lao động.
Cuối năm 1975 có lệnh chuyển trại về Suối Máu, Biên Hòa. Rời đất Long Khánh hiền hòa theo đoàn xe vận tải “ Giải phóng” của Trung Cộng, có người còn nhớ chỉ 6, 7 tháng trước tại đất Long Khánh đã diễn ra cuộc giao chiến thần sầu quỷ khốc giữa quân ta và quân Cộng sản Bắc Việt trong 11 ngày đêm, từ ngày 9 đến ngày 19 tháng Tư năm 1975. Quân đoàn 4 Cộng sản Bắc Việt gồm 3 Sư đoàn chính quy 6,7, 341, được tăng cường một số đơn vị của Quân khu 7, xe tăng, pháo 130 ly đã phải nếm mùi cay đắng khi đụng đầu với thành đồng vách sắt của Sư đoàn 18 Bộ binh, Lữ đoàn 1 Dù, Lữ đoàn 3 Thiết giáp, Biệt động quân và Địa phương quân thuộc Tiểu khu Long Khánh. Tướng Hoàng Cầm, Tư lệnh lực lượng Cộng quân đã phải gờm Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh và lực lượng tử thủ Long Khánh-Xuân Lộc.
Đến với Long Khánh bằng hình ảnh những vạt rừng cao su bạt ngàn, những thửa vườn chôm chôm chín mọng của người dân vùng đất đỏ. Giã từ Long Khánh với ký ức trận đánh Xuân Lộc hào hùng năm 1975. Đó là những kỷ niệm in sâu vào tâm khảm Bình trong những ngày đầu đi tù.
Đất đỏ hiền khô mà hãnh diện,
Muốn đời Xuân Lộc vẫn mầu xanh.
Tết đầu tiên ở Suối Máu đến với chàng thật tẻ nhạt và buồn bã. Đó là cái Tết nhớ nhà ghê gớm, dù Saigon vẫn chưa xa xôi lắm, khoảng 30 cây số chim bay. Ban ngày người dân Saigon vẫn đi lại trên con đường lên Biên Hòa, gần chỗ tù lao động; ban đêm ánh sáng thủ đô vẫn le lói một góc trời. Mất xuân, chàng tự nhủ:
Ba ngày Tết, xuân đâu chẳng thấy,
Nhìn quanh mình chỉ thấy kẽm gai,
Tấm lòng ôn cố chưa phai,
Còn xuân, còn đợi một ngày phục hưng.
Lúc này mỗi người có những cảm xúc riêng tư. Buồn ở chỗ ngày tháng trôi đi một cách vô nghĩa, như các cụ đã nói: Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại. Dù sao người tù cũng phải sống cho mình trước hết, như văn hào Solzhenitsyn, một tù nhân nổi tiếng dưới chế độ Liên Xô đã viết.
Ba ngày Tết, tù nhân chỉ được phát mỗi người một chén cơm, thêm một, hai miếng cá kho hay thịt heo nhỉnh hơn ngón tay. Ngày hai bữa trưa và chiều. Ngày thường tù ăn uống kham khổ hơn, có khi chỉ có cơm với canh pha mỡ. Chẳng bù tù cộng sản trước kia được chính quyền miền Nam cho ăn thịt cá ê hề mà vẫn cứ giả đò đòi đấu tranh tuyệt thực trong tù.
Trong ba ngày Tết anh em không phải nghe tiếng kẻng báo thức lúc 5 giờ sáng để chuẩn bị đi lao động.
Bình nhớ lại cuốn truyện Một Ngày Trong Đời của Ivan Denisovich, [1] nhà văn Nga Alexander Solzhenitsyn đã kể lại truyện 11 năm tù đầy, từ năm 1945 đến năm 1956 ở Sibérie của nhân vật Ivah Denisovich, vai chính thay cho tác giả. Nhân vật này là trung úy chỉ huy đơn vị pháo binh thuộc Hồng quân Liên Xô chiến đấu chống quân Đức, rồi bị Đức bao vây bắt làm tù binh.
Khi trốn khỏi trại giam của Đức về lại đơn vị cũ, anh ta bị nghi ngờ làm gián điệp cho Đức. Dù cố biện minh, anh vẫn bị ghép vào tội đã nhận một nhiệm vụ gì đó của quân Đức giao cho. Anh đành nhận cho xong chuyện, bằng không anh sẽ bị xử bắn vì tội ngoan cố. Dĩ nhiên anh ta bất mãn chế độ cộng sản đầy dối trá, song vì sự sống còn của bẩn thân, anh cứ phải âm thầm chịu đựng cảnh tù tội để hy vọng có ngày còn về được tới nhà.
Theo tác giả, cứ 5 giờ sáng tù nhân nghe tiếng kẻng báo thức phát ra từ thanh sắt đường rầy xe lửa. Tù nhân Donisovich liền vớ đôi găng tay, xỏ ngay chân vào đôi giầy ống bằng nỉ, nếu không anh sẽ bị chết cóng vì cái lạnh khủng khiếp của Sibérie.
Rồi tù nhân phải vội vã xuống nhà ăn lãnh bát cháo loãng, nếu chậm chân thì chỉ có việc ra chỗ rửa bát liếm chồng bát cho đỡ đói mà thôi. Khi lãnh được miếng bánh mì, anh chỉ ăn một nửa, còn một nửa lấy vải gói lại để dành lúc đói có cái lót bụng. Anh còn phải giữ gìn cái muỗng như một vật thiết thân; nhét kỹ nó vào ống chân giầy khỏi mất, khi ăn cháo còn có cái mà vét chút cháo cặn bỏ vào miệng.
Điều anh tâm niệm là sự sống còn của chính anh, mọi thứ khác không liên quan đến đời sống của tù nhân hãy bỏ qua một bên. Đó là kinh nghiệm thực tiễn nhất của Solzhenitsyn. Đương nhiên không ai bảo ai, tù nhân như Bình cũng có kinh nghiệm dày dặn khi phải va chạm hàng ngày với cộng sản.
Sau khi mãn án, Solzhenitsyn được tòa án tối cao Liên Xô minh oan, được phục hồi binh nghiệp và thăng cấp Đại úy. Ông còn được truy tặng hai huy chương của Liên Xô. Sở dĩ ông được đối xử tốt trở lại vì ông là nhà trí thức có uy tín, được Krushchev lúc ấy là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô gọi ông là Tolstoy thứ hai.
Sau đó ông viết cuốn Quần đảo Gulag; tố cáo chế độ nhà tù man rợ Liên Xô. Mật vụ KGB theo dõi ông, tịch thu bản đánh máy cuốn sách khiến cho cô đả tự viên quá lo sợ phải treo cổ tự tử. Solzhenitsyn đã phải bí mật gửi bản thảo ra ngả Tây phương và bị trục xuất khỏi Liên Xô. Ngày 8 tháng 10 năm 1970 ông được tặng giải thưởng Nobel về văn chương song phải đợi khi ra nước ngoài ông mới lãnh giải thưởng này.
Cuốn Quần đảo Gulag đã được xuất bản năm 1974 và được thế giới đón nhận rất nồng nhiệt.
Nói chung, chế độ nhà tù Cộng sản ở đâu cũng thế cả. Cho ăn đói, nằm lạnh, hành hạ về tinh thần lẫn thể xác. Cùng một khuôn mẫu. Ở đâu cũng nghe tiếng kẻng lạnh đến xương sống, cũng có cảnh tù nhân phải vét sạch chén bát, thậm chí còn bươi móc những thứ gì có thể ăn được từ đất như ốc ma, cóc nhái, từ cây cỏ như rau rừng, trái dại, từ cả chất phế thải của con người như hạt bobo, bắp chưa kịp tiêu hóa để sống sót. Đó là chuyện thường ngày và là chủ trương của Cộng sản đối với tù nhân chính trị.
Trại tù Suối Máu nhỏ, nằm bên con đường nhựa đi Biên Hòa và Hố Nai, trước kia là trại giam tù binh Cộng sản. Buổi chiều mát, anh em không hẹn nhau mà túm năm tụm ba đi quanh quẩn trên con đường đất trong trại, chuyện trò với nhau cho đỡ nhớ những ngày Tết ở đơn vị hay ở trong gia đình đoàn tụ. Các trò giải trí do trại bầy ra để anh em tự biên tự diễn như ca hát, viết bài cho báo tường, xem chiếu phim Việt Cộng và phim gián điệp Đông Âu nhiều tập Trên Từng Cây số. Anh em coi phim để giết thì giờ buổi tối, bớt đi những giờ phút nằm trằn trọc trên nền đất lạnh mà manh chiếu rách không đủ ấm lưng.
Sau ba ngày Tết, các đội lại đi lao động trồng khoai, sắn ngoài trại. Mặt trời Suối Máu đỏ rực như máu. Đất hừng hực lửa. Bàn tay tù cầm cuốc, xẻng cứ chai đá thêm. Bệnh kiết lỵ lan truyền vì ăn ở thiếu vệ sinh. Tù có mang được viên thuốc nào đi thì uống đỡ, còn không xin trại vài viên xuyên tâm liên trị bá bệnh chẳng đi tới đâu.
Trong không khí căng thẳng của trại, có tin hai trại viên cắt rào kẽm gai đào thoát lúc xế trưa. Người chui rào ra trước nhanh chân bám chiếc xe lam vừa chạy tới rồi biến về Hố Nai. Người chui ra sau bị bộ đội gác cổng phát hiện và bắn bị thương. Sau đó có tin anh trốn về Hố Nai bị bắt lại, không rõ thực hư thế nào. Còn anh bị thương thì ba ngày sau bị Việt Cộng đem ra xử bắn phía sau trại. Sự tàn nhẫn ở chỗ tù nhân bị thương không được chữa trị, không được cơ hội sống, mà còn bị Việt cộng đem ra xử bắn để răn đe người khác, trái với Quy ước quốc tế Genève về đối xử tử tế với tù hàng binh và thường dân. Nghĩ về cái chết của người chiến hữu, Bình cảm thấy có sự tương đồng ý nghĩa so với cái chết của Văn Thiên Tường:
“Nhân sinh tự cổ thù y vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.
Có nghĩa là:
Tự cổ, người ơi ai chẳng chết,
Hãy giữ lòng son sáng sử xanh.
Văn Thiên Tường [2] là một tấm gương sáng trong lịch sử Trung Hoa. Ông là tể tướng cầm quân chống giặc Nguyên để cứu vãn triều đình Nam Tống và bị quân giặc bắt sau nhiều phen chống cự. Ông không chịu khuất phục quân địch để được hưởng vinh hoa phú quý, cũng không chịu kêu gọi tướng Nam Tống là Trương Thế Kiệt ra hàng nên bị quân Nguyên giết.
Năm 1279, triều đại Nam Tống bị tiêu diệt, Nguyên Thế Tổ tức Hốt Tất Liệt chiếm tòan cõi Trung Hoa và thông trị dân tộc Hán.
Phần lớn tù nhân ở trại Suối Máu thuộc loại tác chiến và chiến tranh chính trị. Nghe tin họ chỉ ở đây tạm bợ, chờ chuyển ra các trại giam miền Bắc xa xôi.
Sau khi Bình đi tù, khu vực Ngã Sáu Saigon trở thành phường 12 thuộc quận Một. Chủ tịch phường là chị đánh móng tay, cán bộ nằm vùng, tuổi chừng 40. Hôm Ngọc lên phường khai báo nhân khẩu để mua khoai mì, chị ta dõng dạc bảo nàng:
- Chị có nhớ tôi không?
Nàng cười đáp:
- Tôi nhớ chứ chị.
- Chị ráng nuôi các cháu, anh ấy đi cải tạo một thời gian rồi sẽ về thôi.
- Cám ơn chị.
- Nhà chị có bao nhiêu nhân khẩu?
- Tám người tất cả.
- Chị thông cảm phường đang gặp khó khăn. Chưa có gạo bán cho đồng bào. Thôi chị về. Khi nào có khoai mì, phường sẽ gọi loa để chị lên mua.
Đúng là đổi đời. Nàng nhớ có lần vào tiệm uốn tóc bên đường Ngô Tùng Châu, thấy chị ta ngồi đánh móng tay cho các khách hàng, nay là bà chủ tịch phường coi mấy ngàn dân trong một khu phố, có cả công an phường, hợp tác xã mua bán. Lớp lao động, cán bộ nằm vùng nay chường mặt trong các bàn giấy để cai quản dân chúng Saigon.
Tòan thành phố không có gạo vì các tỉnh chưa có lệnh đưa gạo về. Các gia đình phải ăn khoai mì thay cơm. Nàng cứ nấu nồi cháo khoai mì cho các con ăn cả ngày. Sức khỏe của chúng sa sút dần vì thiếu chất dinh dưỡng. Có đứa đau ốm, nàng lại phải chạy thuốc thang cho con, không có tiền bạc đưa nó đi bệnh viện.
Lúc đầu nàng nấu nồi xôi bán ở ngoài hẻm để nuôi đỡ các con. Hai đứa con gái lớn phải nghỉ học để phụ nàng. Mấy đứa con nhỏ còn đang đi học. Nghĩ đến chồng đang ở chốn tù đầy, nàng như có thêm nghị lực để thay chồng cưu mang bầy con.
Sau đó nàng đi buôn ít vải và mớ quần áo cũ bán trên lề đường chợ Bến Thành. Mưa nắng đã đành, nàng còn bị công an đuổi, tịch thu quần áo, lận đận vô cùng. Chắc chẳng ai hiểu nổi những nỗi điêu đứng của nàng lúc này.
1 giờ sáng, loa kêu các vợ sĩ quan đi cải tạo ra quét đường. Thế là nàng choàng dậy, tay cầm cây chổi ra đường quét rác. Đường còn mù mịt sương, tấm áo lại phong phanh, nàng run người vì tủi nhục, đành cắn răng chịu đựng. Các bà vợ sĩ quan ở trong thành phố đều phải chịu cảnh ngộ này. Thế mà các bà vẫn can đảm biểu tình trước nhà bưu điện Saigon đòi chồng con về, mặc cho công an dùng xe cứu hỏa phun nước giải tán và bắt bớ, đánh đập.
Cái họa vẫn chưa hết cho người dân miền Nam. Ngày 22 tháng Chín, 1975, nhà cầm quyền Cộng sản ra lệnh đổi tiền. Tiền cũ có giá trị đổi ra tiền Hồ mất giá, người dân lại cháy túi, đời sống càng thêm đen tối.
Lúc ấy có tin Đỗ Mười, Phó thủ tướng cho Phạm Văn Đồng được cử vào Nam chỉ huy chiến dịch đánh tư sản mại bản. Saigon vẫn còn những chủ nhân xí nghiệp, nhà băng, cơ sở kinh doanh sản xuất và tư nhân giầu có nhờ kinh tế thị trường. So với miền Bắc, nền kinh tế miền Nam lúc ấy vẫn cao gấp bội, nhất là về mặt lúa gạo sung túc ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đó là lý do để Cộng sản Bắc Việt đánh tư sản miền Nam, hạ thấp nền kinh tế cho bằng với mức thấp của miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Buổi sáng hôm ấy Ngọc nghỉ bán hàng, thấy chị tổ phó an ninh dẫn một cán bộ phường vào nhà nàng. Chị tổ phó an ninh chẳng ai xa lạ, là vợ một sĩ quan đã đi học tập cải tạo ở gần nhà nàng.
-Chị là Ngọc phải không?
Nàng gật đầu bảo:
- Phải. Có việc gì thế anh?
- Chị được phường cử vào ban kiểm kê tài sản của bọn mại bản. Chế độ làm việc của chị là bám sát các đối tượng, phát giác mọi hành vi tàng trữ giấu giếm của bọn này.
Nàng nghi chị tổ phó an ninh trong vụ cắt cử nàng vào ban kiểm kê. Thời buổi nhiễu nhương này nàng cũng chẳng trách chị ta có tâm địa không được tốt. Chồng đi tù mà chị ta cứ giao thiệp mật thiết với cán bộ an ninh trong hẻm để bới lông tìm vết người khác.
Ngày hôm sau, nàng phải bỏ việc bán hàng để theo ban kiểm kê đi đến các nhà kinh doanh trong phường. Cuộc khám xét tỉ mỉ diễn ra từng nhà, không một xó xỉnh nào, ngóc ngách nào bị bỏ sót. Máy móc, vật liệu sản xuất bị niêm phong, vàng bạc giấu trong nhà, trong người đều bị tịch thu. Có chỗ còn bị đào bới để tìm ra của cải. Người có của bị coi như kẻ có tội trước mắt đám cán bộ tra khảo, hạch hỏi đủ điều.
Chiến dịch đánh tư sản cũng rập theo chiến dịch cải cách ruộng đất ở miền Bắc từ năm 1953 đến năm 1956, chỉ khác ở chỗ tư sản miền Nam không bị đem ra đấu tố, nhưng nhiều người vẫn phải đi lên phường, lên quận học tập cải tạo trong 10 ngày.
Buổi tối hôm ấy nàng thấy cô em họ xách cái giỏ mây tới nhà nàng. Tưởng gì hóa ra cô ta đem đến gửi nàng một hộp bánh bít qui đựng vàng giấu trong giỏ.
Cô em nói nhỏ nhẹ:
- Chị cho em gửi. Khi nào yên thì em xin lại.
- Bao nhiêu thế cô?
- Một chục lượng.
- Chị sợ lắm. Nếu họ khám nhà thì sao?
Cô em nói khẩn khoản:
- Chị cứ giữ giùm. Em chẳng biết gửi ai ngoài chị.
-Thôi được. Chị giữ mà mất thì em ráng chịu nghe.
Cô em họ có ông bố làm chủ hãng nước mắm ở Phan Thiết. Ngoài của chìm, ông còn tài sản ở Phan Thiết và Saigon cho con cái ăn học. Thiên hạ nhiều người giầu có từ thời ông Diệm có chủ trương phát triển kinh tế. Ngọc nghĩ mình tuy nghèo nhưng vẫn thấy dửng dưng trước đóng tài sản, vàng bạc của những nhà tư sản bị Cộng sản tịch thu ở trước mắt.
Sáng hôm ấy ban kiểm kê đến làm việc tại nhà một bà kinh doanh vàng bạc. Cả trăm cây vàng của bà ta bị cán bộ tịch thu đem đi. Đến trưa, cả đám kéo nhau đi ăn, còn mình nàng ở lại coi nhà. Bà chủ rầu rĩ bảo nàng:
- Cô xem, bao nhiêu công lao, tiền bạc của tôi bỏ ra làm ăn mấy chục năm bỗng ra tro.
- Con biết. Đây là cái nạn chung của bà con mình bác ạ.
Bà ta lại gần chậu lan, nhìn trước nhìn sau rồi nghiêng đáy chậu lấy ra 2 chỉ vàng đưa cho nàng:
-Tôi biếu cô. Để đây chúng sẽ lấy hết cho mà coi.
Nàng cảm động nói:
- Bác mất nhiều quá rồi. Bác cứ giữ mà tiêu. Con mà lấy thì họ sẽ cho con đi tù bác ạ.
- Vậy à. Tôi để vào chỗ cũ. Cô đừng nói gì nhé.
-Bác cứ yên tâm. Con coi như không biết.
Lại có trường hợp đáng thương hại. Một ông chủ có vựa cá ở chợ cầu Ông Lãnh bầy sẵn một mâm vàng lá ở giữa sân. Ông ta nói với cán bộ kiểm kê:
- Cả sản nghiệp của tôi chỉ có chừng này. Mời các ông lấy đi cho.
- Được. Để chúng tôi kiểm tra.
- Các ông cứ việc kiểm tra. Tôi không hề nói dối.
Họ lục soát một hồi lâu trong nhà ngoài cổng không thấy gì, đành lấy mâm vàng ở giữa sân đem đi. Những của cải này đi về đâu, lọt vào tay ai? Nhân dân không ai được biết, ngoại trừ những cán bộ đảng đang nắm quyền sinh sát trong tay. Tài sản của quốc gia, của nhân dân, họ nắm hết. Dân chỉ việc nai lưng ra lao động sản xuất để họ thụ hưởng.
Sau chiến dịch chảy máu vàng bạc, nhiều người phải bỏ nước ra đi. Thêm mấy đợt vượt biên bán chính thức để công an đứng ra công khai thu vàng bỏ túi, vét nhẫn của cải còn lại của nhân dân. Xí nghiệp, nhà máy đóng cửa, dân lao động thất nghiệp, nông dân phải vào hợp tác xã làm ăn.
Miền Nam đương ở chốn thiên đường bỗng chìm xuống hỏa ngục đỏ.
Sau cả tháng đi làm việc không công cho ban kiểm kê tài sản, Ngọc mất ăn mất ngủ, trong người mệt mỏi rã rời. Con cái bị bỏ bê, có gì ăn nấy; nàng chẳng còn thì giờ ngó ngàng tới chúng. Nghĩ lại, nàng thấy thương chúng vô cùng. Nàng vừa xin nghỉ việc thì phường lại cho cán bộ xuống bảo nàng:
- Chị đi kinh tế mới cho chồng về sớm. Phường sẽ giúp phương tiện cho chị đi.
Nàng kinh ngạc bảo:
- Tôi một nách bẩy con, đi kinh tế mới lấy gì mà sống. Tôi không đi đâu cả.
- Chị không đi thì chồng chị còn lâu mới được về. Chị hãy nghĩ kỹ đi.
- Cái đó tôi không biết. Còn tôi và các con nhỏ không đi đâu cả.
Thấy không thuyết phục nổi nàng, cán bộ phường đành bỏ đi. Nàng biết đi kinh tế mới là sẽ mất luôn nhà. Một số người nhẹ dạ đi kinh tế mới, cực quá chịu không nổi, đến lúc quay đầu về lại Saigon thì mất nhà, phải ra vỉa hè nằm. Đau xót biết chừng nào? Vẫn chưa hết chuyện đau lòng. Đứa con gái lớn của nàng tốt nghiệp lớp 12, có lệnh của phường gọi đi làm thủy lợi ở Bình Chánh. Suốt ngày lội bùn, đào mương, không một hột cơm trong bụng, con bé ngất xỉu ngay trên đống bùn lầy, quần áo, mặt mũi lấm bê bết. May có anh thanh niên xung phong trông thấy đem cáng tới rồi hai người chở con bé đến bệnh xá cấp cứu.
Trời tối mịt con bé mới về nhà trong lúc cả nhà nóng ruột không biết chuyện gì đã xẩy ra. Ngọc càng nghĩ càng thêm giận, thêm tủi. Nàng than thở với con:
- Họ muốn đẩy mẹ con mình vào chỗ chết. Nếu mẹ có tiền, mẹ sẽ cho các con đi vượt biên, cứ khổ mãi thế này chịu không nổi.
Nhưng nàng không có cây đũa thần để giúp các con vượt qua cơn hoạn nạn. Đồ đạc trong nhà đã bán đi một mớ, những thứ còn lại không còn giá trị. Nàng phải đi làm chân giữ xe đạp cho phòng thuế quận Một, từ sáng sớm đến tận khuya mới về.
Đang lúc nàng bận bịu với cơm áo thì ông bố chồng vào thăm. Ông đi tàu thủy từ Hải Phòng vào Saigon mất 3 ngày, vì đường xe lửa từ Bắc vào Nam chưa sửa xong. Dáng người gầy gò, tóc bạc, mắt sâu, ông ngỡ ngàng nhìn cô con dâu trưởng. Giây lát sau nàng mới nhận ra ông cụ bố chồng nhờ coi ảnh gia đình và thấy các nét giống giữa hai khuôn mặt ông cụ và Bình.
-Chào ba. Mời ba vào nhà. Ba đi có mệt không?
Ông cụ vừa cười, vừa nói:
- Về tới đây là ba thấy hết mệt.
Nàng đỡ cái túi xách quần áo của ông cụ. Vào trong nhà, ông ngồi xuống ghế. Nàng mời ông uống ly nước lạnh. Ông ân cần hỏi:
- Thế anh ấy đi cải tạo bao lâu rồi?
- Dạ, sáu tháng rồi ba.
- Nhà gì mà cũ thế này.
- Nhà quân đội cấp đấy ạ.
- Ba cứ tưởng nhà cao cửa rộng. Ai ngờ lại nghèo thế này.
- Hai vợ chồng con đều nghèo cả. Các cháu lại đông.
Ông cụ vui vẻ nhìn mấy đứa cháu, có đứa là đích tôn cơ đấy. Ông khen:
- Cháu nào cũng khôi ngô. Có cháu nào chịu về Bắc với ông không nào?
Không thấy cháu nào trả lời. Ngọc khẽ hỏi:
- Sao mẹ con không đi cùng với ba?
- Bà ấy vào sau. Ba vào trước xem tình hình ra sao. Cả đời ba bây giờ mới thấy Saigon.
- Hồi máy bay B.52 Mỹ bỏ bom xuống Hà Nội, nhà con cứ lo không biết nhà mình ở ngoài đó có hề hấn gì không?
Ông cụ trừng mắt như lúc có bom nổ:
- Ba nghe rung chuyển cả nhà y hệt trận động đất. Bom bỏ xuống Khâm Thiên gần nhà mình.
-Vậy là nhà mình ở hai nơi được vẹn tòan. Chúng con cứ cầu Trời khấn Phật gia hộ cho cả đại gia đình được bằng an đấy ba.
Ông cụ cảm động nhìn cô con dâu. Ông mừng trong lòng được thấy cô con dâu thảo, biết lo toan cho con cái trong lúc chồng vắng mặt. Điều ông hơi buồn là không gặp mặt Bình sau hai chục năm xa cách, nhưng ông vẫn hy vọng được gặp lại con vào một ngày nào đó.
Nghĩ vậy, ông an ủi nàng:
- Con cứ yên tâm. Chồng con đi cải tạo chẳng chóng thì chầy sẽ được về. Đừng lo lắng gì cả.
Ở được hai tuần, ông lại khăn gói về Hà Nội.
Thấy cái radio nhỏ để bàn, ông bảo nàng:
- Ba đem cái này về nghe tin tức.
- Dạ. Ba cứ lấy. Đã lâu con không nghe radio.
Nghĩ đến ông cụ cất công từ Hà Nội xuống Hải Phòng để vào Nam thăm con, rồi lại trở về bằng tàu thủy, nàng thấy tình cảm cha con thật thấm thìa. Sẵn có mấy thước vải đen, trắng, nàng biếu ông cụ đem về làm quà cho cả cụ bà.
Lúc đưa ông cụ ra bến Bạch Đằng để xuống tàu sắp nhổ neo, đôi mắt nàng bỗng ngân ngấn lệ.
Tháng Mười Một, 1975, Cộng sản tuyên bố hai miền Nam, Bắc thống nhất. Cái gọi là chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam được Bắc Việt dựng lên từ năm 1969, do Huỳnh Tấn Phát giữ chức chủ tịch bù nhìn, đã bị giải tán. Từ đó trở đi không còn thấy bóng dáng lá cờ mặt trận nửa đỏ nửa xanh, ở giữa có ngôi sao vàng, mà chỉ thấy tòan cờ đỏ sao vàng ngoài đường phố. Cái mặt nạ “giải phóng” đã rơi xuống đất, thay vào đó là bộ mặt búa liềm chuyên chính, độc tài, đảng trị.
Điều này, người dân miền Nam đã biết từ lâu!
Chú thích:
[1] Xuất bản năm 1962
[2] Ông sinh năm 1236, mất năm 1283.