Chương Mười Ba Qua các trại tù miền Bắc
Qua đầu năm 1976, khoảng 2000 tù nhân trại Suối Máu được chở ra Bắc bằng tàu Sông Hương. Phải gọi đây là Chuyến tàu kinh hoàng vì chứa quá nhiều người, mất vệ sinh, cướp cả mạng sống của tù nhân. Nhiều người vẫn chưa quên Đại lộ kinh hoàng trong mùa hè 1972, Cộng quân đã nã súng vào đoàn người di tản trên đoạn đường từ Quảng Trị đến Huế, gây thương vong cho nhiều phụ nữ, trẻ em và người già.
Chuyến tàu này cũng là một địa ngục trần gian, gây kinh hãi cho tù nhân trong suốt cuộc hành trình ba ngày ba đêm trên biển.
Bình bước lên tàu lúc trời tối đen. Vài người trợt chân rơi xuống sông ở Tân cảng khi mới dò dẫm bước lên cầu thang. Dưới hầm tàu lờ mờ ánh điện và hôi hám là cảnh tù ngồi như nêm cối. Nào ba lô, túi xách, đồ dùng linh kinh chồng chất lên nhau không còn chỗ chen chân. Muốn đi vệ sinh, tù phải bước qua mặt nhau, lách từng bước một. Nước tiêu, tiểu từ chiếc thùng phuy trên boons tràn ra ngoài, rỏ xuống hầm tàu làm mọi người nôn mửa thốc tháo, chịu không nổi.
Tù bị đói. Mỗi người được phát gói mì ăn khô, hoặc chan với chút nước lã công cộng để dễ nuốt. Ngủ cũng chập chờn vì lo lắng, ưu tư. Cứ thế con tàu tiến về hướng bắc mà nhiều người không biết nó đi về đâu, kể cả mấy tay thủy thủ chuyên nghiệp. Có tin một người tù bị ngột thở, đông quá không ai biết anh ta nằm ở chỗ nào và được cứu chữa ra sao. Thôi thì cứ tự thủ lấy thân mình trước tai họa bất ngờ; đường còn dài, phận ai nấy lo.
Thế rồi con tàu cập bến Hạ Lý trong cái nóng hầm hập ban đêm. Ngắm chùm hoa phượng đỏ ủ rũ trên cành, Bình thấy thấm thoát 22 năm đã trôi qua, bây giờ chàng mới gặp lại mùa hè Hải phòng inh ỏi tiếng ve sầu. Hà Nội chắc cũng thế. Lại thấy cảnh phố xá tiêu điều từ những tháng năm cũ; thấy cái nghèo, cái tăm tối của miền Bắc dưới chế độ cộng sản. Anh em tù nhân mệt mỏi, phờ phạc, lại phải xách hành lý cồng kềnh đứng xếp hàng chờ y tá tiêm cho mỗi người một mũi thuốc trừ dịch.
Rồi anh em lại ùn ùn bước lên những toa xe lửa cũ kỹ chở súc vật không có cửa sổ thông hơi, chỉ có một khe hở nhỏ xíu bên hông, gió chẳng lọt vào. Tàu chạy lên hướng bắc suốt đêm, bánh xe nghiến trên đường sắt nghe ken két long cả óc. Sáng hôm sau tàu dừng lại ở ga Yên Bái để anh em nhận khúc bánh mì ăn trong lúc đi đường.
Có tin một người chết ngạt trên toa tàu, nạn nhân là Trung tá Ngô Văn Hùng phục vụ tại Tổng cục Chiến tranh Chính trị. Bình gặp anh Hùng khi anh làm trưởng Phòng 5 Quân khu 1 ở Huế, còn chàng làm ở Sở Chiến tranh Tâm lý, gần nhà thờ Phủ Cam. Rồi cả hai đổi về Saigon làm việc. Anh là con người tháo vát, giúp đỡ bạn bè và năng nổ trong công việc. Xin vĩnh biệt anh với bốn chữ Sinh Bắc Tử Bắc. Thế là anh đã được quay về đất Bắc trên chuyến tàu định mệnh. Còn bao kẻ Sinh Bắc Tử Nam ; bao nhiêu thanh niên miền Bắc đã phải bỏ xác ở miền Nam vì cuồng vọng xâm lăng của Cộng sản đã không được qui hồi cố hương như anh.
Thị trấn Yên Bái hiện ra trong cảnh đổ nát hoang tàn vì bom đạn Mỹ. Từ ga cũ, đoàn tù nhân phải đi bộ thật xa mới tới hồ thủy điện Thác Bà. Dọc đường, đám con nít được hướng dẫn từ trước, hễ thấy tù nhân đi qua là ném đá, văng tục, trông thật thương hại. Dăm ba chị du kích lùn tịt đeo súng dài hơn người, đứng nhìn với vẻ dương oai!
Hôm sau các tù nhân xuống phà vượt hồ Thác Bà rồi lại đi bộ theo đường rừng vào thật sâu trong dẫy núi Hoàng Liên sơn. Bốn khu trại giam bằng tre nứa theo thứ tự 1,3,5,7 rải rác từ Tuyên Quang ra Yên Bái đang chờ các tù nhân nhập trại. Bình ở trại 3 dưới chân núi cao, bên cạnh hồ Thác Bà rộng mênh mông.
Rừng ở đây còn nhiều tài nguyên. Vắt cũng nhiều vô kể và khát máu người. Chúng ém dưới đám lá khô, mình chỉ nhỏ bằng đầu que tăm, chờ tù đến là chui vào giầy, vào tất hút máu thật no căng mới nhả ra.
Ngày nào tù cũng phải leo núi lấy tre, nứa về tu bổ các nhà giam. Tiêu chuẩn giao cho mỗi người lấy 50 cây nứa, hoặc một cây vầu dài 18 thước, ai lấy không đủ phải leo lên núi lấy lại. Có hôm Bình lấy đủ 50 cây nứa rồi kéo xuống dốc núi trơn trợt. Sợ bị tai nạn, chàng rút bớt 5 cây ra cho nhẹ. Xuống tới chân núi, gã quản giáo Níu, trung úy bộ đội, liếc nhìn bó nứa của chàng không nói năng gì. Sáng hôm sau hắn nói với đội trước giờ đi lao động, giọng vừa ngọng vừa lắp bắp:
- Chỉ tiêu nà chỉ tiêu, anh lào nàm không đúng nà không được, không biết nao động nà vinh quang.
Hắn nói một hồi rồi bỏ đi. Đội tự động lên rừng chặt cây như thường lệ. Bình biết hắn muốn nhắm vào chàng để cảnh cáo.
Xung quanh trại rào nứa kín mít, một bên là núi, một bên là hồ thế mà trong đội của chàng vẫn có người trốn trại vào ban đêm. Vài hôm sau có tin anh ta bị bắt lại rồi đưa đi đâu không rõ. Địa bàn rừng núi ở đây xa lạ; thổ ngữ không quen, người trốn dễ bị phát hiện khi gặp dân thiểu số ở quanh vùng.
Chỉ trong mấy tháng con đường mòn liên tỉnh Tuyên Quang-Yên Bái đã được tù nhân mở rộng cho xe hơi chạy. Biết bao mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của tù nhân đã đổ ra trên con đường đất đá gập ghềnh này.
Trước Tết, viên quản giáo bảo tù lên núi lấy măng tre. Măng ở đây ngon có tiếng, nhưng tù không được ăn. Mùa xuân đến với cái lạnh tê tái khắp núi rừng. Trại phát cho mỗi người chiếc áo nỉ cộc tay vẫn không đủ ấm. Ngày đầu năm tù chỉ được ba miếng thịt trâu bằng ngón tay và chén cơm, ngày 2 bữa như thế. Ngày thường tù nhân ăn bắp hột cứng như đá, nhiều hàm răng cứ rụng dần, bao tử bị thủng, lở loét nhưng trại không có thuốc chữa. Trung tá Mùi thuộc Không quân mà Bình quen biết từ khi còn ở câu lạc bộ sĩ quan An Đông, bị loét bao tử sau khi ăn phải trái độc trên rừng rồi được đưa về bệnh xá Tuyên Quang chữa, không biết kết quả ra sao.
Người dân Tầy ở các bản, làng quanh trại có thái độ cởi mở với tù nhân. Sống cuộc đời âm thầm trong chốn rừng núi, họ thấy tù nhân tử tế với họ nên họ coi như ân nhân. Có người đổi quần áo tốt của mình lấy thực phẩm của dân Tầy tại nơi lao động không có quản giáo đi theo. Bữa trước hẹn thì bữa sau có người đem chiếc áo jacket đang mặc đổi lấy gói cơm nếp thịt gà của người Tầy đi đốn củi.
Cái ăn, cái mặc đều có giá trị cho sự sống của con người trong hoàn cảnh quẫn bách. Cũng chỉ vì đói mà ông bạn phụ tá cho Bình ở Cục Tâm lý chiến là Thiếu tá Kiệt đã bỏ mạng ở trại 5. Bệnh kiết lỵ đã cướp đi sinh mạng của ông sau những lần cải thiện cái ăn ở rừng trong lúc ông đi chăn trâu. Sơn lam chướng khí, bệnh hoạn, đói khổ là tử thần của tù nhân.
Ở trại 3 được hơn một năm, chàng phải chuyển qua trại 7, mỗi trại cách nhau chừng một cây số. Có sáng đi phát quang, chàng gặp nhà thơ Hà Thượng Nhân từ trại 5 cũng đi lấy rơm. Trên vai ông gánh đôi quang nhẹ nhàng, nét mặt thản nhiên như không bận tâm đến chuyện tù đầy. Ông lạc quan nói với chàng: “Mình sắp được về”.
Chuyện cứ tưởng mơ hồ mà rồi cũng tới lúc biến thành sự thực vì ở bên ngoài, chính phủ Mỹ vẫn đòi hỏi Cộng sản phải thả các tù nhân chính trị.
Mùa thu, cảnh rừng Việt Bắc chuyển sang gam mầu vàng. Cái buồn hiu quạnh của thu làm Bình nhớ đến bài Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư, trong đó có hình ảnh người cô phụ mong chồng:
“Em không nghe rạo rực,
Hình ảnh kẻ chinh phu,
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,..
Lại thêm nỗi nhớ nhà da diết. Bây giờ Saigon đã xa ngót 2 ngàn cây số, thời gian đã là mấy năm mà ngoảnh lại chỉ thấy mây bay, gió thoảng!
Cuối thu, đội của chàng bỗng được chuyển đến một khu ruộng bỏ trống để làm gạch. Mới đầu chưa quen nên chàng đóng viên gạch hơi chậm, sau quen tay chàng đóng nhanh hơn. Cả ngàn viên gạch được phơi nắng ít hôm trước khi xếp vào lò. Củi đã có anh em vào rừng chặt đem về đốt. Khi lò gạch vừa nung xong, đội lại được lệnh di chuyển mà không biết chuyện gì đã xẩy ra. Sau chèo mới hé tin các trại tù từ vùng biên giới phía bắc xuống trung du cũng được lệnh di chuyển [1].
Bình lại phải đeo đồ lề cá nhân cuốc bộ cả ngày trời từ Yên Bái về Tuyên Quang để chờ xe. Dọc đường từ Tuyên Quang xuống Phú Thọ, những cánh rừng thông nối tiếp nhau bạt ngàn như cảnh Lâm Đồng, Đà Lạt hiện ra trước mắt chàng. Xe vượt cầu Long Biên, chạy qua vài phố ven Hà Nội rồi xuống Ba Sao, Phủ Lý. Bình bỡ ngỡ, tưởng đâu anh em được chuyển vào Nam nhưng không phải. Ngoài Phủ Lý, nhiều trại đã chuyển về Thanh Hóa, Nghệ An thì dừng lại.
Trại Ba Sao ẩn mình trong rặng núi đá vôi hiểm trở, có 3 khu: A, B, C giam các tù chính trị. Đám hình sự ở riêng một khu nhà lá. Bình ở khu A, nơi có nhiều khuôn mặt chính quyền cũ, như cựu Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc, một số tổng bộ trưởng trong đó có luật sư Lê Ngọc Chấn, cựu Bộ trưởng Phụ tá Quốc phòng cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm, vài vị thẩm phán, dân biểu, thượng nghị sĩ và lãnh tụ đảng phái. Ngoài ra Tướng Huỳnh Văn Cao, Tướng Nguyễn Chấn Á cũng có mặt.[2] Các ông này được chở ra đây bằng máy bay quân sự, không bị luân chuyển đi các trại từ Nam ra Bắc như đám đông sĩ quan và nhân viên chính quyền cũ.
Quản giáo là các hạ sĩ quan công an mặc quần áo kaki vàng khè, mặt mũi non choẹt. Anh em đặt cho công an cái tên Chèo. Có sáng chèo gái thả bộ xuống con đê dưới đồng để quan sát, vừa để ngắm anh em đang xúc đất nối dài con đê. Bị anh em chọc quê, chị ta buông giọng cong cớn:
- Lày, các anh học tập cho tốt đi nhá. Học đã tốt chưa hả?
Nói xong chị ta đi lên trại, mặt có vẻ ngượng ngùng. Đám chèo nói ngọng đa số xuất thân từ các vùng nông thôn, vùng đất phía nam sông Hồng và từ Thanh Hóa, Nghệ An trở ra.
Khi Bình mới đến có tin cụ Vũ Hồng Khanh, cựu lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng, cựu Phó Chủ tịch kháng chiến ủy viên hội trong chính phủ Liên Việt của Việt Minh năm 1946, bị bệnh nặng sắp được về. ít lâu sau có tin cụ Khanh bị quản chế ở Chèm, Hà Nội. Sau đó có tin bác sĩ Hoàng Cơ Bình được thả về.
Chỗ nằm của Bình rộng khoảng tám tấc, trên nền xi măng có trải tấm chiếu nát mà chàng mang theo mỗi khi chuyển trại. Chỗ nằm hẹp, chàng phải giữ mình để khỏi đụng hai người nằm bên, song chàng vốn nhỏ con nên không làm phiền các bạn đồng sàng. Anh bạn nằm bên trái chàng người Long Xuyên, có thói quen ngồi trong mùng niệm Phật vào mỗi tối. Anh cũng như nhiều người khác, không nhận được tin tức của vợ con từ ngày đi tù. Các thầy, cha tuyên úy quân đội có mặt trong các đội cũng lao động hết mình như anh em. Đức tin của các vị này có phần mạnh thêm, nó giúp các vị đứng vững trong dòng nước xoáy.
Đôi lúc chàng cũng nhớ đến vợ con ở Saigon. Nhớ bằng cách hình dung những khó khăn của vợ con, những khổ nhục trong cuộc sống hàng ngày mà Ngọc không hé lộ trong thơ. Nàng chỉ cho biết sơ qua các con; có đứa đi làm, có đứa còn theo học. Cuối thơ nàng khuyên chàng giữ gìn sức khỏe và an tâm học tập.
Buổi sáng, mọi người choàng dậy sau tiếng kẻng báo thức lúc sáu giờ sáng. Tám giờ, đội của chàng di chuyển đến hiện trường làm đá, đưa đá về xây nhà cho trại giam và cho đội công an trú ngụ. Sườn núi đá vôi phía sau trại đã sạt một mảng lớn qua những nhát búa đập của tù nhân ngày này qua ngày khác. Trừ bộ phận đập đá, tù nhân vác đá phải mang những viên đá nặng trĩu trên vai đi bộ cả trăm thước đến nới xây nhà. Tấm thân gầy của chàng toát mồ hôi, chàng thở không ra hơi, chân như muốn sụm sau vài lần vác đá.
Chàng cũng không thể lựa viên đá nào nhỏ hơn cho bớt nặng vai vì con mắt của công an coi đội luôn theo dõi cách làm việc và năng xuất của từng người để phê bình. Chiếc áo tù vải thô, mỏng, màu xanh da trời mà trại phát cho chàng đã bạc thếch, hai vai sờn vì vác đá. Chàng cảm thấy xương vai minh ẹo xuống, như có thế gẫy làm đôi nếu chàng không dùng cả hai bàn tay nâng hòn đá sắc cạnh lên vai, rồi giữ cho nó thăng bằng đến lúc trút được nó xuống đống đá tập trung. Cái khó là hòn đá đã ở trên vai chàng thi dù có nặng mấy cũng không thể quẳng nó đi được.
Mặt trời càng gay gắt, mồ hôi càng nhễ nhại trên trán chàng. Mùi đá, mùi bụi quyện với hơi nóng trở nên nồng nặc hơn. Cảnh tù nhân vác đá làm chàng nghĩ ra hai câu thơ:
Đội đá nào đâu vá được trời,
Thân mình chẳng vá, vá cho ai?
Trong lúc chàng được nghỉ giải lao trên dốc đá, anh tù hình sự chân dê tạt vào chỗ chàng ngồi. Anh ta làm ra vẻ thân thiện, tỉnh bơ nói:
- Các anh dở. Ngoài này chờ các anh ra giải phóng cơ đấy!
Mới đầu chàng tưởng anh ta nói khích bác mình, nhưng y nói thật. Chàng đã nghe một anh tù khác nói như thế.
- Thì tụi tôi ra giải phóng các anh bằng sự thật. Các anh bị bịt mắt, bịt tai đã lâu rồi!
Nghe xong, anh ta gật đầu bảo:
- Dân ngoài này vẫn nể các anh.
- Cậu nói thì tôi tin. Nhưng còn cậu, sao lại phải vào đây?
-Em vào tù lần thứ hai rồi. Đói quá thì đi làm bậy.
Anh ta được hưởng chế độ tự quản để chờ ngày ra tù. Đàn dê, ngan, ngỗng và heo do đám tù hình sự chăn nuôi để cung phụng cho viên trại trưởng, một trung tá công an sắp về hưu đãi cấp trên xuống tham quan trại.
Thỉnh thoảng vào ngày chủ nhật, trại cho đám chèo giết heo nấu phở bán cho tù nhân có tiền. Một lon gô phở 10 đồng chỉ thấy lõng bõng nước, vài miếng thịt heo mỏng dính nổi lên, còn bánh phở chỉ là những sợi củ dong chìm tận đáy lon. Tuy vậy món phở vẫn đắt như tôm tươi!
Bình nhìn khuôn mặt non choẹt của anh hình sự. Anh ta chừng hai mươi. Tù hình sự không được phát quần áo đồng phục xanh như chàng, mà có gì mặc nấy. Anh ta ngắm chiếc bi đông nhà binh của chàng, nài nỉ xin: -Anh cho em cái bi đông này làm kỷ niệm.
Chàng lưõng lự nhưng chẳng nỡ làm cho anh ta thất vọng. Cầm chiếc bi đông [3] trong tay, anh ta cảm ơn chàng rối rít rồi vội vàng đi, sợ chèo đến lấy. Những sản phấm của đế quốc theo cách nói của Cộng sản, như chiếc bi đông made in U.S.A, vẫn được anh ta hâm mộ đáo để.
Hết giờ giải lao, chàng trở lại công việc vác đá. Đến trưa chàng được về trại ăn cơm và nghỉ một tiếng, rồi lại đi lao động đến chiều. Bữa trưa chàng chỉ được một nửa lon nhôm bobo dai nhách và chút nước muối nấu với mỡ heo làm canh. Dù đã nghiền bobo trong lon với một khúc cây chặt trong rừng, chàng cũng chỉ nhai được vài miếng để cầm hơi, phần còn lại phải bỏ đi. Chàng có chứng đau bao tử nên sợ ăn bobo, vì vỏ của nó dai như cao su, không tiêu hóa được, chỉ làm khổ thêm bao tử. Mỗi khi khai bệnh, chàng chỉ được bệnh xá phát thuốc muối uống đỡ.
Người tù ốm yếu không sống nổi đã đành; người to lớn có khi cũng tắt thở vì đói. Chính mắt chàng đã thấy một anh khỏe mạnh ở phòng kế bên chỉ còn là cái xác ngay trên chỗ nằm vào buổi trưa vì đói và mất hết sức đề kháng trong cơ thể. Phần bobo của anh còn nguyên vẹn trước mặt.
Trong đội Bình có anh Toan, một bộ đội hồi chánh ở miền Nam được chuyển ra Bắc giam chung với tù chính trị. Cộng sản liệt anh này vào loại tù chính trị để giam lâu mà không xét xử. Anh người Thái bình, gốc nông dân, lao động rất khỏe. Sang tháng Mười, cánh đồng trũng phía trước trại đỏ ngầu nước lũ. Công tác lao động dưới đồng, đào đất làm thủy lợi phải bỏ dở. Tù nhân được chuyển đi làm đá để xây nhà. Đến năm giờ chiều, chèo cho lệnh tập hộp đội về trại thì thấy thiếu anh Toan. Các đội khác cũng chuẩn bị về trại. Đợi một lúc không thấy anh Toan đâu, chèo bắn một phát súng AK chỉ thiên để báo động. Sau đó công an và chó săn tủa đi lùng sục kẻ trốn trại. Chúng để ý những lùm cây rậm rạp trên mặt nước, cả bìa rừng phía sau trại. Trời chưa tối nên chúng đoán anh ta chưa thể đi xa khỏi khu vực trại. Chừng một giờ sau chèo tung tin anh Toan bị bắt lại khi anh này núp trong lùm cây dưới nước. Từ đó không ai nghe tăm hơi anh Toan và cũng không rõ số phận của anh ta ra sao.
Trước đó ít lâu, một đại úy biệt kích trốn đi thoát ngay trong giờ lao động buổi sáng, lúc anh đi lấy nước để nấu cho đội uống rồi lẩn vào rừng mất dạng. Chèo ỷ y không cảnh giác, nên đã không kịp báo động. Có tin anh đã móc nối được dân địa phương giúp đỡ trong lúc đi trốn nên công an không tìm ra tung tích. Còn một vụ trốn trại khác đã xẩy ra nhưng không thành công: Một tù nhân chính trị trốn trại lúc chiều rồi ẩn núp trong núi. Đợi lúc có trăng, anh mò ra suối lấy nước uống thì bị chèo phục kích vây bắt rồi đưa đi biệt giam.
Người ra đi trước Tết là Thiếu tá Dực thuộc Đại học Chiến tranh Chính trị. Anh ở cùng nhà giam với Bình. Buổi sáng đội trưởng đánh thức anh dậy đi lao động, thấy anh nằm bất tỉnh vì đau yếu lâu ngày và kiệt sức. Một trung tá công binh đang xẻ gỗ buổi sáng bỗng gục xuống vì lao lực. Đó là những cái chết tức tưởi mà chàng được thấy tận mắt. Thân xác họ gửi lại nơi bìa rừng hoang vắng, không biết đến khi nào mới được gia đình nhận lãnh.
Cuộc sống của tù nhân dần dà dễ thở vì được nhận quà tiếp tế và thư từ của gia đình. Đám chèo lại cổ cơ hội quan hệ với tù nhân để bán thực phẩm lấy tiền bỏ túi, thỉnh thoảng chèo còn được tù cho hút thuốc lá ngoại, uống cà phê moka, dạy Anh văn và coi tử vi tướng số để biết đường công danh. Ai bảo họ không thích cái ngon, cái đẹp, cái thăng hoa của cuộc sống đã bị những chính sách kìm kẹp của đảng dìm xuống?
Gặp họa sĩ Tạ Tỵ một thời cùng làm việc ở Cục Tâm lý chiến, Bình thấy anh có vẻ trầm ngâm ít nói. Tính anh vẫn thế. Gần Tết anh được người nhà tiếp tế, thế là anh đem đến nhà giam của chàng đưa cho 2 củ khoai tây. Anh vẫn có tình với anh em văn nghệ, ngay cả trong lúc hoạn nạn. Nói về quà, có người nhận được đống quà tiếp tế từ ngoại quốc gửi về mà không dám ăn nhiều, cứ giữ lâu nên bị chuột ăn và hư thối. Cái tâm lý sợ hết, sợ không được tiếp tế đã làm cho con người lo lắng thêm, không chủ động được mình.
Vào dịp Tết, giếng nước chung của trại lại bị cạn. Trại bỏ mặc, không lo nước cho tù tắm rửa. Ngày Tết, anh em được phát chiếc bánh chưng độn nếp với tẻ xinh bằng bàn tay, ăn miếng đầu tiên thấy khô như đá. Đó là chiếc bánh chưng độc nhất chàng được phát sau mấy năm ở các trại giam miền Bắc. Còn thịt trâu chỉ được vài miếng nhỏ xíu như các Tết trước.
Ba ngày tết tù được thả lỏng. Anh em đến các nhà giam thăm nhau, uống trà, hút thuốc, hàn huyên tâm sự cho bõ những lúc bị cấm đi quan hệ linh tinh, theo ngôn ngữ của chèo. Cũng là cơ hội để các chiến hữu được gần gũi nhau, cùng nhau chia sẻ những vui buồn trong đời quân ngũ và chốn lao tù. Ngày mồng một Tết, luật sư Lê Ngọc Chấn, bà con bên vợ qua thăm Bình. Những ngày đông giá buốt ông bị bệnh thấp khớp, phải nhờ người cõng xuống bệnh xá xin thuốc uống. Nhờ gia đình ra tiếp tế, ông hồi phục dần sức khỏe. Ít lâu sau ông được trại thả về.
Ở trại Ba Sao, anh em thường ngày gặp đám tù hình sự đi lao động. Đây là cả một xã hội đen thu hẹp gồm giám đốc, cán bộ, đảng viên, thanh niên vào tù vì các tội phạm tham ô, lừa đảo, trộm cướp và giết người. Đó cũng là cảnh một địa ngục trong một địa ngục không hơn không kém.
Mỗi lần có phái đoàn ngoại quốc tới thăm trại A, tù nhân được lùa vào rừng lấy củi, hoặc vào trại B nhặt cỏ quanh các luống khoai mì để phái đoàn khỏi trông thấy những người tù gầy yếu, bệnh hoạn. Vài anh khỏe mạnh được giữ ở lại trại chơi bóng chuyền để trình diễn cho phái đoàn coi. Những chiếc chiếu cá nhân được dẹp bớt cho chổ nằm của tù được rộng thêm. Nhà bếp được lệnh thổi cơm hay luộc bột mì cho phái đoàn thấy tù nhân được ăn tươm tất. Một vài tù nhân được sử dụng làm cò mồi, túc trực sẵn ở các phòng giam để trả lời phái đoàn khi được hỏi tới. Sau khi phái đoàn đi khỏi, mọi sự trở lại nếp cũ, không có gì thay đổi. Màn trình diễn này là sở trường của Cộng sản cốt bịt mắt thế giới.
Tuy phải sống trong cảnh ngục tù kéo dài, anh em đã san sẻ cho nhau tình thương, cả đến miếng ăn và viên thuốc chữa bệnh. Tinh thần đồng đội vẫn được duy trì ngay cả với những người chưa từng quen nhau trong quân ngũ. Đôi khi phát hiện người làm ăng ten báo cáo cho chèo, anh em đã đập thẳng tay, dù chèo có biết cũng làm ngơ.
Cũng nhờ có tình đoàn kết tương thân giữa các tù nhân mà chiếc radio nhỏ bằng bàn tay của anh em đã được bảo vệ an tòan. Chèo túng tiền tiêu bán chiếc radio này cho một tù nhân; sau đó anh em chuyển cho nhau nghe tin tức thế giới qua đài BBC và VOA.Tin đáng chú ý nhất là chính phủ Hoa Kỳ nêu con số 80 ngàn tù nhân chính trị Việt Nam Cộng Hoà để yêu cầu nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam phóng thích. Nhiều người đã tưởng thế giới tụ do bỏ quên mình trong cảnh ngộ hẩm hiu, nên chỉ còn mỗi con đường là tự cứu lấy mình. Nhưng Hoa Kỳ đang bắc cho anh em chiếc cầu hy vọng để thấy mình không đến nỗi bị lãng quên. Vấn đề chỉ còn là thời gian.
Từ đó chiếc radio đã trở thành vật thiết thân của anh em và kế hoạch bảo vệ nó đã được thi hành tuyệt hảo đến không ngờ. Thoạt tiên trại trưởng cho lệnh các phòng biên chế; các đội được xé lẻ nhập thành các dội mối và chuyến phòng. Trong khi các đội được tập trung ra sân trại để biên chế thì công an vào các phòng lục lọi từng túi đồ của anh em để tìm chiếc radio, cả tiền bạc và những thứ khác mà trại cấm sử dụng lén như tài liệu, hung khí. Chèo đã mất cả buổi tìm kiếm mà không thấy chiếc radio ở đâu cả. Dù có ăng ten mật báo, anh em vẫn giấu được chiếc radio mà không bị lộ. Vài ngày sau, chiếc radio lại cung cấp tin tức cho anh em trong trại làm chèo lên ruột, nhưng đành làm ngơ.
Tin chiếc radio lọt tới cấp trên. Bộ Nội vụ cử toán cán bộ điều tra bất thần xuống trại khám xét các đội bị nghi ngờ giữ chiếc radio nhưng cũng thất bại. Đúng là kẻ cắp gặp bà già; anh em có cách giấu chiếc radio mà chèo dùng cả bao nhiêu con mắt lẫn máy dò vẫn không phát hiện ra được. Sau đó Bình không biết chiếc radio đi về đâu và tin tức bên ngoài cũng thưa thớt dần. Chuyện chiếc radio từ đó đã thành huyền thoại.
Anh em tù ở trại B còn tổ chức kỷ niệm ngày Quân lực 19 tháng 6 ngay trong phòng giam làm chèo coi đội hoảng hốt, phải vào khuyên anh em tránh gây ồn ào khiến cả trại chú ý. Phạt cả đội thì chuyện nhỏ hoá ra to, nên chèo đành xuống nước năn nỉ anh em cho xong việc. Tinh thần yêu quân đội của anh em vẫn còn tiềm tàng trong tim óc, mặc dù anh em đã phải trải qua những đợt học tập tẩy não từ ngày mới bước chân vào trại giam Long Giao, Suối Máu, cho đến khi ra miền Bắc vẫn còn phải học tập, kiểm thảo.
Thời gian sau, trại cho phép các thân nhân được thăm viếng anh em tù nhân vào ngày chủ nhật. Các bà đã phải vất vả đi xe lửa từ Nam ra Bắc ba bốn ngày đêm, rồi thuê xe ba gác chở các gói quà từ ga Phủ Lý vào tận trại Ba Sao để trao cho chồng.
Những giây phút gặp mặt thật cảm động, mà có lẽ thơ văn khó diễn tả nổi tâm trạng của người ở chốn lao tù và người ở lại trong cô đơn. Người chinh phụ thời nay còn lận đận hơn cả người chinh phụ thời xưa mà nho sĩ Đặng Trần Côn đã diễn tả trong Chinh Phụ Ngâm do ông viết vào năm 1741:
“Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”
Gặp nhau tay bắt mặt mừng, lệ như muốn chảy. Bao năm xa cách nhau, chàng ở chốn lưu đầy, thiếp ở tận chân mây, mà 15 phút hội ngộ chỉ khiến con tim đau khổ thêm, nhưng có vẫn còn hơn không.Trại còn ưu đãi cho vài tù nhân đặc biệt cốt gây ảnh hưởng tuyên truyền khi họ sắp được thả, bằng cách cho vợ ra thăm được ngủ lại với chồng một đêm. Trong nha tiếp tân ngoài trại có kê sẵn chiếc giường tre cho hai người nằm bên nhau hàn huyên tâm sự. Có cả chiếu cho họ đắp đở lạnh. Đêm ấy có lẽ là đêm nhớ nhất trong đời tù!
Bình không nghĩ đến vợ con ra thăm mình vì chàng biết vợ con đang ở trong cảnh quẫn bách, có kiếm chác được đồng nào thì ăn cho qua ngày, đâu có nổi tiền đi tàu xe ra thăm mình. Thế nhưng một buổi trưa chủ nhật, chèo vào trong phòng kêu chàng ra gặp thân nhân. Chàng ngạc nhiên không biết ai tới thăm mình,vợ chàng hay bố mẹ chàng ở Hà Nội.
Khi đến nhà tiếp tân, chàng nhận ra hai cụ thân sinh và người em trai ngồi chờ sẵn. Người em trai út được sinh ra lúc chàng ở trong Nam nên bỡ ngỡ nhìn chàng. Vừa mừng, chàng vừa cảm động thấy bố mẹ đã già. Ông cụ là công chức cũ, một tiểu tư sản thành thị trước khi Việt Minh về tiếp quản Hà Nội. Cái thời phong lưu của giai cấp ông nay chỉ còn là cái bóng mờ. Trên mình ông bây giờ không còn bộ vét trắng cho mùa hè, bộ vét nâu cho mùa đông, đầu đội mũ phớt, chân đi giầy bóng, mà thay vào đó là bộ quần áo bốn túi tứ thời mầu rêu nhạt, nhàu nát, chân đi đôi dép nhựa. Sau một thời gian làm việc cho ngành xây dựng, ông về hưu; tiền hưu trí hàng tháng chỉ đủ mua thuốc lá hút. Có lần nhận được lá thư của ông gửi qua Pháp, ông cho biết bị sạn thận, chàng đã phải gửi thuốc cho ông theo đường dây này. Bà cụ nay mặc áo nâu sồng giản dị, thay cho áo phin nõn ngày trước. Cụ rơm rớm nước mắt nhìn đứa con lưu lạc vào Nam, nay lại xuất hiện ở nhà tù này.
Khi ông cụ vào Saigon thăm Bình thì chàng đang ở trại Suối Máu. Mãi sau này Ngọc mới cho ông biết chàng đang ở trại tù Ba Sao. Hai cụ và cậu con út đi xe lửa từ Hà Nội xuống Phủ Lý, mang theo một túi quà nhỏ cho chàng. Lúc đầu trại chỉ cho tù nhận 5 ký quà, sau này trại mới cho nhận nhiều hơn, nhưng không cho nhận tiền mặt.
Cả bốn người ngồi trên chiếc ghế dài, gần chỗ viên chèo ngồi quan sát. Ông cụ ân cần bảo chàng:
- Anh đừng lo gì cả, gia đình anh ở trong ấy bình an vô sự, các cháu đều ngoan ngoãn, còn gia đình ở ngoài này vẫn như thường. Anh cứ yên tâm học tập cho tốt.
Câu nói của ông cụ không chỉ cốt an ủi chàng mà để viên chèo khỏi dòm ngó trong lúc cha con nói chuyện với nhau.
Sau 15 phút gặp gở là cảnh chia tay. Bình xách túi quà đi theo viên chèo vào trại, còn bố mẹ và em chàng đi xuống con đường dốc đá hiu quạnh về Phủ Lý.
Vừa tới nhà trực ngoài cổng trại, viên chèo bảo chàng đem gói quà vào bên trong cho một chèo trực ban khám xét. Gói quà chỉ có một bó rau muống, một gói cá khô, một gói đường thẻ, một gói đậu xanh và lọ nylon đựng mỡ heo, thêm 3 kí gạo. Viên chèo mở từng gói ra xem không thấy gì, lúc y vạch bó rau muống thấy tờ giấy bạc năm chục mầu xanh gấp làm tư.
- Thế lày nà phạm lội quy của trại. Nần sau không cho thăm viếng và nhận quà đấy nhé.
Vừa nói, viên chèo vừa nhét tờ giấy bạc vào túi, rồi bảo chàng ký vào tờ biên bản. Sau đó y cho chàng đem gói quà vào trong trại. Bình nghĩ năm chục đồng tuy nhỏ nhưng có thể mua được nửa cân thịt do chèo đem vào trại bán cho tù theo chế độ ba lợi ích. Không chỉ riêng chàng mà những anh em khác cũng đã bị chèo tịch thu tiền bạc trong những gói quà, họa hoằn mới có người trót lọt.
Chiều hôm đó, chàng có dịp đãi hai người bạn nằm kế bên một bữa ăn tuơi có cơm, rau muống xào và cá kho do chính tay chàng nấu phía sau nhà giam, với vài thanh củi rừng lượm lặt. Thật hãn hữu mới được ăn một bữa no nê như thế.
Thỉnh thoảng vẫn có vụ chèo tịch thu quần áo tốt của anh em đem bán cho dân trong lúc đi lao động. Trong đội Bình có anh đem bán chiếc áo jacket còn tốt cho một tài xế lái xe ủi đất của xưởng đúc gạch dưới đồng.Trời mùa đông rét cắt ruột nhưng anh vẫn cởi áo ra bán lấy tiền cải thiện miếng ăn. Lúc anh vừa cầm tờ giấy bạc một trăm đồng từ tay người tài xế thì viên chèo tiến lại tịch thu cả áo lẫn tiền. Y nhìn hai người, nạt nộ:
- Trại cấm mua bán đổi chác mà các anh vẫn cố tình vi phạm nội quy. Cái này là tang vật đấy nhá. Khỏi chối cãi vào đâu được.
Y hỏi tên hai người rồi lấy bút và sổ tay trong túi áo kaki mầu vàng ra viết. Người tài xế vẫn co ro trong chiếc áo bộ đội xanh rêu đã bạc mầu. Còn anh bạn cũng lạnh không kém vì mất chiếc áo ấm mà anh đã có công mang từ trong Nam ra đây.
Chỉ khi anh em nhận được quà nhiều, có tiền bạc rủng rỉnh mua thực phẩm của chèo bán, anh em tù nhân mới được đối xử dễ dãi hơn, nạn chèo tịch thu đồ của tù cũng bớt đi.
Đã bao năm Bình không còn biết cái rét cắt da của đồng ruộng miền Bắc lúc cuối năm. Bây giờ phải lội ruộng làm cỏ, nhổ mạ cho nông dân trong xã, chàng mới cảm thấy chân tay tê cóng. Người dân vùng Phủ Lý vốn nghèo sẵn, trông vào hai vụ lúa thì không đủ ăn, phải trồng thêm hoa mầu và đi lên tỉnh làm thuê gánh mướn. Cái nghèo này đã phơi bầy trước mắt anh em tù nhân mỗi lần chuyển trại qua các tỉnh miền Bắc, từ thượng du xuống đồng bằng. Dân chúng lơ là với các hợp tác xã nông nghiệp vì lối làm ăn tập thể không có hiệu quả, lại nẩy sinh ra tham nhũng, bóc lột trong lớp cán bộ quản lý kém cỏi, hống hách.
Mỗi lần mùa đông tới lại cướp đi mạng sống của vài tù nhân già yếu, bệnh hoạn ở trại Ba Sao. Anh em lại phải ngậm ngùi đưa tiễn họ ra bìa rừng, xó núi lạnh lẽo không một nén hương. Nghĩ đến họ, chàng nhớ đến đoạn thơ Chiêu Hồn của cụ Nguyễn Du [4] đã tả các linh hồn bơ vơ phiêu bạt khắp bốn phương trời:
“Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ”.
Họ là những con đại bàng đã gẫy cánh. Họ ra đi vĩnh viễn trong âm thầm để những người còn lại có cơ hội phục quốc như chàng vẫn suy nghĩ:
Chim bằng thất thế không quên gió,
Tráng sĩ sa cơ vẫn nhớ quê.
Hẹn với non sông ta phục quốc,
Ngàn hoa nở rộ lúc xuân về.
Đã lâu ai cũng tưởng Nhạc Vàng chết theo thời gian. Bất chợt một đêm trăng sáng, Bình nghe giọng hát quen thuộc của nữ ca sĩ Thanh Thúy từ phía cổng trại vọng vào chỗ chàng nằm. Nhớ hồi còn phòng trà ở đường Cao Thắng, Saigon, chàng cùng người bạn đã nghe Thanh Thúy hát với giọng trầm buồn mà nhà văn Mai Thảo gọi là “ Tiếng hát lúc không giờ. ” Thì ra chèo cũng thích nghe nhạc vàng mà mấy ông làm văn hoá đỏ cứ lên án là đồi trụy.
Thế rồi một tin giật gân đến với anh em tù nhân qua sự tiết lộ của chèo. Anh chèo trong ban quản lý đã cuỗm một ít tư trang của tù nhân gửi cho trại rồi chuồn êm xuống Hải Phòng. Không rõ hậu quả của việc này được giải quyết ra sao nhưng anh em hoang mang không rõ chiếc đồng hồ của mình có còn ở lại trại hay đã cất cánh bay theo anh chèo đào ngũ. Cũng chẳng qua sự nghèo túng đã xúi bẩy anh ta làm bậy, nhưng liệu anh ta có thoát khỏi cảnh nghèo và nhà giam đang chờ đợi anh ta không?
Ôi canh chiều tà Ba Sao sao mà buồn hiu hắt! Dẫy núi đá trùng điệp toát lên mầu trắng cô đơn, bầy chim bay về tổ xao xác, bờ lau hiu quạnh, con suối âm thầm. Tâm hồn người tù cũng lạc lõng, đơn côi như dải mây trắng còn vương trên đầu non nhạt nắng.
Trại Ba Sao đã đem lại cho chàng những băn khoăn về thân phận con người Việt Nam bị lạc vào chủ nghiã Mác xít hơn nửa thế kỷ nay. Những điêu tàn của cuộc chiến không chỉ in đậm trong lịch sử, mà còn đọng mãi trong tâm tư mỗi người, không dễ gì mai một trong một sớm một chiều.
Chàng mong rằng một ngày nào đó, trại Ba Sao sẽ trở thành một trường tiểu học với phong cảnh vui tươi cho trẻ em trong vùng Phủ Lý; như thế sẽ tốt hơn là một trại tù lưu cữu. Trại đã có một trường mẫu giáo với hàng cây phi lao cao vút do công sức của tù nhân xây dựng.
Sau này, các em học sinh trong vùng sẽ nhắc đến những dấu ấn của thế hệ tù nhân chính trị Việt Nam Cộng Hoà đã để lại trên từng kiến trúc và phong cảnh của trại. Họ là những người đã từng chiến đấu dũng cảm mà còn đem hồi sức ra xây dựng lại quê hương tại những nơi thâm sơn cùng cốc và hoang tàn, để quê hương mình vươn lên và đẹp mãi.
Chú thích
[1] Tháng 2, 1979, Trung Cộng tung 30 sư đoàn tấn công vào 6 tỉnh biên giới phía Bắc để “Dậy cho Cộng sản Việt Nam một bài học” vì đã xâm chiếm Campuchia do Polpot lãnh đạo. Cuối năm 1978, Polpot theo lệnh quan thầy Đặng Tử Bình, xua 10 sư đoàn tràn qua biên giới tây nam Việt Nam tàn sát người Việt. Để trả đũa, CSVN chiếm Campuchia trong 10 năm và dựng Hun Sen làm thủ tướng. Lý do khác khiến Đặng Tử Bình trừng phạt Bắc Việt vì phe Lê Duẩn thân Liên Xô, lạnh nhạt với Trung Cộng. Trong cuộc chiến đẫm máu kéo dài 1 tháng với Trung Cộng, CSVN đã để mất khoảng 800 km2 gồm một số cao điểm dọc biên giới, thác Bản Giốc ở Cao Bằng và phần đất phía nam Ải Nam Quan ở Lạng Sơn.CSVN đã bưng bít dư luận việc mất đất biên giới cho Trung Cộng.
[2] Tướng Nguyễn Chấn Á là cháu cụ Nguyễn Thiện Thuật, một sĩ phu đã tham gia phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỷ 19 rồi chạy qua Tàu sống lưu vong. Tướng Á phục vụ quân đội Trung Hoa lâu năm và được Thống chế Tưởng Giới Thạch cử về Việt Nam làm cố vấn cho Tổng cục Chiến tranh Chính trị Quân lực VNCH, nên ông đã phải đi tù cải tạo sau ngày 30 tháng Tư, 1975.
[3] Bidon (Pháp ngữ): Bình đựng nước nhỏ của nhà binh bằng nhôm.
[4] Thi hào Nguyễn Du (1766-1820), quê quán Nghệ Tĩnh.