← Quay lại trang sách

Chương Mười Bốn Trở lại Saigon lưu đày

Buổi chiều cuối năm rét đậm, mặc dầu có chút nắng. Sau mấy ngày chờ đợi làm xong thủ tục ra trại, Bình và đám tù nhân lên xe rời trại Ba Sao, Phủ Lý để về nhà ga Hà Nội đáp tàu về Nam.

Nhìn lại thung lũng Ba Sao, chàng cảm thấy một nỗi xót xa cho các tù nhân.

Thế là chàng đã có thêm một đoạn đời với những cái tên khó quên: Long Giao, Suối Máu, Hoàng Liên Sơn, Ba Sao, những cái tên gắn chặt với một chuỗi dài chất ngất kỷ niệm: băng ngàn xẻ núi, đội đá vá trời, ngâm mình làm trâu. Một đoạn đời mà mỗi bước đi là một suy nghĩ, mỗi đêm dài là một trăn trở về hiện hữu và thân phận. Chàng nghĩ cuộc lưu đày vẫn tiếp diễn trên quê hương, nhưng người tù vẫn chưa mất tự do. Tự do vẫn lóe sáng như ánh sao trong đêm tối. Như Sartre đã từng nói khi nọc độc thấm vào tư tưởng ta thì mỗi tư tưởng chính xác của ta là một sự chinh phục trở lại.

Trong khi chờ đợi ở ga Hàng cỏ, Bình gặp lại song thân. Nhà chỉ cách ga vài trăm thước nên chàng nhờ cậu bé đánh giầy về báo tin. Từ ngày đất nước chia đôi, chàng không được nhìn lại dáng vóc yêu kiều của Hà Nội và mầu sắc huyền ảo của những tà áo bay quanh Hồ Gươm. Hà Nội trước mắt chàng lúc này khoác mầu xám của người và vật.

Gần ba chục năm xa cách, các cụ già đi nhiều. Bao nhiêu khắc khoải mong nhớ cũng chỉ thu lại trong vài câu chuyện tản mạn về gia đình. Không ai nhắc tới chiến tranh, tù đầy. Đang khi trò chuyện với hai cụ và cậu em trai vừa ra, chàng thấy vài người bám quanh các người tù hỏi mua đồ. Một chị đàn bà đến gần chàng hỏi:

- Anh có gì bán không?

Chàng nghĩ đến cái gia tài cỏn con: chiếc đồng hồ đeo tay của chàng tuy cũ nhưng vẫn tốt, chiếc mền đỏ của Trung Quốc, chiếc áo dạ cộc tay mặc trên người, hai thứ này của trại phát cho tù đem về. -Đồng hồ một cửa sổ có ngày, mền đã cũ chưa giặt, nếu chị muốn lấy thì tôi để lại với giá hời.

Vừa nói, chàng vừa lột đồng hồ từ tay ra, rồi trao cho chị ta chiếc mền. Chị ta vui vẻ nói:

- Vâng anh để cho em. Tranh thủ lên kẻo tàu chạy.

Chàng hiểu ý nghĩ gấp gáp của chị ta. Hai món đồ này sẽ giúp chị ta có thêm chất liệu để sống. Trông chị thật nghèo. Cầm năm trăm đồng tiền glấy nhầu nát bỏ vào túi, chàng nghĩ có thể mua được vài đĩa cơm lúc đi tàu.

Tám giờ tối tàu chạy. Chàng vẫy tay những người thân còn đứng ở sân ga. Ngồi cạnh chàng lại là một chiến hữu, anh Hải, một họa sĩ làm ở Cục Tâm Lý Chiến. Anh về cùng một chuyến tàu với chàng. Chợt nhớ cái Tết Mậu Thân 1968, cả hai đã bị cắm trại một trăm phần trăm từ sáng sớm ngày mồng Một, trong khi tiếng súng đôi bên còn nổ ở nhiều nơi trong Saigon, Chợ Lớn, Gia Định và các tỉnh. Cả hai đã cộng tác với nhau để có những tài liệu, bích chương, truyền đơn nói lên được tinh thần bất khuất của quân dần miền Nam. Cuộc chiến bằng chữ nghĩa, hình ảnh, âm thanh lúc nào cũng rầm rộ không kém cuộc chiến bằng súng đạn vang rền. Người Bắc, kẻ Nam, cả hai không ngờ còn gặp lại nhau trên chuyến tàu này.

Trong toa tàu lúc ấy chật ních người. Hai người ngồi chung với bộ đội, đám con buôn, dân đi kinh tế mới ở miền Nam. Ánh đèn mờ ảo chập chờn. Tiếng nói ồn ào không ngớt. Khói thuốc bay lên lởn vởn không có lối thoát. Hàng hóa để tràn lan trên lối đi giữa toa. Bình ngất ngưởng theo con tàu lắc lư, chạy rì rì trên đường sắt. Với khoảng hai chục cây số một giờ, chắc phải ba ngày đêm hoặc hơn nữa tàu mới về tới Saigon. Bất chợt cô gái ngồi đối diện với chàng cất giọng Nghệ Tĩnh nằng nặng:

- Các anh có thuốc cảm cho em xin.

Chàng còn vài viên thuốc cảm khi nhận được quà thăm nuôi, liền đưa cho cô ta.

- Cô uống đi, ngày ba viên thôi nhé.

Thấy chàng có mang theo cái bình nhựa đựng nước, cô ta không ngại ngùng nói:

- Anh cho em tí nước.

Chàng trao bình nước cho cô ta uống viên thuốc. Sau đó cô ta mới trò chuyện với chàng. Vừa tốt nghiệp đại học, cô ta được chuyển vào Nam nhận công việc ở Saigon Thủy Cục. Trời lạnh, cô chỉ mặc chiếc áo vải bốn túi mầu xanh đã bạc. Đi cùng với cô ta có gia đình đông người ngồi ở phía sau với ngổn ngang đồ đạc. Lớp di dân kinh tế, cán bộ, bộ đội vẫn dồn dập vào miền Nam để đổi mới cuộc sống nghèo khổ kinh niên của họ tại vùng đất hứa. Hồi còn đi lao động mỗi ngày ở quanh trại Yên Bái, chàng đã gặp người dân Thái Bình, nơi đông dân nhất miền Bắc lên lập nghiệp, nhưng họ vẫn bị nghèo đói nơi đèo heo hút gió; nương rẫy vẫn không nuôi nổi những miệng ăn; không đem lại những manh áo ấm cho trẻ thơ phải cởi trần giữa mùa đông rét mướt. Năm 1954, có hai triệu người từ miền Bắc đã di cư vào Nam tìm tự do. Bây giờ, cuối thế kỷ 20, miền Nam vẫn là vựa lúa, núm vú nuôi lớp dân nghèo từ Bắc vào.

Lúc tàu đậu trước ga Thanh Hóa vào sáng sởm, vài bà già ngồi co ro bán quà bánh, tiếng trẻ rao bán nước trà inh ỏi, đám con buôn tấp nập lên tàu. Nhà ga bị bom phá sập đã được xây lại, mấy gian nhà trông tiêu điều qua lớp sương mù. Lúc tàu chuyển bánh, những vết tích chiến tranh còn ngổn ngang dọc đường. Vài đoạn đường oắt cong queo. Một khúc cầu đổ nghiêng trên sông. Hình như không có cây cầu nào là không bị bom phá sập, không tuyến đường sắt nào là không bị cầy lên.

Đoạn đường từ Thanh Hóa vào Vinh thật buồn với bầu trời lạnh xám. Anh bạn họa sĩ lấy bút chì ra vẽ trên mẩu giấy bằng bàn tay. Chàng tưởng anh vẽ phong cảnh hóa ra anh vẽ chân dung còm cõi của chàng. Cái mũ cối đội trên đầu, hai vết nhăn kéo dài trên má. Đôi mắt nheo lờ mờ. Vẽ xong, anh tặng chàng làm kỷ niệm. Con người vẽ mộc bản tài hoa lúc nào cũng có cây bút chì làm bạn, còn chàng có cây bút không biết viết gì lúc này. Đành suy nghĩ vẩn vơ.

Buổi tối, hành khách đang gật gù ngủ bỗng nghe thấy tiếng cướp. Mọi người thức dậy nhốn nháo. Công an rượt đuổi chẳng thấy cướp đâu. Tàu quá đông người, cướp lẻn đi lúc nào không ai hay. Các túi đồ còn treo ở cửa sổ đóng kín được hành khách tự động bỏ xuống chỗ mình nằm. Có người còn nằm phủ lên đồ đạc của mình cho chắc ăn. Nhưng họ vẫn còn lo nơm nớp cho đến sáng.

Tàu về đến Quảng Trị, trời nắng ấm một chút. Nhớ lại mùa Hè năm 1972, Quảng Trị, Kon Tum, Bình Long đã đi vào lịch sử. Bình nghĩ đến quá trình trưởng thành và chiến đấu của Quân lực VNCH trong 25 năm. Những chiến thắng của quân đội đã được kết tinh bởi tinh thần yêu nước và đoàn kết của quân dân miền Nam. Cho dù miền Nam sụp đổ trong ngày 30 tháng Tư 1975 bởi những lý do ngoài ý muốn, thì tinh thần đó vẫn còn khắc ghi trong lòng người quân và dân.

Tàu càng xuôi về Nam càng thêm ấm. Huế với dòng sông Hương chảy lững lờ như một dải lụa. Đèo Hải Vân vẽ nên bức tranh thủy mặc tuyệt diệu. Bãi biển Phan Thiết phơi mình dưới nắng bạc mênh mông. Sau ba ngày bốn đêm, tàu về tới ga Bình Triệu, Thủ Đức.

Bình chia tay anh bạn từ lúc này để mỗi người đi vào cuộc sống riêng, cũng là cuộc lưu đày thứ hai của mình.

Người đầu tiên chàng gặp là Ngọc, người vợ yêu dấu, nhỏ bé đang đứng đợi ở sân ga, bên cạnh đứa con trai đã đèo mẹ ra bằng chiếc xe đạp cũ kỹ. Như từ cõi chết trở về, chàng xúc động nhìn vợ con. Đôi mắt Ngọc ánh lên một niềm vui, nàng ôm chàng trong giây lát, cố dằn những xúc cảm trong lòng. Hình như bao thương nhớ, tủi hận trong những tháng năm chờ đợi dồn cả vào vòng tay của nàng, vòng tay tuy mềm yếu mà đầy nghị lực.

Rồi hai người lên xe xích lô về nhà. Đứa con trai lên xe đạp đi trước. Bộ mặt phố xá như cũ. Hàng quán mọc thêm nhiều trên các lề đường. Vỉa hè đã được xới lên để trồng những luống khoai lang xơ xác. Xe đạp vẫn đổ xô trên các ngả đường đông người qua lại. Nhìn quang cảnh rất quen thuộc ở xung quanh, chàng cảm thấy dửng dưng như không còn gắn bó với Saigon xa xưa. Chàng bỗng trở thành kẻ lạ mặt trên những đoạn phố xá mà chàng đã đi qua nhiều lần.

Khi chàng bước vào con hẻm đầu đường Nguyễn Trãi Saigon, người lối xóm nhìn chàng với vẻ ngạc nhiên. Ông già gác cổng

vô gia cư đã không còn nữa. Sau ngày Việt cộng vào Saigon, ông chẳng nhận được hạt gạo nào của phường, khóm, nhưng bà con bán hàng ăn ở đầu hẻm vẫn tiếp tục nuôi ông cho đến khi ông mất. Thật chí tình với kẻ nghèo bơ vơ.

Vừa bước chân vào thềm nhà cũ, được thở không khí mát mẻ nơi mình đã ở từ trước, chàng cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng, thư thới. Gần sáu năm qua các con chàng đã lớn và chăm ngoan. Ngọc già đi một chút nhưng nàng mập ra, nét mặt tươi lại từ lúc chàng trở về. Đó là phần thưởng tinh thần quý báu dành cho chàng.

Tối hôm đó, bà con đến thăm chàng như mừng một người đi xa về. Chàng được vợ kể chuyện nhà sau khi chàng đi học tập. Trong lúc mọi người ăn bobo thì cán bộ phường tên Sương vào nhà xem gia đình nàng ăn uống ra sao, có miếng thịt gà, thịt heo trên mâm không, nếu có thì bị phê bình kiểm thảo là thành phần tư sản, bóc lột chăng?

Chuyện thương tâm là bà hàng xóm có chồng đi học tập bước sang hỏi nàng:

- Chị có sữa cho tôi mượn một hộp. Lúc này có con nhỏ mệt quá chị ơi.

Nàng đã nhanh chân mua được vài hộp sữa cho đứa con gái mới một tuổi ngay buổi sáng ngày 30 tháng Tư, ngày Saigon thất thủ. Sau đó sữa biến dần trên các quầy hàng và được bán chợ đen. Trẻ em đói sữa thì kêu khóc, còn bà mẹ đói cơm làm sao có sữa cho con bú? Thế là nàng đưa cho bà ta một hộp sữa rồi nói:

- Em biếu chị. Em cũng đang chạy ngược chạy xuôi để kiếm sữa cho con.

Vài hôm sau bà ta lại sang hỏi mượn ít tiền đi chợ. Nàng sợ bà ta không còn gì để ăn, liền đưa cho bà mượn vài chục, mặc dầu nàng kiếm được đồng tiền lúc này rất vất vả.

Có một số cán bộ chuyên đi dụ dỗ các bà có chồng đi tù cải tạo, hứa hẹn lo cho các ông chồng sớm được về đoàn tụ với gia đình. Nhưng tiền mất, tình mất, mà chồng vẫn mịt mù ở chốn lao tù. Cái bẫy này có nhiều bà sa vào, cuộc đời lại thêm một lần đau đớn ê chề, đổ vỡ. Bà hàng xóm cũng là nạn nhân của cái bẫy này. Đôi lúc bà hổ thẹn khi gặp bà con trong hẻm.

Sau lần ông cụ thân sinh ra Bình vào thăm chàng mà không gặp, lần sau cả bà cụ và ông cụ vào thăm lần nữa. Bà cụ kể cho nàng nghe thời đi tản cư về Sơn Tây với những nỗi cơ cực. Ngôi nhà thờ tổ ở Giảng Võ bị đốt. Hoành phi, câu đối, bàn thờ cũng ra tro. Hai năm sau, các cụ hồi cư. Ông cụ dắt các con về trót lọt, nhưng bà cụ gánh đồ đi sau bị du kích bắt giam một tháng mới thả ra. Sau khi Cộng sản về tiếp quản Hà Nội, hai cụ mất hai căn nhà vì lý do có con đi vào Nam theo ngụy. Ở Hà Nội, ông cụ cứ mong mỏi Bình đưa vợ con đi ngoại quốc để tránh gặp những khó khăn mà ông đã phải trải qua với Cộng sản; còn bà cụ thì mong chàng ở lại với đại gia đình.

Bình có người em là Bông ở Mỹ Tho nên hai cụ ghé xuống thăm trước khi về Hà Nội bằng xe lửa. Chú em đã bỏ nhà xuống Hải Phòng đáp tàu Mỹ vào Nam năm 1955, trong thời hạn di cư ba trăm ngày của Hiệp định Genève. Trong trận Việt cộng đánh Phước Long ngày 6 tháng Giêng 1975, chú là sĩ quan ban 3 ở tòa tỉnh đã cùng bộ chỉ huy chống trả cộng quân mãnh liệt, trước khi rút đi vì quân số địch quá đông. Sau đó trong một cuộc phục kích của Việt cộng ở Lái Thiêu, chú em bị thương ở mắt rồi được giải ngũ về Mỹ Tho lập gia đình.

Ít lâu sau có vợ chồng cô em vào nhà Bình ở vài ngày để buôn một ít hàng ra Hà Nội bán. Ngọc kể đêm đầu nằm ngủ trên nền gạch hoa ở phòng khách, chú em rể đã lấy sợi dây cột túi đựng đồ vào chân. Nàng bảo cô em:

- Chú sợ mất đồ hay sao mà phải làm vậy. Ở trong nhà an ninh mà.

Cô em thẹn thùng bảo:

- Nhà em bị mất đồ trên xe lửa Thống Nhất, nên khi nằm ngủ là cột túi đồ vào cổ chân cho chắc ăn. Chắc nhà em sơ ý. Để em bảo.

- Thôi được. Cô để chú ấy ngủ.

Lát sau nghe vợ nói, chồng tháo dây cột đồ ra để ngủ cho thoải mái.

Khi chú em hỏi mua chiếc xe lambretta, nàng bán rẻ cho chú ấy đem lên tàu về Hà Nội. Chiếc xe còn chạy tốt, những lúc không có xe jeep, Bình vẫn đi làm bằng xe này. Sau khi vợ chồng cô em ra về, nàng cảm thấy áy náy, thương hại cho cả hai người. Nàng đã không có gì để giúp đỡ hai người phải lặn lội từ Hà Nội vào đây mua ít hàng tạp hóa đem về bán kiếm chút lời.

Nghe vợ kể những chuyện đau lòng, Bình nghĩ cái xã hội cũ đã vỡ thành những tảng băng, và số phận những con người đứng trên những tảng băng đó đều rất mong manh. Nhiều người đã trốn khỏi nước bằng con đường vượt biên, những người ở lại vẫn nhẫn nhục sống trong cảnh nghèo đói, đầy lo âu.

Nhiều người sống bằng lối buôn bán vặt, lấy vỉa hè làm chỗ dung thân. Cà phê, thuốc lá, hàng ăn la liệt trên hè phố. Những đứa trẻ nghèo, mồ côi, đi bới những đống rác nằm ụ trên đường phố, gom nhặt từng cái vỏ chai, lon nhôm, bao ny lon để bán lấy tiền độ nhật.

Cái đói đã đành, cái nhục còn đeo đẳng mãi. Ngọc đã phải cắn răng chịu đựng tất cả. Một giờ sáng nàng đã phải đi quét đường dưới con mắt xoi mói của cán bộ phường. Đi gửi quà cho chồng, nàng phải ngồi xếp hàng từ nửa đêm với các bà vợ sĩ quan trước cửa nhà bưu điện, nghe công an xỉ vả, đánh đập những bà ngồi không ngay hàng thẳng lối. Nàng nghĩ mình phải vươn lên trên tất cả những khổ ải, cả những cám dỗ vật chất có thể đẩy mình lao xuống sâu vực thẳm bất cứ lúc nào.

Mấy người em vợ Bình đã vượt biên qua Mỹ từ vài năm nay, gia đình chỉ còn lại hai ông bà già và vài người con chưa có cơ hội để đi. Cái tâm trạng chỉ muốn đi chứ không muốn ở đã làm cho cuộc sống của nhiều gia đình trở nên bấp bênh; ít người muốn tính chuyện làm ăn lâu dài.

Việc lập gia đình của con cái đến tuổi trưởng thành cũng bị trì hoãn. Cái không khí sống trong gia đình đã nguội đi nhiều; không còn ồn ào, đầm ấm như xưa. Mỗi người đi khỏi nhà là hạnh phúc bị vỡ một mảng. Buồn bã hơn khi một người thân ra đi biệt vô âm tín, để lại nỗi xót xa cho những người ở lại. Nhưng cái chết không còn đáng sợ cho những người coi việc ra đi là một lẽ sống, và làn sóng người vượt biên vẫn cứ nối dài.

Thỉnh thoảng gia đình bên Ngọc nhận được thùng quà của con cái từ Mỹ gửi về. Quần áo, vải vóc, thuốc men sau đó lại được con buôn đến tận nhà mua. Hễ có thư từ, hình ảnh của con cháu gửi về, hai cụ lại chuyển cho mọi người coi. Đó là nguồn an ủi và cũng là động cơ cho những người còn lại đang muốn đi khỏi vòng kìm kẹp.

Trong ngõ Bình ở là cảnh vàng thau lẫn lộn. Đám cán bộ nghèo đến ở các căn nhà sĩ quan bỏ đi nước ngoài, nay đã giầu có trông thấy, trong đó có gia đình cán bộ Hưng một hồi om sòm vì cảnh ghen tương.

Ít lâu sau ông đại tá ở trước cửa nhà chàng được tha về. Ông cũng buồn về thời thế và gia cảnh mà đành sống thầm lặng cho qua ngày. Hai người đàn bà ở bên trái nhà chàng vẫn độc thân; họ chưa muốn lấy chồng nhưng có tình nhân ghé thăm.

Buổi tối, chàng nghe tiếng ông giáo sư hóa học tranh luận với vợ về thánh kinh ở bên phải nhà chàng. Ông nói như giảng bài ở lớp nên âm thanh lọt sang chỗ chàng. Ông bỏ nghề dạy học từ lâu và có lúc đã làm xà phòng ở nhà để bán. Vợ ông khôn lanh nên được vào làm sở thuế. Đứa con trai đã đi bộ đội. Hôm nào bận giảng bài cho con thì ông không bàn với vợ về kinh thánh. Có thể trong kinh thánh còn nhiều điều phải bàn cho sáng nghĩa thêm.

Bình chợt nhớ những ngày trước năm 1975, căn nhà chàng ở hoàn tòan im lặng về đêm... Chàng đã dùng hết khoảng thời gian từ chín giờ tối đến nửa đêm để viết bài cho báo và đài phát thanh. Bây giờ không còn thói quen ấy, chàng đọc sách liên miên.

Sau khi chàng đi trình diện công an phường theo chế độ quản chế một năm, thỉnh thoảng công an bất chợt đến nhà chàng vào ban đêm để kiểm tra nhân khẩu. Hễ vắng mặt người nào là bị xóa tên trong hộ khẩu. Chàng vẫn còn bị quản thúc nên không thể đi đâu xa.

Ông tổ trưởng dân phố trước là giáo viên, bà tổ phó an ninh có chồng là sĩ quan đi học tập về đã vượt biên, cũng là tai mắt của công an cả đây. Thỉnh thoảng bà tổ phố an ninh đưa một anh chàng về nhà tâm sự trong đêm khuya vắng vẻ. Cuộc đời không chỉ có một con đường sáng mà còn có những nẻo tắt đầy tối tăm!

Ngoài Ngã Sáu, vài quán ăn đêm vẫn còn nhưng đã từ lâu vắng bóng các đôi trai gái thanh lịch, các vũ nữ và ca sĩ từ các phòng trà ca nhạc ghé vào ăn nhậu. Thay vào đó là dân tứ chiếng, đôi khi một vài gã thương binh bộ đội ăn không trả tiền rồi rút lựu đạn ra hăm dọa làm mọi người hoảng vía.

Vài đứa bụi đời cũng kéo về đây làm ăn, giật tiền bạc của thực khách rồi chạy trốn vào trong ngõ. Có những tiếng la lối om sòm từ ngoài ngõ và tiếng rượt đuổi của công an trong đêm tối. Trong khi đó, đám dân nghiền sì ke và buôn bán ma túy vẫn hoạt động về đêm ở phía sau Ngã Sáu, đầu đường Lê Lai.

Những đứa trẻ bỏ học cũng gia nhập đám bụi đời sống lang thang ở khu nầy, đêm khuya chúng nằm lăn lóc trên vỉa hè, hoặc leo lên mấy chiếc xe tải đậu ngoài đường nằm ngủ. Cảnh tượng này đã quá quen thuộc với người dân khu phố bởi trong đám bụi đời biết đâu lại chẳng có một vài con em họ.

Có đứa ở trong hẻm, con ông quận trưởng cũ, đã bỏ nhà đi với con bồ, thỉnh thoảng về nhà lấy đồ đạc đem đi bán. Khi nhà chẳng còn gì, nó lại sống bằng cách cướp giựt ở ngoài đường. Ở tù về, nó vẫn quen đường cũ vì không có lối thoát; trong khi đám người thất nghiệp vẫn bu bám các quán cà phê vỉa hè như đàn ruồi.

Đàn bà làm đĩ xuất hiện ở chợ Bến Thành giữa ban ngày, trên cả các đường phố vào lúc chập tối. Cái đói, cái khổ đã xô đẩy con người vào những hố sâu vực thẳm để kiếm sống cho qua ngày, nên không ai than trách họ.

Tháng Tư đến với những cơn mưa như trút nước, đem lại cho Bình một nỗi lo âu. Căn nhà chàng đang ở trước kia là của quân đội, Cộng sản vào chàng phải thuê lại của Ban nhà đất Quận 1. Nhà đã mục ở đầu hồi, mưa dột ướt sũng khắp nền nhà.

Trong khi chàng tất tả lên quận xin sửa chữa thì mái ngói sập lúc gần trưa nghe như bom nổ. Đứa con trai chàng thoát chết trong đường tơ kẽ tóc; nó vừa bước qua giữa nhà thì mái trút xuống ầm ầm. Những đứa khác không ở trong nhà nên thoát nạn. Chàng phải đi mượn tấm vải bạt của ông chú họ ở Gò Vấp để che tạm mái nhà trong những ngày mưa nắng. Hai tháng sau, mái nhà mới được sửa bằng tôn xi măng.

Thời gian này, làn sóng vượt biên vẫn tiếp tục. Nhiều người đã đi thoát, nhưng cũng có nhiều người không đi được phải vào tù; nhà cửa bị tịch thu. Một số cán bộ, công an cũng vượt biên tìm cuộc sống mới.

Bình mượn của chú em ở Mỹ Tho một cây vàng cho hai đứa con trai đi vượt biên. Lúc tiễn hai đứa ra bến xe theo ông bạn hàng xóm để đi xe đò xuống Cần Thơ, trời lại mưa gió làm chàng buồn bã vô cùng. Rồi từng ngày lặng lẽ trôi qua, chàng chờ đợi tin tức. Vài ngày sau, hai đứa lại lù lù quay về lúc chập tối. Chàng thở phào nhẹ nhõm. Chúng đã phải lội rừng đầy muỗi, lẩn trốn du kích cả đêm không thấy tàu đâu, đành phải quay về.

Đến chuyến sau, hai đứa theo ông anh vợ và người con xuống Rạch Giá. Tàu ra đến cửa sông thì máy hư, bị thuyền công an ra kéo vào bờ. Thế là cả đám bị giam gần nửa tháng mới được thả. Tiền bạc bị công an thu hết. Hai đứa con chàng lại quay đầu về học tiếp cấp phổ thông trung học ở trường Bùi Thị Xuân.

Một buổi sáng Bình chợt nghe tiếng rao bán bánh chưng ở trước cửa nhà. Một người đàn ông gầy gò, cao dong dỏng, đầu đội mũ vải, vừa dựng xe đạp ngay trước nhà, trên tay lái treo lủng lẳng giỏ bánh chưng và ống điếu thuốc lào bằng tre. Nhìn kỹ chàng nhận ra anh Nguyên ở Chí Hòa. Anh vẫn giữ ống điếu thuốc lào là vật kỷ niệm đi tù của anh ở ngoài Bắc.

- Bánh chưng đây.

Vừa rao, anh vừa nheo mắt nhìn chàng với vẻ hài hước. Giỏ bánh chưng vẫn còn đầy, chàng tiếc chẳng có đồng xu dính túi để mua một, hai chiếc giúp anh. Biết hoàn cảnh nghèo túng của nhau, anh lại đạp xe đi chỗ khác, tấm lưng gầy lại gò xuống dưới ánh nắng chói chang.

Nghĩ đến đường dài từ Chí Hòa lên chợ Bến Thành; đến chiếc xe đạp cũ kỹ của anh, chàng không hiểu anh có thể kéo dài công việc này đến bao giờ. Một thời gian sau chàng được tin anh mất ở cư xá Chí Hòa. Nhiều người đi tù về đã âm thầm từ giã cuộc sống lam lũ.

Ngọc kể trong lúc chàng đi tù, nàng đi giữ bãi xe đạp trước Sở Thú và trên đường Lê Lợi để kiếm tiền trả tiền thuê nhà và nuôi các con. Chàng không hiểu một tấm thân liễu yếu như thế lại có thể chịu đựng được công việc đầy cực nhọc, dãi dầu mưa nắng suốt tháng này qua tháng khác. Lại còn bị bà bạn ở cùng hẻm ganh tị, lấy cắp vé giữ xe rồi vu oan cho nàng. Trò đời thật bẩn thỉu. Nhưng nàng được minh oan. Cho đến khi chàng về, nàng được thu nhận vào làm chân thu thuế ở chợ cầu Ông Lãnh.

Mới đầu nàng rất ngại công việc thu thuế lẻ, ngại thức khuya dậy sớm, nhưng cái khó bó cái khôn, nàng phải dấn thân vào chỗ chợ búa, giang sơn của các tay anh chị đứng bến, nơi những người nghèo sống hàng ngày với cái mẹt đựng vài quả chanh, trái ớt, bìa đậu, mớ rau. Có gần gũi những người cùng khổ này mới thấy cuộc sống cơ cực của họ.

Từ ba giờ sáng, lúc đường phố còn vắng tanh, chàng đèo nàng bằng xe đạp đến chợ cầu Ông Lãnh để đón các chuyến xe chở hàng đầu tiên về chợ thu thuế chuyến. Ban ngày khi thu thuế lẻ, nàng đã lơ cho những người nghèo chẳng có hàng họ gì đáng giá. Đối với họ, kiếm được đồng tiền là cả một cuộc vật lộn nơi đầu đường xó chợ. Trong khi đó cảnh giầu sang phè phỡn, kẻ hầu người hạ xuất hiện trước mắt họ. Lớp tư bản đỏ càng lên cao thì lớp nghèo khổ càng tụt xuống đáy.

Sau một thời gian làm ở chợ, nàng bị bệnh máu, phải vào Trung tâm Ung bướu chữa trị. Cảm thương sự hy sinh cho chồng con của nàng, chàng viết bốn câu thơ để tặng nàng:

Phong ba chẳng dập thân bồ liễu,

Bão tố không vùi dạ sắt son,

Thương em nét đẹp chưa mòn,

Thương em mình sẽ vẹn tròn nghĩa nhân.

Kể cũng may Bình được cậu em vợ giới thiệu vào Chợ Lớn làm chân kế toán cho một tổ sản xuất phụ tùng xe đạp. Cậu rời nơi này để nhận công việc đi giao tiền của Việt kiều gởi về cho thân nhân ở Saigon và các tỉnh. Cậu lanh lợi nên thích hợp với công việc này; một công việc phải di chuyển thường xuyên nên đỡ nhàm chán như khi ngồi ở bàn giấy viết những con số chi thu trên giấy tờ, sổ sách.

Ngày đầu vào Chợ Lớn làm cho ông Sinh, chàng nhớ lại một Chợ Lớn lúc Bẩy Viễn còn tung hoành ngang dọc khét tiếng. Sòng bài Đại Thế Giới, các tiệm hút nằm sâu trong các đường hẻm, các vũ trường Arc-en-ciel, Grand Monde, Lệ Uyển, xóm Bình Khang một thời hoạt động tưng bừng đã chìm sâu trong dĩ vãng.

Chợ Lớn ngày ấy là chốn ăn chơi của các tay hào phú nướng tiền theo kiểu nhất dạ đế vương; của các tay anh chị thảo khấu, đàn em Bẩy Viễn; của các vũ nữ Tàu, Việt rực rỡ phấn son dưới ánh đèn mầu. Chợ Lớn thời Tổng Thống Diệm đã vắng bóng các sòng bài, tiệm nhảy, nhà chứa.

Sau đó Chợ Lớn trở lại nhộn nhịp làm ăn, các vũ trường mở cửa đón các chàng lính Mỹ tới. Một khúc quanh lịch sử đã qua. Lúc này Chợ Lớn tiêu điều sau đợt Cộng sản đánh sập tư bản. Các tửu lầu, khách sạn, nhà máy không còn thuộc tư nhân mà do quốc doanh quản lý. Đời sống đen tối; nhiều người Hoa đã bỏ xứ đi vượt biên. Dọc đường Đồng Khánh chỉ còn vài tiệm bán quần áo, thuốc bắc, tạp hóa và quán giải khát.

Ông Sinh là con cháu của những người Hoa đến lập nghiệp ở đất Hà Tiên. Vợ chồng ông rời Rạch Giá về Chợ Lớn làm ăn, bắt đầu từ sạp vải đến tiệm bán vàng ở chợ Thiếc. Trong đợt Cộng sản kiểm kê tài sản, vốn liếng của ông mất sạch, mấy chục lượng vàng của ông bị tịch thu. Ông còn phải lên phường làm kiểm điểm cả tuần lễ mới được cho về làm ăn.

Một thời gian sau, ông Sinh mượn vốn liếng của bạn bè, lập tổ sản xuất phụ tùng xe đạp. Ông mua cái máy tiện do Quận 11 tịch thu của tư nhân rồi bán hóa giá cho ông. Khoảng một chục thanh niên và lính cũ vào làm việc cho tổ, vừa làm vừa học. Hết làm phụ tùng xe đạp, tổ của ông lại làm phụ tùng máy dệt. Có lúc ông Sinh than với chàng:

- Mình làm tổ trưởng là làm dâu trăm họ.

Chàng tưởng ông nói giỡn nhưng ông nói thật. Trăm dâu đổ đầu tằm. Muốn có hợp đồng, muốn vay tiền ngân hàng, muốn giảm bớt thuế, mỗi cái muốn là phải đáp lễ bằng bao thư tiền. Còn nhiều cái linh tinh khác bất chợt đến cũng phải lo lót cho xong. Lâu lâu ông phải đóng góp cho phường và cho quận. Sau đó mới tính đến nguyên vật liệu, thợ thuyền và phần ông tổ trưởng. Bài toán kinh tế ấy đã trở thành một cái khuôn rập sẵn, cứ thế mà theo.

Tiền lúc ấy mất giá, lạm phát cao, mỗi lần người con trai ông Sinh đi thu tiền hàng từ ngân hàng quận về là phải mang theo chiếc bao tải đựng tiền. Có khi anh ta chở chàng đi theo bằng xe vespa. Cuối cùng người thợ cũng chỉ lãnh được đồng lương đủ ăn ngày ba bữa cơm, anh nào có tay nghề cao thì dư dả chút đỉnh.

Năm nào ông Sinh cũng đốt phong pháo đùng dài ba thước vào sáng mồng Bốn Tết để khai trương lấy ngày và thết thợ thuyền tổ viên một bữa ăn thịnh soạn. Nhưng rồi công việc cứ giảm bớt dần. Cơn lốc đã thổi vào gia đình ông; làm ông chới với một mình. Ông thì hút xách. Bà vợ mèo mỡ với trai. Cô con gái bỏ nhà đi ít lâu rồi cặp kè một anh công an đã giải nghệ. Anh con trai vượt biên tới đảo Pulau Bidong, Mã Lai, để cô vợ trẻ và đứa con trai hai tuổi ở lại trông tội nghiệp.

Ít lâu sau Bình nghỉ việc, chờ giấy tờ xuất ngoại. Chàng không hiểu tổ sản xuất của ông Sinh rồi sẽ đi về đâu, vì chỉ còn vài người thợ và hợp đồng ngày càng ít.

Giữa lúc cuộc sống ngột ngạt, nhiều người đã trở thành điên. Không chỉ người điên mới nổi cơn điên, người tỉnh cũng có lúc nổi cơn điên.

Ông láng giềng ở cách nhà Bình vài căn thỉnh thoảng uống rượu say ở đâu về lại đập phá đồ đạc trong nhà lúc đêm khuya. Chàng còn thấy một người đàn ông cầm cục gạch non vẽ hằng hà sa số gà, vịt trên đoạn đường nhựa trước cửa trường đua Phú Thọ, ngày này sang ngày khác. Thỉnh thoảng một người đàn ông, một người đàn bà chạy ra đường không mảnh vải che thân. Tỉnh hay điên, chẳng ai để ý đến họ. Bởi xã hội đã đảo điên thì người điên là chuyện thường tình.

Nhưng nhà thơ điên thì nhiều người biết tới: thi sĩ Bùi Giáng.[1] Giữa trưa nắng gắt, Ngọc đi làm về thấy anh đứng ở đầu hẻm Ngã Sáu; quần áo tả tơi; miệng nói huyên thuyên không dứt; lúc thì vài câu tiếng Pháp; lúc thì đọc thơ, cứ thế anh đi vào các ngõ hẻm. Tập thơ Mưa Nguồn anh đem đến nhà tặng Bình hơn chục năm trước đã không còn, cùng những sách truyện của chàng sau ngày mất nước. Thời gian trước năm 1975, chàng thấy anh vẫn bình thường và tươi ỉinh. Càng về sau anh càng có vẻ ngông cuồng, như thể bất cần đời.

Trong dòng thơ hiện đại, thơ Bùi Giáng đứng ở vị trí riêng biệt; giọng thơ có vẻ kiêu sa, chịu ảnh hưởng của chữ Hán, nên thơ anh đọc thấy kỳ ảo. Nhiều người vẫn thích hai câu thơ của anh trong tập Mưa Nguồn:

“Xin chào nhau, giữa con đường

Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau”.

Và người yêu thơ cảm thấy tính hài hước trong thơ anh:

“Ta về ngóng lại mưa sa,

Giọt dài ly biệt nghe ra giọng chào”.

Trong nỗi buồn của nhà thơ có cả nỗi buồn của thời đại, cùng sự phản kháng của thân phận. Trong thời đại mà tự do của con người bị Cộng sản bóp chết, ngòi bút bị bẻ cong; các nhà văn, nhà thơ có tâm trạng bi phẫn vô cùng, trong đó có Bùi Giáng.

Bên gia đình Ngọc có hai ông chú rể là Lê Ngọc Chấn và Hà Thượng Nhân đã về đoàn tụ với gia đình ở Saigon sau vài năm đi cải tạo ở miền Bắc. Một thời gian sau khi con cái vượt biên qua Pháp, ông Chấn bán nhà rồi cùng hiền thê là nữ sĩ Vân Nương về ở tạm căn gác nhỏ gọi là Lầu Mây của nữ sĩ Mộng Tuyết [2], trên đường Nguyễn Minh Chiếu, trong khi chờ đợi qua Pháp đoàn tụ với các con.

Buồn vì thế sự đảo điên, ông Chấn làm một số bài thơ nói lên tâm tư mình; tâm tư một người đã vào sinh ra tử mấy phen, lúc ông cùng nhóm nhân sĩ ra tuyên ngôn chống ông Diệm tại khách sạn Caravelle, Saigon, ngày 26 tháng 4 năm 1960, sau đó ông bị giam giữ đến năm 1963, và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông lại bị Cộng sản đưa ra Bắc giam giữ.

“Được thua cũng chuyện thời cơ cả,

Ta luận anh hùng giữa thế gian”[3]

Khi ông Lê Ngọc Chấn mất vì bệnh năm 1986, nữ sĩ Vân Nương đã bầy tỏ nỗi đau thương não nuột, lạng lùng như nhánh lìa cây, như mưa gió hòa theo lệ; cảnh và người cũng chịu một nỗi đau thương sầu thảm theo bóng người đã khuất:

“Hương lửa đang nồng chim cất cánh,

Can tràng nghe quặn nhánh lìa cây,

Ngoài kia mưa gió hòa theo lệ,

Trời đất dường như thấu cảnh đây”

Bà đã làm nhiều bài thơ thể hiện tình cảm u hoài với quê hương, nỗi buồn xa xứ miên viễn qua tập thơ Mây Viễn Phố khi bà qua Pháp sống với con cháu:

“Bốn bề băng giá miền cô tịch,

Nắng ấm nào đâu sưởi chút tình”[4].

Riêng với thi sĩ Hà Thượng Nhân, từ khi ông còn phụ trách mục “Đàn Ngang Cung” của nhật báo Tự Do ở Saigon, người ta gọi ông là “Vua Thơ ’’, bởi không ngày nào là không có thơ châm biếm của ông. Nếu thơ ông in ra phải hằng hà sa số! Ông xuất khẩu thành thơ, ngồi đánh xì phé với bạn bè vẫn làm thơ. Báo sắp lên khuôn, ông vẫn viết kịp bài thơ đưa in. Thơ ông như mạch suối tự nhiên, rộn ràng khí tiết, dào dạt trữ tình.

Trong thời gian ở trại Long Giao, ông làm bài thơ Mưa Long Giao nghe xúc cảm:

“Trời có điều chi buồn

Mà trời mưa mãi thế!

Cây cỏ có chi buồn

Mà cỏ cây đẫm lệ?

Anh thương em từng phút,

Anh nhớ em từng giây...”[5]

Lúc bị biệt giam ở trại Thanh Chương, Nghệ Tĩnh vì tội ngâm thơ cho bạn tù nghe, ông vẫn làm thơ trong đầu:

“Ai xưa mạnh nhờ ba tấc lưỡi,

Vén mây mù đạp cưỡi cuồng phong,

Làm cho đất lở trời long,

Giam ta sao nổi mấy vòng kẽm gai?”[6]

Ông phê phán đám cán bộ huênh hoang:

“Lớn phè phỡn cười đùa thắng lợi,

Nhỏ lăng xăng ca ngợi công lao”,

Và những kẻ xu nịnh Đảng, quên cả nhân quyền:

“Nhân quyền biết ở nơi đâu,

Chỉ nghe bốn phía cúi đầu hoan hô’’ [7].

Sau khi đi cải tạo về, ông vẫn ở đường Trương Minh Ký với gia đình một thời gian rồi qua Mỹ đoàn tụ với các con.

Cuộc lưu đày trên quê hương chỉ đày đọa tấm thân những người không chấp nhận ý thức hệ cộng sản, mà không làm thui chột được tư tưởng tự do và tôn trọng nhân phẩm của họ. Trái lại những tư tưởng ấy đã trổ ra muôn mầu, muôn vẻ, sáng ngời như châu ngọc giữa bể trầm luân.

Để ghi lại ký ức ngày rời khỏi trại giam Ba Sao, Phủ Lý cuối tháng Mười Hai 1980, Bình làm bài thơ Ngày Ra Trại:

Thung lũng đùn mây núi cuốn mây,

Trại tù lạnh xám mấy hàng cây,

Tôi rời Phủ Lý lòng hiu hắt.

Theo bánh xe Iăn lúc cuối ngày.

Hà Nội đây rồi mấy chục năm.

Đường xưa nẻo cũ vẫn âm thầm.

Thời gian như thể lùi muôn kiếp.

Yêu dấu ngày xưa đã nát tan!

Trong lúc tôi chờ trước cửa ga.

Ngậm ngùi tôi thấy mẹ mình ra.

Nửa đời chinh chiến con xa mẹ.

Mẹ vẫn mong con lúc đã già.

Sau lúc tầu đi tôi vấn vương.

Niềm đau gửi mẹ, kiếp thê lương,

Hai hàng phố vắng đèn hư ảo,

Nghe tiếng còi đêm thét não nùng.

Không chỉ lòng tôi bỗng nghẹn ngào.

Cho tình mẫu tử vẫn ly tao,

Quanh tôi mội lớp người lam lũ,

Dắt díu vào Nam đổi kiếp nghèo.

Mỗi lúc con tàu đỗ trước ga,

Vài ba đứa trẻ sống xa nhà,

Miệng rao tay xách theo bình nước.

Lẽo đẽo theo hoài những khách xa.

Sau bốn ngày đêm tôi ngất ngư.

Nhìn sông núi cũ thoáng ưu sầu,

Chiều nay tàu tới ga Bình Triệu,

Ngây ngất tôi chờ đôi mắt yêu.

Em vẫn là em buổi tiễn chân.

Mong ngày sum họp để hàn huyên,

Ôm anh, đôi mắt huyền rơi lệ,

Lệ nói cho anh vạn nỗi buồn.

Chú thích

[1] Nhà thơ Bùi Giáng mất tháng 10 năm 1998 tại Saigon.

[2] Nữ sĩ Mộng Tuyết mất năm 2007 tại Saigon.

[3] Trích thi tập Nhớ Một Người Đi của nữ sĩ Vân Nương.

[4] Trích thi tập Nhớ Một Người Đi của nữ sĩ Vân Nương.

[5, 6, 7] Trích thi tập Bên Trời Lận Đận của thi sĩ Hà Thượng Nhân.