Chương Mười Lăm Đôi bờ trông ngóng
Gia đình Bình đến Hoa kỳ định cư vào cuối tháng 11 năm 1990, theo chương trình nhân đạo (H.O)[1] của chính phủ Hoa kỳ dành cho những người Việt Nam tị nạn Cộng sản.
Oakland là thành phố phía bắc của tiểu bang California, thuộc miền tây Hoa Kỳ, nơi gia đình chàng cư ngụ ngay từ ngày đầu. Thành phố mang tên Cây sồi được thành lập từ năm 1852, nằm về phía đông của vịnh San Francisco đẹp nổi tiếng. Trạm xe lửa được hoàn thành năm 1869 tại Oakland đã nối liền mạng đường sắt xuyên lục địa từ đông qua tây, đem lại các làn sóng di dân tới vùng đất mới khai khẩn này. Oakland còn có cảng lớn nối đường biển thương mại qua các nước ở ven Thái Bình Dương. Du khách đến Oakland còn được ngắm cảnh hồ Merritt giữa thành phố, công viên Jack London ở bến tàu, nơi nhà văn Jack London đã cư ngụ trong thời trai trẻ để viết văn. Cuốn truyện nổi tiếng của ông: The Call of the Wild (Tiếng gọi của Hoang vu) và nhiều tác phẩm khác của ông được độc giả ái mộ. Ông đã hoàn thành 20 cuốn truyện trước khi mất vào tuổi 40.
Nước Mỹ sau khi giành được độc lập từ tay người Anh năm 1776, lại phải trải qua một cuộc nội chiến từ năm 1861 đến 1865 giữa hai miền Nam, Bắc để giải quyết vấn đề nô lệ da đen. Một số tiểu bang ở Bắc Mỹ chủ trương bãi bỏ chế độ nô lệ, trong khi ở miền Nam duy trì chế độ này để phục vụ các đồn điền của người da trắng. Sau cùng Tổng thống Abraham Lincoln tuyên bố bãi bỏ chế độ nô lệ vào năm 1863.
Năm 1850, thung lũng Sacramento ở tiểu bang California phát hiện Núi Vàng, tức Kim Sơn, hấp dẫn dân các nơi đổ về tìm vàng, cả những người dân Trung Hoa cũng tìm cách vượt biển qua đất Mỹ để tìm phú quý. Bước đầu tới xứ sở Núi Vàng, các Hoa kiều đã phải vượt qua nhiều cảnh gian truân. Năm 1851, một số người Hoa đến San Francisco mở tiệm giặt ủi, họ được thương nhân ngoại quốc ở Hồng Kông, Thượng Hải chở đi bằng tàu và phải trả tiền vận chuyển rất cao.
Nhiều người đã phải bán nhà cửa để trả tiền cho các tay chở lậu; đàn bà con gái khi lên đất Mỹ phải làm đĩ để kiếm tiền trả nợ chủ tàu. Có người tới New York đã phải trả tới giá 2.500 đôla vào thời điểm đó cho bọn buôn lậu người mới được cho ra ngoài làm ăn, nếu không có đủ tiền thì phải ký giấy nợ trả dần. [2] Ngoài nghề giặt ủi, người Hoa đi làm đường xe lửa xuyên lục địa, phu phen, và mở các tiệm ăn ở các đô thị.
Đến năm 1882 có luật ngăn cấm (Exclusion Act) người lao động Trung Hoa và Mỹ và cấm không cho Hoa kiều nhập quốc tịch Mỹ. về sau nhờ sự tranh đấu của người Hoa ở Mỹ, luật này mới được bãi bỏ vào năm 1943. Trải qua nhiều năm, cộng đồng người Mỹ gốc Hoa đã trở nên vững mạnh như ngày nay.
Cộng đồng người Mỹ gốc Nhật cũng gặp sự khó khăn trong Đệ nhị Thế chiến. Sau khi quân phiệt Nhật tấn công Pearl Harbor (Trân Châu Cảng) ngày 7 tháng Mười Hai 1941, chính phủ Mỹ đã đưa 120.000 người Mỹ gốc Nhật, trong đó có 77.000 người sinh đẻ ở Mỹ rời khỏi các tiểu bang miền Tây: California, Oregon, Washington đến các trại tập trung ở rải rác miền Tây và các tiểu bang Arkansas, vùng núi non Wyoming, vùng sa mạc tây Arizona. Họ bị nghi ngờ không trung thành với nước Mỹ chỉ vì họ có gốc Nhật. Khi chiến tranh kết thúc ngày 2 tháng 9 năm 1945, các trại này mới được bãi bỏ; những người bị giam giữ mới được trở về chỗ cũ làm ăn.
Năm 1988, Quốc hội Mỹ bỏ phiếu chấp thuận bồi thường cho 60.000 người Mỹ gốc Nhật còn sống sót, mỗi người được 20.000 đô la và lời xin lỗi chung [3].
Cộng đồng người Mỹ gốc Việt đã không gặp phải những khó khăn như các cộng đồng người Trung Hoa và Nhật, trái lại được chính phủ Mỹ giúp đỡ ngay từ khi di tản qua Mỹ năm 1975, sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng sản.
Năm 1990, thành phố Oakland chỉ có vài ngàn người Việt, sau tăng lên dần và có khu thương mại của người Việt ở đại lộ International Boulevard, phía đông Oakland. Nơi đông người Việt cư ngụ là thành phố San Jose ở bắc California và Orange County ở nam California. [4]
Khi gia đình Bình đến Oakland đã có nhiều tổ chức, hội đoàn quân, dân, cán, chính sinh hoạt xôm tụ và biểu dương tinh thần chống Cộng cao độ. Lá cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tượng của quốc gia vẫn được các chính quyền địa phương công nhận, mặc dù Hoa Kỳ đã có quan hệ ngoại giao với Cộng sản Việt Nam từ năm 1995.
Trong cộng đồng người Việt hải ngoại đã có những tấm gương phục quốc sáng ngời. Đó là nhóm Lê Quốc Túy, Mai văn Hạnh đã đưa người và vũ khí xâm nhập tỉnh Minh Hải (Cà Mâu) từ tháng 5, 1981 đến cuối năm 1987 mới chấm dứt. Qua các đợt xâm nhập, nhiều người đã bị Cộng sản giam cầm, riêng anh Trần Văn Bá, con cố Dân biểu Trần Văn Văn [5] đã bị Cộng sản tử hình ngày 8 tháng 1, 1985.
Tiếp theo, cựu Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh thuộc Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam đã mở cuộc hành quân Đông tiến. Ông đã hy sinh tại Lào cùng một số chiến hữu trên đường về quốc nội tháng 8, 1987.
Cựu phi công Lý Tống thuộc QLVNCH, một chiến sĩ quả cảm, gan dạ trong các phi vụ oanh kích Cộng quân, đặc biệt là phi vụ của nhóm cảm tử Lý Tống đánh sập cầu Dziên Bình tại ngã ba biên giới Việt- Miên- Lào làm chậm bước tiến của Cộng quân vào miền Nam. Tháng 4, 1975, trong phi vụ đánh sập cầu Ba Ngòi gần Cam Ranh để ngăn chặn Cộng quân tiến về Phan Rang, máy bay A 37 của ông đã bị địch bắn hạ, sau đó ông bị tù 6 năm tại Phú Khánh. Năm 1980, ông vượt ngục về Saigon. Năm 1981 ông vượt biên bằng đường bộ đến Singapore, từ đây ông được đi tị nạn tại Hoa Kỳ. Hoạt động nổi bật nhất của ông là đã mưu trí thực hiện hai lần thả truyền đơn trên không phận Saigon kêu gọi dân chúng nổi dậy chống nhà cầm quyền Cộng sản và một lần thả truyền đơn trên không phận Havana, thủ đô Cuba Cộng sản.
Lần đầu, ngày 4 tháng 9, 1992, ông theo chiếc Air Bus 321-200 của Hàng Không CSVN từ Bangkok về Saigon thả 50.000 truyền đơn rồi nhảy dù xuống đất. Ông bị CS giam giữ 6 năm. Sau đó ngày 1 tháng 1, 2000, ông mướn máy bay từ Florida, Hoa kỳ bay qua Cuba thả 50.000 truyền đơn xuống thủ đô Havana, kêu gọi dân chúng lật đổ nhà độc tài Fidel Castro. Xong phi vụ, ông bay về lại Florida an tòan. Cuba đòi Hoa kỳ cho dẫn độ ông về Havana xét xử song không thành công.
Ngày 17 tháng 11, 2000, ông đến Thái Lan thuê một máy bay dân sự và thuyết phục huấn luyện viên Thái Lan cùng ông bay về Saigon thả 50.000 truyền đơn. Khi bay trở lại phi trường Utapao, Thái Lan, ông bị bắt giữ, sau đó bị giam 7 năm. Mặc dầu nhà cầm quyền CSVN đã áp lực phía Thái Lan dẫn độ ông về Việt Nam xét xử, song mưu toan này bất thành. Ngày 3 tháng 4, 2007 ông Lý Tống được trả tự do và trở lại Hoa Kỳ. Ông luôn được sự hỗ trợ nhiệt tình của đồng bào hải ngoại và dư luận quốc tế trong công cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ ở Việt Nam.
Ngược lại có những thành phần quay đầu theo Cộng sản, phản bội lại chính nghĩa mà họ đã theo đuổi như cựu Tướng Đỗ Mậu, cựu Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ. (Thời Trần có Trần ích Tắc đứng đầu đám quý tộc đã đầu hàng giặc Nguyên Mông khi chúng xâm lăng Đại Việt lần thứ hai năm 1285; trái lại Tướng Trần Bình Trọng đã khẳng khái khước từ lời dụ dỗ làm vương của giặc: “Ta thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc” để rồi sau đó ông bị giặc giết.) Không có gì mạnh bằng tinh thần quyết chiến của dân tộc Đại Việt đã ba lần đánh thắng giặc Nguyên Mông xâm lăng nước ta.
Trong khi đó ở quốc nội, cả thế giới luôn hướng về những người đấu tranh chống chế độ Cộng sản, đòi hỏi tự do tôn giáo và nhân quyền, trong đó có những người dân thấp cổ bé họng bị chiếm đoạt đất đai, nhà cửa mà không được xét xử theo luật pháp.
Mỗi lần Tết đến, tình hoài hương lại đem đến cho Bình một nỗi buồn man mác:
Rượu chẳng vơi sầu nơi đất khách,
Trà còn gợi nhớ nước non xưa,
Xuân về trống trải đời lưu lạc,
Tết đến làm ta chạnh nhớ nhà.
Gia đình chàng mướn căn nhà ở trên đồi, phía đông thành phố Oakland, từ đó chàng có thể phóng tầm mắt nhìn eo biển Alameda và dãy núi xanh bên thành phố San Francisco.
Thời gian qua mau. Mấy đứa con gái lớn đã lập gia đình, mỗi đứa ở một nơi, có đứa ở tận San Diego nên mỗi lần đi thăm con, hai vợ chồng phải đi xe hơi do con lái mất cả ngày đường. Ngọc nhớ lại thời gian ở Saigon, bà con thân thích ở gần nhau nên chỉ cần một cuốc xích lô là gặp nhau. Còn ở Mỹ, chiếc xe hơi thay cho xích lô, xe máy và xe đạp.
Vào tuổi trung niên, Bình bị chứng phong thấp hành hạ sau nhiều năm bị giam cầm tại các trại tù Bắc Việt. Dầu vậy, chàng vẫn dậy thật sớm, khoác tấm áo ngự hàn dầy cộm, rồi ra bến xe buýt để đến ga xe lửa tốc hành. Con tàu vẫn nhanh nhẹn chui dưới lòng vịnh, đưa chàng đến đại học San Francisco để trau dồi những kiến thức mới.
Trong những năm ở Mỹ, đôi lúc Ngọc cảm thấy băn khoăn khi nghĩ đến người con gái còn ở lại quê nhà với chồng con. Nàng vẫn dành tình thương cho người con gái ở xa và gặp hoàn cảnh khó khăn nhất. Lâu lâu không nhận được thư con, nàng không khỏi sốt ruột. Buổi trưa hôm ấy, nàng bỗng mừng khi nhận được thư con. Nhưng sau khi đọc lá thư, nàng tỏ vẻ ưu tư rồi than thở với chồng:
- Tôi phải về thăm cháu.
Câu nói như nghẹn lại, nàng nói tiếp:
- Cháu bị suyễn.
Chàng băn khoăn nhìn nàng:
- Liệu em có đi nổi không?
Nàng bị bệnh tăng tiểu cầu từ hơn mười năm nay, sau những ngày tháng gian truân của một Sài Gòn đỏ trùm lên cuộc đời yếu đuối của nàng. Song nàng thản nhiên đáp:
- Tôi có hỏi ý kiến bác sĩ. Ông ấy bảo không có gì trở ngại để tôi đi xa một tháng.
- Phải đấy. Em về đi. Tình mẹ con, bà cháu lúc nào cũng canh cánh bên em.
Nàng cảm thấy hơn nửa cuộc đời mình gắn bó với đất Saigon như đang thôi thúc nàng trở lại nhìn khuôn mặt đổi thay của nó, nhìn con hẻm đã lưu dấu những bước thăng trầm ngược xuôi của nàng và của các con sau ngày mất nước.
Tháng Năm, 1996. Chiếc xe taxi chở nàng từ phi trường Tân Sơn Nhất về đến ngã tư gần chợ Bến Thành vào buổi trưa.Trong xe có cả vợ chồng con gái và cháu gái mười tuổi ra đón nàng. Bác tài xế không rõ con hẻm ở đầu Ngã Sáu, định chở nàng đến thẳng khách sạn gần đấy thì người con gái nói:
- Tới nhà rồi. Bác đậu lại.
Bác tài xế vừa dừng xe bên lề, vừa nói chữa:
- Xin lỗi tôi tưởng bà không có nhà riêng. Té ra bà có nhà ở ngay đây.
Nàng đỡ lời:
- Đây là nhà con gái tôi. Thành phố bây giờ mọc lên nhiều khách sạn quá. Tôi thấy hoa cả mắt.
Lúc bước vào con hẻm cũ, nàng có cảm tưởng như kẻ xa lạ đang lạc vào chốn này. Vài nhà lầu của tư bản đỏ được dựng thêm cho người ngoại quốc thuê, làm con hẻm kín bưng khuất cả ánh nắng. Những bức tường lát đá đen, đá gan gà óng ánh như phô bộ mặt của một giai cấp mới đang lên; giai cấp giầu đã cách biệt hẳn với giai cấp nghèo còn sót lại trong hẻm.
Riêng căn nhà cũ của nàng vẫn thấp tè và lọt thỏm giữa dãy nhà lầu kiêu ngạo, cho thấy rõ sự cách biệt một trời một vực.
Lúc mới tới sân bay, nàng ngỡ ngàng thấy cô cháu gái lớn bổng khác hẳn hình ảnh hồi cháu mới bốn tuổi, khi cháu theo bố mẹ ra tiễn ông bà ngoại cùng gia đình đi Mỹ. Vừa bước vào nhà, chưa kịp ngồi xuống ghế, nàng vui vẻ nói:
- Bà không ngờ cháu lớn quá. Mới ngày nào bà còn bồng cháu lên ngắt bông hoa giấy trước cửa nhà. Bây giờ đã lớn thế này, lại càng xinh nữa!
Cô cháu gái cứ quấn quýt bên bà, miệng cười tươi mỗi khi nghe bà nói về mình. Tới lúc lấy thang thuốc bắc từ chiếc túi xách tay ra, Ngọc mới hỏi đến bệnh suyễn của cháu. Cháu nói vẫn còn lên cơn suyễn, mỗi lần nghẹt thở mặt cháu lại tái xanh.
- Đây là thuốc của cháu. Nhiều người bị suyễn ở Mỹ đã dùng thuốc này và thấy khỏi. Rồi bà sẽ gửi tiếp cho cháu uống khỏi hẳn.
Cô cháu cầm gói thuốc, trong lòng thấy ấm áp trước tình thương của bà ngoại tuy đau yếu mà vẫn cất công về thăm mình.
Chợt nhớ trên đường phố, những người đi xe đạp phải đeo khẩu trang ở miệng. Nàng nghĩ đến sự ô nhiễm đang đe dọa nhiều người và ngay cả bản thân cô cháu. Ô nhiễm từ những loại xe nhả khói xăng dầu khét lẹt trên các đường phố đông đúc, từ những nhà máy đang phun khói vào buồng phổi của thành phố và không khí chứa đầy bụi. Làn khói bụi dưới ánh nắng chói chang là mối đe dọa của các mầm non, của những người lao động cực nhọc và những kẻ sống trên hè phố ròng rã ngày này sang ngày khác.
Bất chợt một ý nghĩ thoáng qua khiến nàng thấy xúc động. Nàng nhớ lúc cháu mới bốn tuổi, cái tuổi còn đầy măng sữa đã chứng kiến cảnh chia ly giữa hai bà cháu. Hôm ấy vợ chồng con gái dẫn con lên gặp phái đoàn Mỹ để xin đi cùng bố mẹ diện H.O; nhưng đã phải ở lại vì con có gia đình cần có thân nhân ở Mỹ bảo lãnh mới được đi theo. Thời gian xa cách đã là năm năm. Bây giờ ông ngoại của cháu mới bắt đầu làm công việc này. Rồi nàng nhớ lúc đưa cháu về ngang nhà cô láng giềng ở trong ngõ, cô ta lên tiếng hỏi cháu:
- Cháu đi theo bà ngoại hả?
Cháu vừa mệt, vừa tưng hửng đáp:
- Cháu có giấy tờ đâu mà đi!
Thật đúng cảnh:
Người đi, kẻ ở u sầu,
Cuối trời mong đợi, non đầu ngóng trông!
Ngọc nhớ mãi câu nói buồn bã của cô cháu ngày ấy. Nó như một vết thương đau trong kiếp sống tha hương của nàng. Bao lâu vết thương ấy chưa được hàn gắn, nó vẫn còn nhức nhối trong tâm hồn nàng, cả cháu cũng vậy.
Mấy ngày ở bên cạnh cháu, nàng bảo cô con gái sắc thuốc cho cháu uống, thấy bệnh suyễn của cháu thuyên giảm trông thấy. Ngoài thuốc ra, có thể cái tâm lý vui mừng sum họp với bà ngoại đã giúp cháu thắng được cơn suyễn. Da mặt cháu hồng hào trở lại. Càng ngắm cháu, nàng càng cảm thấy vui trong lòng. Bố mẹ cháu cũng lây cái vui ấy.
Có lúc nàng ôm cháu vào lòng. Mùi tóc tuổi thơ của cháu thơm nồng nàn. Hơi nóng từ bàn tay cháu râm ran. Tim nàng như ngừng đập. Hai bà cháu chia nhau từng nhịp đập con tim của ngày sum họp. Nàng cảm thấy hạnh phúc vô cùng; hạnh phúc tựa bông hoa hồng nhung đỏ được cháu trưng trên bàn học, trong chiếc bình pha lê hình ông, bên cạnh là tấm ảnh của ông bà ngoại mới chụp gửi về cho cháu.
Như món quà mừng bà ngoại về thăm, cô cháu mở ngăn kéo bàn học, lấy ra một xấp giấy khen học trò giỏi từ lớp Một đến lớp Năm. Xấp giấy có cái đã vàng khè vì bụi thời gian, mờ cả chữ.
- Đây là thành tích học tập của cháu. Nàng cầm xấp giấy khen lớn hơn bàn tay, âu yếm nhìn cô cháu nói:
- Cháu học giỏi là bà rất mừng. Sau này qua Mỹ cháu sẽ tha hồ học.
Cho đến lúc này, dù cháu đã mười tuổi, nàng vẫn không quên tiếng hét của cháu lúc mới lên ba, khi cháu thấy chiếc hòm liệm ông nội được đưa vào lò thiêu ở Bình Hưng Hòa, sau lúc tang lễ ở nhà thờ trong Chợ Lớn.
- Sao lại để ông nội trong đó?
Cháu bật khóc, không muốn rời khỏi khuôn viên lò thiêu theo chân mẹ cháu. Cháu đã hiểu sẽ không bao giờ được thấy lại ông nội, người đã buồn vì thế sự đảo điên trong những ngày cuối đời.
Nghĩ đến căn bệnh của mình, Ngọc thấy phải tới thăm ông bác sĩ đã chữa trị cho nàng ở Trung tâm Ung Bướu bên Gia Định. Nàng vừa ra khỏi nhà con gái thì gặp một người đàn ông thấp, mập, trán hói, đang dấn bước để gặp nàng. Gã thân mật nói:
- Nghe tin bà về thăm ai cũng mừng. Chuyện cũ đã qua rồi bà đừng quan tâm làm gì. Cuộc sống đã có nhiều thay đổi đấy bà.
Nàng nhận ra gã cán bộ an ninh của tổ dân phố ngày trước. Nàng cười.
- Tôi có thấy sự đổi mới, ngay trong ngõ này chứ không xa đâu. Nhà cao cửa rộng mọc như nấm. Nhưng còn nhân dân làm chủ thì chẳng thấy đâu!
Gã cán bộ bỗng chưng hửng. Cũng là nhờ đôi má núng nính thịt nên bộ mặt hắn bớt đi vẻ đăm đăm trong thời kỳ tổ dân phố dưới quyền kiểm soát của y còn họp hành lu bù để bà con bình bầu, kiểm điểm lẫn nhau và sau đó là màn đóng tiền bạc cho phường, cho tổ tiêu xài. Căn nhà lầu của gã bây giờ có giá bạc tỷ. Đúng là giậu đổ bìm leo.
Có lẽ vì thấy cảnh nghèo của mình không ai đoái hoài tới; nên ông bán báo sống trong cái xe thùng bằng tôn ở trong hẻm từ mấy chục năm nay thỉnh thoảng lại lẩm bẩm chửi Cộng sản. Thấy ông ta quá nghèo khổ, phải đi lượm bao nylon và lon nhôm để sống, ai cũng để ông ta được yên ổn. Là dân Thái Bình di cư từ năm 1954, ông ta vẫn sống độc thân, mãi sau này mới có cô vợ bụi đời và đứa con gái sống phiêu bạt như ông ở gầm cầu, xó chợ.
Ra khỏi đầu hẻm, nàng không còn để ý đến gã cán bộ an ninh tổ. Nàng thuê xe xích lô đến Trung tâm Ung Bướu gần Lăng Ông, nơi nàng đã vào nằm chữa bệnh cách nay mười năm.
Suốt dọc đường, nàng lại nghĩ tiếp về quãng ngày sôi động nơi con hẻm cũ. Từ nơi đó, cuộc sống của nàng đã tỏa vào chiều sâu của không gian và thời gian. Đây là quãng đời đầy trách nhiệm của cả hai vợ chồng với bầy trẻ bẩy đứa đang tiếp xúc với môi trường xã hội và học đường. Cuộc sống yên ổn chưa được bao lâu thì xẩy ra những cuộc biểu tình của dân chúng quanh chợ Bến Thành chống chế độ tham nhũng của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu. Con hẻm luôn nằm trong tim bão của lịch sử. Rồi tin Cộng sản tấn chiếm Ban Mê Thuột, Huế, Saigon. Bình minh trong con hẻm không còn đẹp như trước!
- Sao bà Thiếu tá lại phải ngồi thế này?
Hồi tưởng trong ngày đầu ngồi bán mớ quần áo cũ trên vỉa hè, nàng ngửa mặt lên thấy chị cán bộ phường nhìn nàng hỏi móc. Nàng chỉ cười nhạt.
-Thì có gì là xấu đâu chị?
Phải, nàng vẫn đẹp từ dung nhan đến tâm hồn. Chị cán bộ sượng sùng, lặng lẽ đi khỏi. Đối với nàng, những hình thức xỏ xiên biểu hiện thái độ kém văn hóa của những kẻ háo thắng. Nàng vẫn ngẩng đầu lên cao và cảm thấy vui khi mỗi buổi chiều về có tiền mua gạo cho bữa cơm đạm bạc cho con cái, và hôm sau, hôm sau nữa, cuộc sống cứ thế tiếp diễn.
Khi bác xích lô đỗ xe trước cổng bệnh viện, nàng trả tiền xong, bước vào trong sân. Cơn mưa đêm qua còn đọng lại vũng nước lớn ở giữa sân. Cảnh vật vẫn y nguyên như khi nàng vào đây lần đầu, cách nay đã mười năm. Người bệnh nằm la liệt trong các phòng. Nhìn thấy họ, nàng nghĩ đến hình ảnh những con người đã từng nằm tại đây và nhắm mắt buông xuôi khi nàng còn nằm chung phòng với họ. Có cô gái mới trò chuyện vui vẻ với nàng trong đêm mà hôm sau đã nhắm mắt lìa đời.
Nàng không ngờ mình còn sống đến giờ phút này, còn đến được đây để chứng kiến những bệnh nhân mới. Ý tưởng đó khiến nàng mủi lòng. Khi cô y tá dẫn nàng đến một căn phòng hẹp, nơi ông bác sĩ đầu tiên trị bệnh cho nàng tới ngày nàng rời khỏi nước đang nằm trên chiếc giường nhỏ, thì nàng bỗng xúc động không cầm được nước mắt.
Ông ta vốn gầy nay càng thêm gầy yếu, bệnh não đang rút dần sự sống và trí nhớ của người thầy thuốc chế độ cũ mà đồng lương vẫn không đủ sống đạm bạc. Bên cạnh ông, bà vợ và đứa con gái nhỏ đang ngồi chăm sóc cho ông. Nhưng may ông còn nhớ đến tên nàng, còn nhếch mép để gọi tên nàng làm nàng vô cùng ngạc nhiên.
- Chị Ngọc, bệnh tiểu cầu.
Nói đến đây, ông ta nhìn người bệnh cũ trong giây lát rồi im lặng. Không hiểu ông có nghe rõ những câu nói ân nghĩa của nàng không, nhưng ông khẽ mỉm cười khi nhận gói quà của nàng.
-Chúc bác sĩ sớm hồi phục.
Câu nói mà ông bác sĩ nhắn nhủ với nàng ngày nào nay được nàng lập lại bằng một giọng nghẹn ngào. Như thoáng hiểu câu nói của nàng, ông ta khẽ gật đầu. Nàng trao đổi vài mẩu chuyện với bà vợ ông bác sĩ cũng là y tá làm trong bệnh viện lâu năm, rồi nàng cáo từ ra về.
Khi tiễn nàng ra cửa, bà vợ ông bác sĩ cười nói:
-Ông còn nhớ được tên bà làm tôi cũng ngạc nhiên. Bây giờ ông chẳng còn trí nhớ và cũng ít khi nói năng. Ông buồn lắm đó.
Tâm hồn như nặng trĩu, Ngọc từ giã người đàn bà đã từng phục vụ bệnh nhân, nay lại chăm sóc chồng là người đã cống hiến cả cuộc đời cho bệnh nhân mà không cứu nổi mình. Lẽ sống là như thế; nó tồn tại với lương tâm và đạo đức của muôn đời.
Khi đi qua hội trường bệnh viện, nàng bồi hồi nhớ lúc được hội chẩn lần đầu tiên. Nàng ngồi giữa hội trường, trước các bác sĩ từ các bệnh viện được mời tới để hỏi về căn bệnh lạ của nàng. Bệnh tăng tiểu cầu gây đông máu trong cơ thể, làm người bệnh suy nhược dần. Thuốc men điều trị ở bệnh viện không có gì ngoài Vitamin C. Mãi tới khi nàng qua Mỹ mới có loại thuốc anagrelide hydrochloride uống mỗi ngày làm giảm mức tăng trưởng của tiểu cầu trong tủy, sức khỏe của nàng thấy khá hơn đôi chút.
Quay về căn nhà cũ, nàng kể lại chuyện ông bác sĩ nàng vừa tới thăm với vợ chồng con gái.
Người con gái nói thêm:
- Ông ấy nghèo lắm, bệnh nhân ai cũng mến. Có lần con đem tiền của mẹ gửi về biếu, ông ấy cầm tiền mà nghẹn ngào từng câu nói.
Thế rồi cô cháu gái đem đến cho nàng tấm giấy học trò có vẽ chân dung nàng.
- Bà xem cháu vẽ bà có giống không?
Nàng ngắm bức vẽ bằng bút chì của cháu, thấy khuôn mặt nàng có hồn ở trong đó. Nàng nghĩ lúc cháu cầm cây bút chì là lúc cháu tập trung tư tưởng nhớ bà ngoại nhiều nhất. Cháu cũng còn bà nội ở gần, và bà rất quý mến cháu.
Nắm chặt bàn tay của cháu, nàng cảm động nói:
-Bà sẽ giữ bức họa này mãi mãi làm kỷ niệm.
Cả quãng đời thơ ấu của cháu đã băng qua cuộc sống ly hương của nàng. Cháu đã thu lại khoảng cách bằng bức họa đơn sơ. Đôi khi cháu gửi cho nàng vài câu thơ cảm nhớ. Tình cảm như mạch suối chảy không ngừng. Nhiều đêm ở Oakland nhớ cháu, nàng nghĩ không hiểu cháu đang làm gì ở nhà và ở trường lúc ban ngày của cháu. Có lúc nàng hồi tưởng những buổi trưa đi đón cháu từ nhà trẻ về, trên con đường rợp bóng cây cao. Vết chân quá khứ còn in sâu trong trí nhớ nàng và đường mòn kỷ niệm vẫn cứ dài thêm. Rồi những mùa đông xám ngắt lần lượt trôi qua trên đồi núi Oakland. Mùa của sự giã biệt quê hương ngày nào vẫn chưa đem lại một ngày đoàn tụ của những con chim lạc đàn.
Chợt cô cháu cất tiếng nói bâng quơ:
- Cháu chỉ thấy hình mấy đứa em ở bên đó. Chừng nào cháu mới thấy mặt mấy đứa hả bà?
Nàng nhớ đến mấy đứa cháu ngoại với những cái tên Mỹ: Stephen, Amy, Patrick, Kevin và sẽ còn có những cái tên khác nối tiếp. Nàng ngắm đôi mắt cháu đen lánh, khẽ nói:
- Cứ hy vọng đi cháu. Cứ hy vọng rằng cháu sẽ có ngày ở bên cạnh mấy đứa ấy. Và ở cạnh bà nữa!
Nghĩ đến ngày đoàn tụ để nối lại khúc ruột, nàng hiểu sẽ còn bao khắc khoải mong chờ, bao nhiêu nhớ thương vời vợi. Rồi nàng nhìn lên tờ lịch, khẽ hỏi con gái:
- Có phải hôm nay là sinh nhật của cháu không? Người con gái vội đáp:
- Mẹ nhớ đúng đấy.
- Vậy thì làm sinh nhật cho cháu.
Nhưng cô cháu cười tươi nói:
- Bà còn đang mệt, cháu không muốn bà mệt thêm sau khi bà vào bệnh viện thăm ông bác sĩ. Vả lại bà về thăm cháu là món quà sinh nhật của cháu rồi.
Câu nói của cô cháu làm nàng xúc động trong giây phút.
Sau khi trở về Mỹ chừng nửa tháng, Ngọc nhận được lá thư của cô cháu gái. Ngắm nét chữ nắn nót, tròn trịa, thơm mùi mực tím của tuổi học trò, nàng bồi hồi nhớ lại hình ảnh ngây thơ của cô cháu. Và nàng đọc thật chậm đoạn văn sau đây của cháu viết:
“Buổi sáng lúc bà sắp ra sân bay, cháu phải đến trường học. Thấy bà đứng ở cửa sổ, cháu đi qua, khẽ gật đầu chào bà, cố giữ vẻ thản nhiên của cháu để bà đừng buồn. Nhưng khi cháu đi ra khỏi đầu hẻm, ngoảnh lại không thấy bà nữa, cháu mới để hai dòng lệ chảy xuống má cháu nóng bừng. Hồi bà đi cách đây hơn năm năm, cháu còn nhỏ, cháu khóc rất ít. Nhưng bây gờ cháu khóc nhiều hơn vì cháu đã hiểu thế nào là chia ly. Riêng cái gối, cái mền của cháu mà bà đã gối đầu và đắp lên người trong hơn một tháng bà về thăm cháu, mãi đến mười ngày sau, cháu mới để cho mẹ cháu giặt. Cháu muốn dành hơi của bà để mường tượng bà vẫn ở bên cạnh cháu. Và mỗi đêm trước khi đi ngủ, cháu vẫn cầu nguyện cho bà có thêm sức khỏe để lại về thăm cháu..”.
Mãi tới năm 2003, cảnh đại gia đình đoàn tụ mới trở thành sự thực. Nhưng những kỷ niệm về cô cháu gái ở Saigon thời còn xa cách là một ấn tượng sâu sắc mà Ngọc khó có thể lãng quên.
Chú thích:
[1] Hunuinitarian Operation (H.O)
[2] To Sa ve China, To Save Ourselves, 1992, Renqiu Yu, p. 22
[3] A People and a Nation, 1994, p.834
[4] Thống kê số người Mỹ gốc Việt năm 2000 ở tiểu bang California: Vùng Bay Area gồm Oakland: 9.658 người, San Francisco: I2.874 người, San Jose: 82.834 người. Orange County gồm Westminster: 27.887 người, Garden Grove:36.532, Santa Ana: 19.919 người.
[5] Dân biểu Trần Văn Văn đã bị Cộng sản ám sát trước năm 1975.