← Quay lại trang sách

Chương Mười Sáu Thăm lại Hà Nội, cố đô Thăng Long

Sau gần nửa thế kỷ xa cách, Bình về thăm gia đình ở Hà Nội vào cuối thu năm 2003. Đối với chàng, Hà Nội vẫn là nơi chôn nhau cắt rốn của mình, nên chàng gạt bỏ mọi băn khoăn qua một bên để có dịp gặp lại những người thân và tìm lại Hà Nội xưa.

Xong thủ tục, chàng bước lên chiếc máy bay Boeing của hãng hàng không China Airlines rời phi trường San Francisco vào lúc gần nửa đêm. Máy bay rộng, có màn hình cho hành khách theo dõi cao độ, giờ giấc, thời tiết, đặc biệt có mũi tên thường xuyên chỉ đường bay theo hướng bắc Thái Bình Dương. Máy bay qua Nhật Bản, đến Đài Loan thì hạ cánh tại phi trường Đài Bắc. Các cô chiêu đãi viên Đài Loan mặc đồng phục xanh dương, váy ngắn xẻ đến đùi, vui vẻ tiếp hành khách suốt chặng đường bay dài.

Khi lên chiếc Airbus nhỏ hơn chiếc Boeing vào buổi sáng để bay từ Đài Bắc về Hà Nội, chàng thấy hành khách phần đông là người Đài Loan qua Việt Nam làm ăn và một số cô gái Việt Nam lấy chồng Đài Loan hoặc làm việc ở đó về thăm nhà. Có cô qua ở đợ, săn sóc người già, tháng lãnh 50 đô la, nay phải về nhà vì người già đã vào viện dưỡng lão.

Vài cô chiêu đãi viên Việt Nam mặc áo dài mầu đỏ, quần trắng, phục vụ chuyến bay. Khi bưng đồ ăn cho khách, các cô choàng trước ngực chiếc yếm mầu vỏ mận, thêu hoa văn trống đồng Ngọc Lũ thời Hùng Vương bằng chỉ vàng. Chàng nghĩ nên thay chiếc trông bằng phong cảnh Việt Nam thì hay hơn.

Máy bay về gần Hà Nội, chàng ngó qua cửa sổ tròn thấy sông Hồng chảy quanh co phía dưới, những thửa ruộng khô đã gặt xong và làng mạc san sát nhà lợp ngói đỏ. Phi trường Nội Bài hiện ra trong tầm mắt chàng với tòa nhà mái nâu, đường băng dài nằm giữa cánh đồng, mấy chiếc máy bay sơn mầu xanh đậu ở phía xa.

Bình theo đoàn người vào trong tòa nhà nộp giấy kiểm dịch cho cơ quan y tế, trình thẻ thông hành cho công an ghi nhận, rồi ra chờ lấy hành lý trên băng chuyền tự động, sau đó chàng đem lại quầy hải quan khám xét trước khi đem ra ngoài.

Trời đã quá trưa. Ánh nắng vẫn gay gắt mặc dù vào cuối thu. Chàng lên chiếc xe hơi của cậu em làm ở Công ty Đường thủy để về Giảng Võ, qua cầu Thăng Long, Chèm và Cầu Giấy. Khu vực này trước kia còn là miền quê, bây giờ đã được đô thị hóa, dân các nơi nhập về đông đúc.

Cái đập vào mắt chàng trước tiên là những nhà lầu xây rất đa dạng, kiểu cách quá đâm ra rườm rà, ban công đều ở trên lầu, không gian bị thu hẹp lại nhìn chóng cả mặt, có thể vì chàng đã quen nhìn cảnh quan đô thị và vùng phụ cận thoáng đãng ở Mỹ, nơi đất đai còn quá rộng.

Cảnh xe gắn máy, xe đạp, xe hơi chen nhau trên những con đường có khúc rộng, khúc hẹp làm chàng hoa mắt. Xe hơi còn ít ỏi so với các loại xe gắn máy. 50 năm qua đã có những thay đổi bộ mặt ngoại vi Hà Nội, nhưng tốc độ kiến thiết và chỉnh trang còn chậm vì hậu quả chiến tranh và nghèo.

Trên đường từ Cầu Giấy về Giảng Võ, chàng không còn thấy các di tích lịch sử của những người Pháp đầu tiên kéo quân từ Nam Kỳ ra đánh Bắc Kỳ cuối thế kỷ thứ 19, bị quân triều đình Tự Đức và quân Cờ đen [1] hạ sát: như mộ viên Đại úy Francis Gamier chết năm 1873 tại Giảng Võ, và mộ viên Đại tá Henri Rivière chết năm 1883 tại Dịch Vọng. Đáng lý các di tích này cần được lưu lại để chứng minh lịch sử chống ngoại xâm của quân dân ta thời kỳ đầu Pháp thuộc.

Con đường đê La Thành trước kia hoang vắng nay biến thành dãy phố bán đồ gỗ sầm uất, đặc biệt đồ gụ khảm ốc. Khởi đầu ông chú Bình làm nghề này rồi truyền lại cho con cái, bây giờ cả dãy phố chuyên bán đồ gỗ cho dân thành phố.

Về đến nhà, chàng cảm thấy vui mừng được gặp lại mẹ già 91 tuổi; tuy sức đã yếu, đi đứng khó khăn, nhưng bà cụ vẫn cười khi nhận ra chàng. Cả một dĩ vãng chợt hiện trong tâm khảm; chàng nao nao nhớ lại những kỷ niệm thời thơ ấu nơi chôn nhau cắt rốn có lũy tre xanh bao bọc, con đê cao ngăn đôi cánh đồng bát ngát dẫn đến chùa Láng, đền Voi Phục.

Bà mẹ thời trẻ đã say mê với công việc đồng áng và bán buôn để nuôi con cái ăn học. Rồi những ngày đi tản cư vất vả, những ngày về tề thật gian truân, những ngày cải cách ruộng đất mất nhà cửa, và sự kỳ thị đối với gia đình có con vào Nam theo “ Ngụy.” Ông bố chàng đã bị Pháp bắt năm 1949 vì nghi theo Việt Minh. Ông đã lo toan nhiều cho gia đình và mất năm 1989.

Làng Giảng Võ ngày nay đã trở thành một khu phố của Hà Nội mở rộng tới Sơn Tây.

Mấy ngôi nhà của các em chàng nay đã cơi thêm lầu cao ráo, sàn lát gạch hoa láng, hệ thống giây điện gắn trong tường, nhà có phòng vệ sinh và phòng tắm gắn bình nước nóng của Ý đun bằng điện. Đồ đạc đa số là tủ chè, tủ cá sấu hay rồng bay, sa lông và sập gụ. Miền Bắc hay đùng đồ gụ, còn miền Nam lại dùng đồ cẩm lai.

Đã thuộc về dĩ vãng cảnh phu vệ sinh vào mỗi buổi sáng sớm đi làm công việc đổi thùng đựng chất phế thải của con người tại các tư gia trong thành phố. Như vậy người dân Hà Nội mới được hưởng những tiện nghi vệ sinh vào khoảng 10 năm nay, nhưng như thế không có nghĩa là đồng bộ vì vẫn còn những nhà thiếu tiện nghi, chưa kể đến nông thôn và miền núi có cuộc sống thấp kém hay còn lạc hậu.

Khu vực ngoại ô: Chèm, cầu Giấy, Giảng Võ, Ngọc Khánh, Thành Công nằm phía tây Hà Nội; trước đây nhà cửa còn thưa thớt và thấp, nay nhà cửa san sát và lên ba bốn lầu. Phố Ngọc Khánh trở thành phố ăn uống tấp nập về đêm như đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn. Nhà cửa chen chúc không còn khoảng trống để thở. Tình trạng này chung cho Hà Nội và các vùng phụ cận đang bung ra với mật độ cư dân cao, trung bình cứ 617 người chiếm một dặm vuông. Dự kiến năm 2020, dân số sẽ lên tới trên 100 triệu người, mật độ sẽ còn gia tăng và nhiều vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc sẽ phải được giải quyết đồng bộ.

Hà Nội 36 phố phường đã có những thay đổi về tên đường và cảnh quan sinh hoạt thờ ixưa cũ. Chàng nhờ cậu em rể đưa đi thăm phố phường bằng xe gắn máy. Theo quy hoạch của thành phố thì vài phố cổ vẫn để nguyên, nhà cửa không được xây cao, đổi mới, mà chỉ có thể trùng tu lại. Nhà ở các phố hàng Ngang, hàng Đào vẫn nhỏ hẹp, mỗi mét vuông đất ở hàng Ngang giá 20 cây vàng, ở Hàng Đào giá 40 cây vàng. Phố hàng Thiếc còn làm các đồ dùng bằng thiếc; nhiều phố khác đã đổi tên, quay ra bán đồ tạp hóa và mở hàng ăn uống, hoặc nhà nghỉ.

Tại phố Bát Đàn có một tiệm phở tiêu biểu cho phở Hà Nội, đậm đà hương vị cũ. Vài cao ốc mới dựng lên ở trung tâm thành phố chưa thay đổi được cảnh quan cũ. Đường Quan Thánh vẫn còn những cây cao bóng cả. Đường Cổ Ngư đã đổi là đường Thanh Niên, cảnh Hồ Tây nay kém thơ mộng bởi các khách sạn, nhà hàng, nhà cao tầng bao bọc quanh hồ. Bánh tôm Cổ Ngư không còn độc tôn mà có thêm các món hải sản. Hồ bơi Nghi Tàm, Quảng Bá đã nhường chỗ cho các cao ốc. Đê Yên Phụ đã biến thành xa lộ, hai bên đường san sát nhà cửa, khách sạn và nhà hàng.

Riêng Hồ Gươm vẫn soi bóng Tháp Rùa, mặt hồ vẫn xanh mầu xanh muốn thủa. Đó đây vài cành phượng vĩ lả mình xuống nước, tạo nên bức tranh thủy mặc tuyệt vời. Bờ hồ lát gạch, dăm bóng liễu rủ gần Tháp Bút Tả Thiên Thanh (viết lên trời xanh), cạnh đó là Đài Nghiên (nghiên mực ) bằng đá. Đền Ngọc Sơn vẫn uy linh giữa hồ lồng lộng mây gió bốn phương. Thời kỳ Đổi Mới có các khách du lịch ngoại quốc và tây ‘‘ba lô ” đi dạo quanh hồ ngắm cảnh. Cũng có vài cặp tình nhân trẻ ra ngồi trên ghế đá để thợ chụp ảnh bấm vài kiểu làm kỷ niệm. Phố Hàng Trống nay có các tiệm bán đồ trang trí và tiệm kem. Không còn cảnh tàu điện kêu leng keng chạy bên bờ hồ. Các thiếu nữ mặc áo bốn túi kiểu Mao mầu rêu, cắt tóc ngắn cũng đã biến dạng.

Buổi tối, chàng và cậu em vợ ra ngồi uống nước ở nhà Thủy Tạ bờ hồ, ngắm dòng ánh sáng xe cộ chạy quanh hồ. Nhà Thủy Tạ còn là nơi trình diễn các vở kịch dân gian cho khách mua vé vào xem. Thời mở cửa đã bơm thêm sức sống cho dân Hà Nội và đưa ánh sáng quảng cáo đầy mầu sắc trở lại các đường phố u ám xưa kia.

Các hàng ăn ngoài lề đường đã bị dẹp, ngoại trừ những con hẻm nhỏ vẫn còn. Ăn tô phở, hay tô miến lươn giá chót là 6000 tiền Việt, khoảng 39 xu Mỹ; còn uống tách trà tươi tốn 200 tiền Việt, khoảng hơn 1 xu Mỹ. Một đô la đổi được 15,500.00 tiền Việt, mức hối đoái này ngày càng tăng thêm. Tiền lương của một bác sĩ 100 đô la một tháng. Lương giáo viên tiểu học 30 đô la một tháng. Bình quân lợi tức mỗi người Việt là 400 đô la một năm [2], với số dân 80 triệu; còn ở mức thấp so với các nước đang phát triển tại Á Châu. Năm 1998, Trung Cộng đạt 750 đô la một đầu người, với dân số trên một tỷ người; Thái Lan đạt 2,160 đô la mỗi đầu người, dân số trên 62 triệu, còn Singapore đạt 30,170 đô la mỗi đầu người, dân số trên 3 triệu người. Các số liệu trên được rút ra từ tài liệu Encyclopaedia Britannica xuất bản năm 2001, đến nay đã có những thay đổi về dân số và lợi tức tính theo mỗi đầu người.

Đồng lương thấp đã khiến cán bộ các cấp, các ngành phải xoay sở kiếm chác thêm và tệ nạn tham nhũng, cửa quyền cũng theo đó phát sinh.

Bộ trưởng, thứ trưởng có cửa hàng ở Hà Nội bán sản phẩm công nghệ ngoại quốc, hoặc ăn hối lộ đương bị điều tra. Chàng được người quen chỉ cho thấy các cửa hàng bề thế của thứ trưởng, bộ trưởng như thứ vải thưa che mắt thánh. Báo chí Hà Nội không ngớt đăng các vụ cán bộ chiếm dụng đất đai của công lẫn của dân ở các tỉnh thành mà đơn từ dân khiếu nại chất hàng đống không được xét xử qua nhiều năm.

Nhân tiện có chuyến xe về Thái Bình, chú em rủ chàng đi thăm huyện Tiền Hải, nơi Dinh điền sứ, nhà thơ nổi tiếng Nguyễn Công Trứ còn để lại dấu ấn khai khẩn đất hoang vùng ven biển thành hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải năm 1828, thời vua Minh Mệnh. Ông sanh năm 1778 tại Hà Tĩnh, trong một gia đình nho giáo, bố làm quan. Con người ông có thể tóm gọn trong hai vế: hăng say hoạt động cho dân và hưởng lạc tận tình cho bản thân. Ông là bậc tài hoa xuất chúng, lãnh vực nào cũng có ông: dẹp loạn, an dân, khai hoang lập ấp, thật xứng với hai câu thơ mẫu mực cho chí làm trai của ông mà các thế hệ thanh niên xưa và nay vẫn thường nhắc tới:

‘‘ Đã mang tiếng ở trong trời đất,

Phải có danh gì với núi sông”.

Số ông đào hoa: ông có bà vợ, 12 nàng hầu, sanh tất cả 12 con trai và 14 con gái. Quan niệm chữ nhàn của ông là sự hưởng lạc thanh tao: đàn hát, xướng họa, hoặc ngao du sơn thủy với bầu rượu túi thơ.

Nguyễn Công Trứ đã mô tả thú hưởng lạc của mình sánh với các bậc tài danh ngày xưa bên Trung Hoa:

“Thơ một túi gieo vần Đỗ, Lý,

Rượu lưng bầu rót chén Lưu Linh,

Đàn Bá Nha gẩy khúc tính tang tình,

Cờ Đế Thích đi về xe pháo mã”.

Để tri ân công lao lớn của ông, người dân làng Đông Quách, huyện Tiền Hải đã lập đền thờ Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ ngay từ khi ông còn sống.

Đường xuống Thái Bình phải đi qua huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, quê hương Đức Trần Hưng Đạo. Dọc đường, lúa tháng tám mới gặt còn phơi bên lề đường. Thị xã Thái Bình đã được mở rộng, con kênh chảy giữa thị xã được xây kè đá hai bên bờ, song nhiều đoạn vẫn dơ bẩn vì rác rưởi. Đường xuống huyện Tiền Hải nhỏ, chỉ chạy được hai làn xe. Mỗi gia đình ở đây được canh tác một mẫu ruộng, mức thu nhập không bằng làm các dịch vụ, đánh bắt cá, nuôi tôm cua trong các đầm nhân tạo ven biển. Nghề nuôi ong lấy mật ở các xã đã có bước phát triển mới, liên kết với việc trồng cây ăn trái để có hoa nuôi ong.

Đi sâu vào các cánh đồng đạt 5, 7 tấn một mẫu, chàng thấy những ngôi giáo đường lớn vẫn tồn tại với thời gian, có ngôi đang được xây mới do giáo dân quyên góp hàng tỷ đồng. Thời Gia Long, Minh Mạng đã có chính sách cấm đạo, một số nhà truyền giáo Tây phương đã phải chạy về ẩn náu ở Tiền Hải, một cứ điểm sát biển, lôi kéo theo giáo dân đến lập nghiệp ở đây, do đó các ngôi nhà thờ lớn đã được xây dựng và bảo tồn đến ngày nay, mặc dù có chính sách bài tôn giáo của chế độ Cộng sản. Vào thăm một trạm điều chỉnh cống nước mặn chảy vào các hồ nuôi tôm cua, chàng thấy nhân viên ở đây chỉ treo ảnh Chúa thêu trên tấm vải mầu xanh da trời mà thôi.

Người dân Tiền Hải, ngoài nông nghiệp còn sống bằng nghề đánh cá tại cửa sông Hồng rộng mênh mông, nước đỏ ngầu, hai ven bờ sú vẹt mọc lan tràn khỏi mặt nước. Hàng năm phù sa tiếp tục bồi ra cửa biển; sóng đánh từ ngoài biển ngăn chặn, dồn phù sa lại thành bãi ngầm cho đến khi trồi lên cao thành lớp bãi bồi mới. Người dân địa phương đã ươm sẵn những cây phi lao nhỏ để đem ra bãi bồi mới trồng tiếp nhằm giữ đất, theo kinh nghiệm của tiền nhân truyền lại từ bao đời nay.

Vào một quán ăn ở huyện, chàng được nghe những mẩu chuyện do mấy cán bộ đang trao đổi với nhau. Họ nhắc đến những vụ tham nhũng đã được ém nhẹm, tòa xử chiếu lệ, đến cả vụ công an Quỳnh Côi bị dân bắt giữ vì bênh chính quyền xã tham nhũng mấy năm trước.

Dân Thái Binh vẫn có truyền thống tranh đấu cho nông dân bị ức hiếp. Người dân còn nhắc đến loạn Phan Bá Vành, một nông dân Thái Bình đã huy động nghĩa quân nổi lên chống triều đình Minh Mạng trong 6 năm (1821-1827),vì nông dân bị sưu cao, thuế nặng nên quá cực khổ.

Đặc biệt trong khi chuyện trò, họ đề cập đến cả cái chết của ông Trần Độ, một cựu tướng lãnh và ủy viên trung ương đảng đã mạnh dạn kêu gọi đảng mở rộng dân chủ nên bị đảng trù dập; hai người con của ông Độ là đại tá đã bị cho về hưu. Họ thẳng thắn cho việc làm của ông Độ là đúng đắn, song vì cơm áo dung thân, họ đã không thể làm gì hơn ngoài việc bàn với nhau cho vui miệng trong lúc trà dư tửu hậu.

Ở một chỗ khác, chàng lại nghe cán bộ nói đến việc đi học chính trị để giữ các chức vụ then chốt, đây là điều kiện bắt buộc đối với đảng viên các cấp, kể cả các trường đại học và chuyên nghiệp cũng phải học chủ nghĩa Mác.

Thực tế mà nói, chế độ Cộng sản hiện có ba tầng lớp: trên cùng là lãnh đạo đảng, giữa là cán bộ, chuyên viên, dưới cùng là nhân dân. Lớp trên cùng cố bám lấy địa vị và vây cánh, lớp giữa là thành phần cơ hội chủ nghĩa và thực dụng, còn đại đa số nhân dân chỉ lo làm ăn cải thiện đời sống, không mấy quan tâm đến chính trị. Người dân đã có ý thức bảo vệ quyền lợi, đất đai của họ bằng sự đối chọi với nhà cầm quyền Cộng sản.

Có thể ví xã hội chủ nghĩa như Iớp váng trên bề mặt kinh tế thị trường hiện tại. Trong điều kiện chậm phát triển, nạn tham nhũng ăn sâu, việc tập trung quản lý các phương tiện sản xuất và phân phối phúc lợi cho mọi người như Mác đã dạy chỉ là lý thuyết suông. Thực tế 50 năm qua đã chứng minh cho điều đó: các nông trường tập thể, hợp tác xã nông nghiệp, cơ sở quốc doanh lần lượt bị đào thải.

Việt Nam sẽ phải đi bước kế tiếp: cải tổ về chính trị để theo kịp đà phát triển chung của nhân loại, cũng như Việt Nam sẽ phải dựa vào một cường quốc không phải là người đồng chí Trung Cộng ở sát nách từng ức hiếp mình, hoặc Nga nay chỉ là một bạn hàng, mà là Mỹ để có thể đương đầu với nguy cơ bành trướng của Trung Cộng. Đó không chỉ là dự kiến mà sẽ là cơ sở cho các chính sách đối nội và đối ngoại của Việt Nam trong tương lai [3].

Từ nhận định khách quan đó, việc cải thiện bang giao với Mỹ đi đôi với cải thiện nhân quyền, bước nữa là dân chủ hóa chính quyền, sẽ là những yếu tố then chốt để Việt Nam có thể đồng hành với Mỹ. Thế hệ sinh viên, học sinh hiện thời, trong đó một số đáng kể con em cán bộ và sinh viên tự túc theo học các trường đại học Mỹ từ thập niên trở lại đây, sẽ là động lực chuyển hóa dần chế độ độc tài đảng trị sang kỷ nguyên mới: dân chủ thực sự do dân và vì dân.

Giọt nước thấm dần sẽ làm mòn cả đá! Liên Bang Xô Viết đã phải thay chế độ cộng sản bằng chế độ dân chủ năm 1991 mà không phải đổ máu như cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917 ở Nga đã lật đổ Hoàng đế Nicholas II và thiết lập chế độ cộng sản độc tài do Lenin lãnh đạo.

Có những cán bộ về hưu đã than vãn cuộc sống nghèo túng, đổ lỗi cho các chính sách sai lầm về kinh tế, xã hội, chính trị của đảng trong nửa thế kỷ qua. Cũng không phải ngẫu nhiên mà một cựu đại tá quân pháp đã ca ngợi trước mặt chàng về Tổng thống Roosevelt, người đã cứu nước Mỹ ra khỏi cơn khủng hoảng kinh tế năm 1933 bằng chương trình Hành Động Mới (New Deal) nhằm giúp người dân thất nghiệp có việc làm, người nghèo được hưởng trợ cấp, phúc lợi và chữa bệnh của chính phủ liên bang lẫn tiểu bang. Xu hướng dân chủ tất nhiên là không thể đảo ngược khi nó đã trở thành khát vọng từ bao đời nay của người dân Việt.

Trở lại Hà Nội, Bình tới căn nhà lầu số 37E phố Văn Miếu thăm gia đình cậu em. Chàng bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm cũ trong căn nhà, nhớ đến Hiền, Tuyết trước khi vào Nam năm 1954. Hiền đã có chồng ở Hà Nội, Tuyết có chồng ở Saigon.

Khi vào thăm Văn Miếu, chàng có cảm tưởng như quay về thời cổ đại cách nay 800 năm.

Hàng bia tiến sĩ lưu thiên cổ,

Giếng nước Thiên Quang lộng góc trời. (NAL)

Chàng còn giữ tấm ảnh chụp năm 1952 cạnh tấm bia đá tiến sĩ với anh Song Nhất Nữ và anh Thanh Bình trước khi vào miền Nam. Năm 1956, chàng gặp lại anh Thanh Bình ở Huế; khi cả hai người đã nhập ngũ sĩ quan.

Ngoài cửa vẫn còn tấm bia đá Hạ Mã, nhắc khách tham quan phải xuống ngựa hoặc xe trước khi vào bên trong. Ngày nay khách vào phải mua vé, có tài liệu hướng dẫn và bưu thiếp bán cho du khách làm lưu niệm.

Toàn bộ kiến trúc, cảnh trí khu Văn Miếu vẫn giữ những nét cổ kính, thơ mộng từ ngàn xưa, có thêm phần tôn tạo hai nhà che bia tiến sĩ và nhà Thái Học bị phá hủy năm 1946. Lịch sử Văn Miếu có từ năm 1070; khi Vua Lý Thánh Tông cho xây dựng đồ án và cho đắp tượng Chu Công, Khổng Tử cùng 72 vị tiên hiền để thờ. Năm 1076, Vua Lý Nhân Tông cho lập Quốc Tử Giám (Đại Bái Đường hiện nay), tức trường đại học đầu tiên của nước ta tại khu Văn Miếu để đào tạo các hoàng tử và quan lại. Đời Trần đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học Viện (năm 1243). Đến năm 1433, Vua Lê Thái Tổ mở rộng Quốc Tử Giám, cho tuyển chọn con cháu các quan lại và thường dân xuất sắc vào học.

Theo thứ tự, khách sẽ đi vào Văn Miếu Môn, qua khu vườn cảnh đến cổng Đại Trung, rồi đến gác Khuê Văn, hai bên tẩ hữu có nhà bia 82 người đậu tiến sĩ từ khoa Đại Bảo thứ 3, năm 1442 đến năm Cảnh Hưng thứ 40, năm 1779. Ở giữa là giếng Thiên Quang hình vuông có tường hoa bao bọc.

Khách đi tiếp vào cổng Đại Thành đến Đại Bái Đường thờ tiên thánh; nơi đặt tượng Đức Khổng Tử, vạn thế sư biểu và bàn thờ ông Chu Văn An. Đời Vua Trần Dụ Tông (1341-1369), Chu Văn An dâng Thất trảm sớ xin vua chém 7 gian thần song vua không nghe, nên ông bỏ quan về dạy học. Vì cảm mến tài cao học rộng và tính cương trực của Chu Văn An, Vua Trần Dụ Tông đã cho thờ ông tại Văn Miếu sau khi ông mất.

Phía sau là nhà Thái Học, hậu cung có đặt tượng đồng của các Vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lê Thái Tổ đều mới làm để thờ. Các vị vua trên đã có công thiết lập và mở mang Văn Miếu, Quốc Tử Giám, tạo nơi này thành một biểu tượng muốn đời của Nho giáo.

Thăm lại Văn Miếu, chàng liên tưởng đến một nền nho học cực thịnh trải dài suốt lịch sử Việt Nam, đến những bậc danh nho như: Chu Văn An, Trương Hán Siêu, Lê Qúy Đôn, Lương Thế Vinh (nhà toán học), Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cũng từ Hán học mà ta đã có các áng thơ văn bằng chữ nôm rất nổi tiếng của Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hương. Đó là những tên tuổi lẫy lừng, những cổ thụ của nền văn học cổ Việt Nam và là niềm vinh dự của một dân tộc trọng nho giáo.

Rời Hà Nội, Bình thuê xe hơi đi từ lúc sáng sớm đến tỉnh Vĩnh Phú, vượt chặng đường dài hơn trăm cây số. Xe qua cầu Thăng Long bắc trên sông Hồng, qua các thị trấn nhỏ, những cánh đồng lúa và hoa mầu ở dọc đường, tới cây cầu bắc trên sông Lô là vào thị xã Việt Trì. Thị xã chạy dài theo xa lộ được ngăn đôi bằng dải cỏ xanh, hai bên đường là các cửa hàng khá sầm uất. Đến cuối thị xã, xe quẹo bên trái theo con đường nhựa dẫn đến khu đồi núi và rừng già.

Xe dừng tại bãi đậu ngay chân núi Nghĩa Lĩnh. Chàng rủ bác tài xế vào quán nước nghỉ một lát trước khi leo lên núi. Ngày thường có ít du khách đến tham quan đền Hùng, nhưng theo lời kể của cô chủ quán thì vào ngày Giỗ Tổ 10 tháng Ba âm lịch, trên 500 bậc thềm đá từ cổng lên đến đền Thượng ở trên đỉnh núi cao 175 mét đều đông nghẹt người đi lễ.

Mỗi bước trèo non thêm ngưỡng mộ,

Ngàn thu dựng nước các Vua Hùng (NAL)

Phải dùng từ uy linh mới thấy hết vẻ thiêng liêng, cổ kính và hài hoà của quần thể kiến trúc đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, nơi các Vua Hùng đã lập đế đô đầu tiên của nước Văn Lang tại Phong Châu, Việt Trì. Đứng trên núi Nghĩa Lĩnh nhìn xuống, du khách thấy cảnh bao quát, thơ mộng của vùng trung du Việt Trì. Mười tám đời Vua Hùng đã kế tiếp nhau dựng nước Văn Lang, từ năm 2879 đến năm 258 trước Công Nguyên, với 15 bộ lạc khởi thủy trải dài từ Cao Bằng đến Quảng Trị. Biểu tượng văn hóa thời đại Hùng Vương được lưu truyền đến ngày nay là trống đồng Ngọc Lũ và Đông Sơn với các họa tiết mô tả nếp sinh hoạt sống động và phong phú của nhân dân thời bấy giờ.

Từ chân núi leo lên các bậc đá, Bình tới cổng chính sơn đỏ [4] đứng uy nghiêm dưới bóng thông cao, rồi leo tiếp các bậc đá tới tam quan có gác chuông, trước khi vào Đền Hạ, một ngôi đền ba gian, mái lợp ngói ta, trông đơn giản và cổ kính. Khách vào trong đền, thắp hương, khấn trước bàn thờ các vua Hùng rồi đặt các tờ giấy bạc 200 đồng mới tinh đổi tại quán nước ở chân núi để cầu phước. Đền Hạ có huyền thoại Bà Âu Cơ sanh một bọc 100 trứng, nở thành 100 người con trai; 50 người theo Lạc Long Quân về biển, 49 người theo Bà Âu Cơ lên núi, để lại người con trưởng làm vua xưng là Hùng Vương, đóng đô tại Phong Châu, Việt Trì, đặt quốc hiệu là Văn Lang. Bên cạnh đền Hạ có chùa Thiên Quang, bóng cây rừng phủ kín phía sau tạo thêm cảnh u huyền, thanh tịnh cho ngôi chùa cổ.

Rời Đền Hạ, chàng leo các bậc đá bên sườn núi tới Đền Trung. Theo truyền thuyết các Vua Hùng thường mời các Lạc tướng đến đây để bàn quốc sự. Cũng tại nơi đây, Hoàng tử Lang Liêu đã tự mình gói những chiếc bánh chưng, bánh dầy đầu tiên vào dịp Tết âm lịch để cúng tổ tiên và dâng lên vua cha. Ngày nay con cháu Tiên Rồng vẫn trân trọng giữ mỹ tục nấu bánh chưng, bánh dầy vào dịp tết như quốc hồn, quốc túy.

Giữa sân, phía trước đền có đặt một phiến đá tròn làm bàn, xung quanh có 8 phiến đá tròn nhỏ làm ghế cho Vua Hùng và các Lạc tướng ngồi họp bàn việc nước. Khi leo tới đây, có du khách đã thấm mệt nên ngồi vào phiến đá nghỉ, tưởng tượng đến ngày xưa các Vua Hùng đã ngồi như thế dưới trời xanh, cây cao bóng cả để lo cho dân được ấm no hạnh phúc. Hình ảnh ấy thật là đẹp và đầy ấn tượng đối với người dân Việt ở mọi thời đại.

Rời Đền Trung, chàng lại leo thêm các bậc đá lên tới Đền Thượng trên đỉnh núi. Theo truyền thuyết, các Vua Hùng hàng năm tới đây để tế Trời Đất và Thần Nông, cầu cho dân được mùa màng và thái bình. Ở các đền, khách thập phương đều cúng tiền khi dâng hương lễ. Ban quản lý đền sẽ sử dụng số tiền này trong công tác tu bổ kiến trúc và cảnh quan. Bên cạnh đền Thượng có lăng Hùng Vương xây như cái miếu nhỏ hình vuông, mái cong. Vua Hùng thứ 6 đã cho lập đền thờ Thánh Gióng sau khi đánh bại giặc Ân sang xâm lăng nước ta.

Chàng lại theo các bậc đá xuống chân núi, về bên trái có Đền Giếng thờ hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, ngày xưa thường hay soi gương và chải tóc bên bờ giếng. Đây là cái giếng nhỏ xây bằng đá ở ngay giữa đền, đường kính một mét, sâu ba mét, nước trong vắt trông thấy cả đáy. Có những đồng tiền cắc nằm dưới đáy giếng do khách thập phương quăng xuống. Chàng cũng bỏ xuống đáy đồng quarter 25 xu Mỹ làm kỷ niệm. Thế là chữ Liberty trên đồng tiền bằng bạc đã nằm xen kẽ những đồng tiền khác với hy vọng nó sẽ sớm trở thành hiện thực từ nơi đáy giếng của Đền Giếng. Mong lắm thay!

Khi rời Đền Giếng để ra xe, chàng ngạc nhiên thấy bức tường phù điêu mầu trắng ở chân núi đắp hình nổi Hồ Chí Minh đứng giữa bộ đội và dân chúng. Thiết nghĩ từ ngàn xưa, trải qua các triều đại phong kiến, các bậc vua chúa cũng đã không nghĩ đến việc dựng hình tượng của mình ở núi Nghĩa Lĩnh, nơi tôn nghiêm chỉ dành để thờ các Vua Hùng đã có công dựng nước.

Nhớ lại khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ tháng 12 năm 1991, các tượng Stalin, nhà độc tài Đỏ, đã bị dân chúng Nga và các nước chư hầu Đông Âu tự động lật đổ. Cho nên khi lịch sử sang trang, những gì trái với lòng dân sẽ bị đào thải, đó là quy luật tự nhiên.

Cuộc sống ngột ngạt của người dân hiện thời dưới chế độ Cộng sản làm Bình nhớ lại 50 năm trước, người dân cũng đã phải chịu đựng cuộc sống như thế dưới chế độ thực dân Pháp; nghĩa là không có tự do, dân chủ trong đời sống.

Về quyền bầu cử người đại diện cho mình ở quốc hội và các cơ quan công quyền, người dân vẫn phải bầu các thành viên do Đảng Cộng sản chọn sẵn.

Về báo chí, người làm báo tuyệt nhiên không được chỉ trích Đảng mà phải viết theo đường lối lãnh đạo của Đảng.

Năm 1956 ở Hà Nội lóe lên phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đòi tự do tư tưởng và ngôn luận thì bị Đảng Cộng sản dập tắt. Hiện nay, những người tranh đấu cho nhân quyền ở trong nước đã liên kết thành một phong trào dân chủ rộng lớn là một thách thức mới cho Đảng Cộng sản độc trị.

50 năm trước, nền văn nghệ lãng mạn Tự Lực Văn Đoàn trong đó có Khái Hưng, Nhất Linh là tiêu biểu, và hiện thực xã hội trong đó có Vũ Trọng Phụng là nổi bật, đã bị Cộng sản lên án là đồi trụy. Các tác phẩm của họ, kể cả các sách sử khác đã bị Cộng sản cấm đoán trong nửa thế kỷ ở miền Bắc, nhường chỗ cho văn chương đấu tranh giai cấp và chống đế quốc tư bản.

Các kinh điển của Marx như bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Manifesto of the Communist Party) do Marx và Engels viết từ năm 1847 và cuốn Tư Bản (Capital) do Marx viết từ năm 1867, đã được Đảng Cộng sản áp dụng vào các lãnh vực chính trị, văn hóa, xã hội và kinh tế. Hậu quả là chế độ chuyên chế ra đời, gây bao đau thương tang tóc cho dân tộc qua các cuộc đấu tố và sau đó là chiến tranh xâm lược miền Nam.

Lúc này có dịp ghé vào tiệm sách phố Tràng Tiền, chàng thấy văn chương của Tự Lực Văn Đoàn tái xuất hiện trên quầy sách. Cuốn Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng đã được chính thức giảng dạy trong nhà trường cộng sản. Các truyện của Khái Hưng (người đã bị Việt Minh thủ tiêu từ năm 1946), Thạch Lam, Hoàng Đạo, Vũ Trọng Phụng đã được tái bản sau nhiều năm bị chế độ Đỏ dìm xuống đất đen. Như thế đủ hiểu các hạt giống văn chương Đỏ đã bị thui chột, không thể thay thế được những hạt giống Xanh vì bản chất của nó không phản ánh trung thực nguyện vọng của con người và dân tộc Việt Nam luôn khát vọng tự do. Freud đã dùng phân tâm học để chứng minh ý nguyện của con người không thể bị ức chế trong mọi trường hợp. Feodor Dostoyevsky đã mô tả: “ Tự do như một sự lựa chọn không bị ràng buộc, một sự ham thích có lúc trở nên cuồng loạn trong con người”; nhưng ở đây là con người có tự chế.

Cũng có một số tác phẩm của các nhà văn Cộng sản trên quầy sách nhưng ít người để ý vì người viết còn bị buộc dối lòng thì không thể thuyết phục người đọc. Truyện Sông Đà của Nguyễn Tuân viết nhạt nhẽo, không có hồn so với Vang Bóng Một Thời của ông ngày trước. Vài bài thơ của lớp tiểu tư sản còn có thể rung cảm được người đọc, như bài Mầu Tím Hoa Sim của Hữu Loan, Tây Tiến của Quang Dũng, Ai về Bên Kia Sông Đuống của Hoàng cầm. Còn Tố Hữu hiện nguyên hình một thi nô, là cái loa và là mũi xung kích hàng đầu của Đảng Cộng sản trong phong trào chống địa chủ, phản động: “Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ. Tố Hữu đã tôn sùng nhà độc tài cộng sản Stalin bằng câu thơ: “ Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!” và khóc Stalin bằng câu:“ Thương mình thương một, thương Ông thương mười!” Đó là nỗi đau lòng cho những người cộng sản Việt Nam đã đi theo con đường đấu tranh của Mác, phản lại truyền thống đạo lý của dân tộc.

Bình cũng đã có dịp gặp lại những con người thực của Hà Nội. Qua những phút trò chuyện với họ, già có, trẻ có, bên cạnh tách trà hoặc ly rượu suông, chàng cảm thấy họ vẫn chan chứa tình người, tình dân tộc, nghĩa là họ không nói theo thứ ngôn ngữ rập khuôn của cán bộ cộng sản, không ưa gì chế độ ngày càng đầy rẫy bất công, tham nhũng và đồi trụy. Người dân không sợ đối đầu với nhà cầm quyền cộng sản và thẳng thắn chỉ trích những cán bộ tham ô ở bất cứ cấp nào.

Để hiểu thêm tâm trạng của người Hà Nội, chàng làm bài thơ Hà Nội Thu Về, vừa để ghi lại cảm nghĩ của chàng trong những ngày về thăm cô hương:

Hà Nội thu Về

Hà Nội thu về lãng đãng mây,

Lao xao hè phố lá khô đầy,

Thu về mang cả hồn thu cũ,

Man mác buồn qua ngọn gió may.

Chạnh nhớ ngày xưa ta đã yêu,

Vin cành hoa sữa buổi đầu thu,

Quên sao em nhỉ mùi hương ấy,

Đã ướp hồn ta những buổi chiều?

Giờ vẫn còn nguyên chuyện ước mơ,

Mơ đời hạnh phúc chẳng sầu lo,

Đêm đêm Hà Nội còn thao thức,

Cho cảnh đời nay sống vật vờ.

Chẳng cúi đầu đâu, chẳng điếc câm,

Trong tim Hà Nội máu sôi ngầm,

Vẫn chờ cơn gió gây thành bão,

Xô hết tàn dư khỏi nước non.

Ước hẹn cùng thu ta sẽ lại,

Nhìn hoa sữa nở đón người xưa,

Dẫu bao thu mất xuân lưu lạc,

Còn lại tình ta chẳng xóa nhòa.

Ngày cuối cùng, Bình tìm đến địa chi của người bạn gái cũ ở phố Văn Miếu. Bà chủ nhà mới cho biết nàng đã về cư ngụ tại chung cư Kim Liên.

Tiệm giặt ủi xưa kia nay là tiệm bán tạp hóa; chàng phân vân không hiểu gia đình người chị của Hiền còn ở đó hay đã đi nơi khác.

Buổi chiều hôm ấy, chàng thuê xích lô đến phố Kim Liên. Khi tới chung cư, bác xích lô dừng xe lại. Trả tiền cho bác xong, chàng bước qua sân gạch, rồi lên lầu tìm căn phòng của Hiền. Chàng gõ cửa, hồi hộp đứng đợi. Bóng cây me chập chờn dưới ánh nắng chiều ngoài lan can làm chàng nhớ lại buổi chiều đi chơi với nàng ở chùa Láng. Thời gian trôi thật mau. Bao nhiêu chuyện bể dâu đã xẩy ra trong đời chàng.

Chợt cánh cửa hé mở. Hiền ngạc nhiên nhìn chàng trong giây lát rồi mỉm cười nói:

- Trời, anh Bình. Mời anh vào nhà.

Chàng theo nàng vào trong phòng. Có đứa cháu gái cúi đầu chào chàng.

Nàng bảo:

- Cháu nội tôi đó.

Cháu gái liền vào phòng bên cạnh coi tivi, để hai người lớn trò chuyện với nhau.

Ngồi xuống ghế đối diện với nàng, chàng vui vẻ gọi nàng bằng cô như hồi xưa:

- Trông cô giáo không thay đổi mấy, vẫn còn nét như ngày nào.

Nàng khẽ lắc đầu.

- Tôi về hưu đã lâu rồi. Còn anh cũng chẳng khác mấy. Con cái ra sao?

- Các cháu đã có gia đình.

- Tôi có hai cháu trai. Một cháu có gia đình rồi. Chàng ngó quanh không thấy chồng nàng ở nhà, khẽ hỏi:

- Anh ấy đâu?

Nàng đáp:

- Nhà tôi đến tòa báo làm việc. Anh còn làm báo chứ?

- Hồi này tôi ít viết báo.

Nàng chế nước sôi vào bình trà rồi rót ra chiếc chén quân mời chàng. Nàng tâm sự:

- Nhà tôi bảo làm báo khổ tâm lắm. Muốn viết theo lương tâm trách nhiệm của mình mà không được!

- Đúng thế. Vì trên anh ấy còn có Đảng.

Đôi mắt nàng tỏ vẻ băn khoăn, nghĩ ngợi.

- Chắc cô không khỏi ngạc nhiên khi thấy tôi về thăm?

Nàng hạ giọng:

- Tôi cũng không ngờ đấy. Mấy chục năm rồi còn gì?

Ngừng một lát, nàng nhởn nhơ bảo:

- Có lúc tôi nhìn qua cửa sổ nhà anh, cứ nghĩ anh còn đứng đó nhìn mình. Tôi thấy khó quên cái hình ảnh ấy. Cho tới khi tôi lập gia đình, tôi vẫn nhớ đến cái cửa sổ nhà anh mới lạ chứ.

Nghe nàng kể, chàng cảm thấy lòng mình trùng xuống. Rồi chàng cất tiếng hỏi:

- Thế bà chị đi đâu? Tôi lại Văn Miếu không thấy bà ấy ở đó.

- Chị ấy đưa gia đình vào Cà Mâu ở anh ạ.

- Thảo nào. Tôi thấy nhiều người miền Bắc vào Nam làm ăn từ sau năm 1975.

Nhấp ngụm trà Thái Nguyên đậm đặc, chàng nói:

-Tôi đã quen vị trà này.

Nàng dịu dàng bảo:

- Nhà tôi cũng thích. Cứ mỗi sáng sớm tôi pha cho anh ấy một ấm trà nóng trước khi đi làm. Ở Mỹ anh cũng có trà này à?

- Tôi có cô em thỉnh thoảng gửi cho ít trà uống vào mùa đông và nụ vối uống vào mùa hè.

Sực nhớ đến cậu bé ngày xưa vẫn đưa thơ cho hai người, chàng cất tiếng hỏi:

- Còn cháu Tuấn giờ ở đâu? Có vào Nam không?

Nàng buồn bã nói:

- Cháu mất ở Hải Phòng vì bom B.52 anh ạ.

Cháu Tuấn là con bà chị của Hiền, lúc nhỏ đẹp trai và nhanh nhẹn như con thoi.

- Tôi thấy thương cháu. Hồi ấy cháu rất ngoan. Chắc cô đã hiểu chiến tranh phát xuất từ đâu?

- Tôi biết. Dân ở đây bất mãn lắm. Nhiều nhà có đến hai, ba con là liệt sĩ. Bằng tuyên dương cứ treo đầy nhà.

Cả hai người đều lặng im. Trong chiều sâu ký ức, chiến tranh như một dấu ấn khó phai mờ dù nó đã chìm vào dĩ vãng. Cậu bé Tuấn là một kỷ niệm khó quên đối với chàng, là gạch nối giữa con tim hai người. Rồi chàng rút ví lấy ra tờ giấy một trăm đô la, ôn tồn bảo:

- Tôi về vội vàng, chẳng kịp mua quà cho các cháu. Vậy Hiền cầm giùm để làm quà cho các cháu và sắm chút hương hoa viếng cháu Tuấn giùm tôi. Ngày mai tôi lại đi.

Nàng nhìn chàng, cảm động nói:

- Anh về là quý rồi. Anh khỏi cho quà. Tôi sẽ đến mộ viếng cháu Tuấn sau. Cho tôi gửi lời thăm chị và các cháu.

Chàng thân mật bảo:

- Cô vẫn dung dị như ngày nào. Bao nhiêu năm qua mà tâm hồn cô không hề thay đổi; vẫn là tâm hồn của cô gái Hà Nội năm 1954.

Nàng im lặng. Miệng khẽ mỉm cười.

Khi tiễn chàng ra ngoài cửa, nàng cẩn thận khóa cửa lại. Hai người đứng ở lan can trong giây phút. Chàng nắm bàn tay nhỏ nhắn của nàng, hồi tưởng lại cái hôn trên má nàng ngày đầu mới yêu.

Hơi nóng từ con tim như đang dồn cả lên đôi má nàng đỏ ửng. Chàng từ từ buông tay nàng ra rồi lặng lẽ bước xuống cầu thang. Trong tâm tư chàng nghĩ sẽ không còn giây phút nào để chàng quay lại gặp nàng, như giây phút này đây đang vội tan vào khoảng cách giữa hai người.

Buổi chiều đã xuống, thật thấp.

Những chiếc lá bàng khô mầu đỏ quạch chạy lăng quăng trên mặt đường nhựa theo cơn gió nhẹ, nghe thật khô khan, buồn tẻ, quạnh hiu. Từ trên lan can, Hiền vẫn đứng yên nhìn theo chàng, đôi mắt nàng thẫn thờ bỗng thấm lệ không hiểu vì sao. Nàng lấy chiếc khăn tay trắng trong túi áo ra lau mắt, cố ngăn lại niềm xúc động đang dâng lên trong lòng. Nàng chờ khi bóng dáng chàng khuất hẳn sau dãy cây bàng trong ngõ mới quay vào trong nhà.

Chú thích:

[1] Quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc là dư đảng Thái Bình Thiên Quốc chống lại nhà Thanh chạy vào miền thượng du Bắc Việt, được Vua Tự Đức dung nạp để chống lại quân Pháp.

[2] GDP/ đầu người Việt Nam năm 2006 là 720 USD, dân số 85,3 triệu, theo báo cáo của Nhà nước.

[3] Do sức ép của Trung Cộng, CSVN đã ký Hiệp ước biên giới năm 1999 nhượng khoảng 800 km2 dọc biên giới trong đó có thác Bản Giốc ở Cao Bằng, phía nam Ải Nam Quan ở Lạng sơn, và năm 2000 ký Hiệp ước Vịnh Bắc Việt nhượng khoảng 12.000 km2 hải phận Bắc Việt cho Trung Cộng.

[4] Ở hai bên cổng có câu đối bằng chữ Hán, đại ý:

“Mở lối đắp nền, bốn mặt non sông quy một mối,

Lên cao nhìn rộng, nghìn trùng đồi núi tựa đàn con’’.