Chương Mười Bảy Tình đất
Phù vân du tử ý,
Lạc nhật cố nhân tình”.
Lý Bạch
Bạn đi theo đường mây,
Ngày qua, tình khôn rời.
Bình muốn nói thêm đôi điều về một làng có kỳ tích lịch sử, cùng mối trăn trở của bà Thành hoàng được thờ ở làng. Cũng như các làng ở nông thôn miền Bắc, quê chàng, làng Giảng Võ đã có từ thời dựng nước cách đây mấy ngàn năm.
Làng kề sát đê La Thành đã được đắp từ năm 1014 dưới triều vua Lý Thái Tổ (1010-1028). Con đê này chạy từ làng Bưởi giáp Hồ Tây, qua các làng Thủ Lệ, Giảng Võ, Thịnh Hào tới ô Chợ Dừa, tạo thành vòng đai bảo vệ phía tây nam thành Thăng Long. Phía đông bắc có tuyến đê Yên Phụ dọc theo sông Hồng, bảo vệ kinh đô chống lũ lụt hàng năm. Dù hệ thống thành lũy, đê điều ở cố đô Thăng Long, tức Hà Nội ngày nay, đã bị mai một nhiều; người đời nay vẫn thấy công sức vĩ đại của các bậc tiền bối trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Năm 1010, Lý Công Uẩn tức Vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư, Ninh Bình ra thành Đại La, thấy rồng bay trên thành nên đổi là Thăng Long, nơi hội tụ các yếu tố nhân văn, lịch sử, địa lý, giao thông thủy bộ và nguồn gốc của nền văn hóa, văn minh dân tộc.
Đến năm 1253 nhà Trần lập Giảng Võ đường tại xã Giảng Võ để huấn luyện võ nghệ cho quân sĩ. Năm 1983, khi nạo vét lòng hồ trước sân đình, dân làng đã thu lượm một số giáo, mác, mũi tên bằng đồng, là những vũ khí mà quân sĩ thời Trần đã sử dụng trong ba lần đánh thắng quân Nguyên-Mông xâm lăng Đại Việt vào các năm 1258, 1285 và 1288.
Theo truyền thống văn hoá từ thời dựng nước, mỗi làng ở Việt Nam đều thờ một vị Thành hoàng có sắc phong của nhà vua, để tôn vinh một vị vua chúa, một bậc anh hùng có công lao huyết hãn với dân tộc, hay một danh nhân văn hoá, một ông tổ khai sinh nghề nghiệp tại địa phương. Như làng Á Lữ, Thuận Thành, Bắc Ninh; dân làng thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ là thủy tổ của dân tộc Việt.
Làng Giảng Võ thờ bà Châu Nương, họ Lý, người con gái sinh ra tại làng này, lấy chồng là Trần Thái bảo, [1] làm quan Đốc bộ ở Nghệ An và có công đánh giặc Nguyên- Mông. Bà Châu Nương và cha là ông Lý Quỳnh, đã có công lớn trong việc giữ gìn kho tàng, lương thực của quân đội nhà Trần. Nghe tin chồng hy sinh, bà Châu Nương tuẫn tiết không để lọt vào tay giặc. Sau khi thắng quân Nguyên-Mông lần thứ hai (1285) và thứ ba (1288), Vua Trần Nhân Tông đã truy tặng bà chức Quản Chưởng Quốc Khố Công Chúa và cho lập đền thờ bà ở Giảng Võ, Nghệ An và ở làng Đình Bảng, Bắc Ninh (quê nội). Trong đình có treo bức hoành với bốn chữ đại tự: Lý Trần Phương Danh để vinh danh hai họ Lý, Trần và bức hoành: Nữ Trung Anh Liệt để ca ngợi sự nghiệp của bà Chúa Kho.
Cuối thế kỷ thứ 19, viên Đại úy Pháp Francis Garnier đã tử trận tại đầu làng Giảng Võ ngày 21 tháng 12 năm 1873, sau khi y đem quân từ Gia Định ra đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, bị rơi vào cuộc phục kích của quân triều đình Tự Đức do Hoàng Tá Viêm chỉ huy và quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc với vũ khí thô sơ. Thành bị hạ, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương bị thương song không chịu cho Pháp băng bó, rồi nhịn ăn chết. Ngày xưa làng có lũy tre dày bao bọc, một bên là đê La Thành, một bên là đầm trũng từ bao đời do dân lấy đất đắp đê, nên quân Pháp từ Hà Nội tiến ra đường đê độc đạo để giải vây đã bị quân ta phục kích và bị nhiều tổn thất. Dân làng đã tiếp tế lương thực, che dấu và cứu thương quân sĩ; một số dân quân đã tham gia chiến đấu với gươm giáo chống lại quân Pháp có súng ống đầy mình. Ngày nay có 12 đám giỗ cùng ngày ở trong làng để tri ân những người dân đã vì nước hy sinh. Sau trận này, Pháp đã rút khỏi Hà Nội để rồi tái chiếm năm 1882, khiến Tổng đốc Hoàng Diệu đã phải tuẫn tiết, song viên Đại tá Henri Rivière cũng đã bị tử trận tại Dịch Vọng năm 1883, trên cầu Glấy khoảng nửa cây số.
Năm 1955, Việt Minh phá bỏ đài kỷ niệm có gắn nửa mặt Francis Garnier bằng đồng đen ở đầu làng, san đê La Thành lấy đất làm nhà dân cư ngụ hai bên đường.
Thời xưa làng có ông đồ dạy chữ nho cho cả tổng. Lúc ông đồ mất, môn sinh kéo về chịu tang cả mấy trăm người. Số nhân khẩu của làng năm 1945 là 1000 người, thời nay dân số tăng gấp bội, số di dân đến cư ngụ khá đông. Cánh đồng làng xanh tươi đã mất từ lâu; làng đã thành đô thị hóa, nhà lầu cất lên nhan nhản, đời sống vật chất có nâng cao trong khi nếp phong hoá lại có chiều đi xuống rõ rệt.
Lần về thăm bà mẹ đau năm 2005, chàng có ghé thăm đình làng, nơi thờ Công chúa Châu Nương. Thăm đình như để tìm lại dấu vết ông cha mình khi xưa vẫn tới đây hội họp với các bô lão và chức sắc trong làng. Đó là thời còn phẩm oản quả chuối; chiếu trên chiếu dưới theo chức vụ và tuổi tác các kỳ mục. Họp hành, tế lễ, phân chia ruộng đất đều ở đây. Hội hè vui chơi cũng có, mà xung đột đổ máu cũng có vì nạn cường hào, chia chác ruộng đất không công bằng.
Qua xuân, ngày 11 tháng Hai là ngày sinh của bà Chúa Kho. Ngày này có lễ hội lớn không chỉ riêng trong làng mà chung cho cả địa phương xung quanh. Các làng xa gần: Kim Mã, Ngọc Khánh, Hào Nam, Vạn Phúc, Cống Vị, Ngọc Hà, Hữu Tiệp đều cử các viên chức nam nữ về dự lễ.
Các cô con gái Giảng Võ lấy chồng ở các làng trên cũng nhớ ngày về dự. Đôi khi người ở Nghệ An, Bắc Ninh về dự lễ đông đảo. Lễ hội có các trò vui dân gian: hát chèo, đánh cờ người, múa rối nước. Hồi nhỏ, chàng được coi múa rối nước trong ao đình, xung quanh bờ ao, hoa đại nở trắng tinh. Ngày nay lễ hội được tổ chức đơn giản vào ngày sinh, kể cả ngày mất của bà Chúa Kho Châu Nương, 20 tháng Bảy âm lịch.
Tới Cổng đình, chàng thấy một bà chặn lại hỏi:
-Anh Bình còn nhớ tôi không?
Chàng ngẩn mặt trong giây lát.
- Tôi là Lý, chị của Nụ đây.
Chàng nhớ ra rồi. Hồi chàng mới lớn, theo phong tục cũ, bố mẹ chàng muốn dạm hỏi cô Nụ, con gái một gia đình giàu có ở xóm đình. Đó là cái thời còn môn đăng hộ đối, cha mẹ kén chọn vợ tương lai cho con. Hồi đó con tim chàng còn ngây thơ. Mỗi lần cô Nụ có việc đi qua ngõ nhà mình thì chàng lại nhát không dám lại gần hỏi han, chỉ ngó nàng trong giây lát rồi để nàng biến mất. Những mối tình thơ ngây như thế ở làng cũng không hiếm, nên vợ nên chồng cũng có vài đám. Khi lớn lên, không hợp nhau thì lại chia tay. Trước, cha mẹ đặt đâu; con ngồi đấy. Bây giờ con ngồi đâu; cha mẹ theo đấy.
Chàng hỏi người chị vợ hờ:
- Cô Nụ bây giờ có mấy con rồi hả chị?
- Em nó có năm đứa. Có đứa ra đại học rồi.
- Chắc cô ấy không còn nhớ tôi đâu.
Chàng vừa nói dứt câu, bà Lý mỉm cười.
- Thỉnh thoảng chị em tôi còn nhắc đến anh. Có lần anh đi học về qua đình, cô ấy xui tôi ra kéo tay anh vào nhà chơi, thế mà anh lại vào. Nụ nó bạo hơn anh.
Ngày xưa trai trong làng có học hành là được các cô gái để mắt tới. Rồi thời gian trôi qua. Chàng ra Hà Nội học, không còn để ý đến Nụ nữa. Nghĩ lại chàng thấy ân hận để nàng thấp thỏm chờ đợi mãi mới chịu đi lấy chồng.
Trước khi quay đi, bà Lý an ủi chàng một câu:
-Chẳng qua là duyên số, anh đừng bận tâm đến chuyện cũ nhé.
Chàng bảo:
- Cho tôi gửi lời thăm cô Nụ.
- Được rồi. Tôi sẽ nói.
Bước vào sân đình, chàng thấy ngôi phương đình ở ngoài cùng bị đốt năm 1946, năm có tiêu thổ kháng chiến toàn quốc đã được xây lại theo đúng kiến trúc hồi xưa, nhà vuông, cột lim lớn, hai lớp mái cong trên, dưới đều có rồng chầu bốn góc, bên trong có treo hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng lộng lẫy.
Bước vào hậu cung, chàng thấy gian giữa thờ bà Chúa Kho, gian bên tả thờ nhị vị thân sinh ra bà, còn gian bên hữu thấy có tượng ông Hồ.
Chàng mới hỏi ông từ giữ đình, cũng là người trong họ ngoại:
- Hồi trước các cụ chỉ thờ vị Thành hoàng, sao bây giờ lại vẽ vời thế hả bác.
Ông từ có người em là cán bộ bộ đội đã nghỉ hưu, hiện là bí thư xã. Các chủ trương chính sách đều do đảng ủy xã đưa ra; ủy ban nhân dân xã chỉ có việc thi hành.
Ông ta nói nhỏ với chàng:
- Việc này là do trên đề xướng. Chẳng cứ ở làng mình mà nhiều xã khác người ta cũng thờ cả đây.
Chàng hiểu cái chế độ đảng ủy từ trên xuống dưới đã thâm nhập cả vào thánh thần ở đình chùa và tư gia. Chàng chưa kịp nói thì ông từ lật quyển sổ ghi tên khách thập phương đã tham gia đóng góp việc trùng tu ngôi đình.
- Đây anh coi, nhờ các vị hảo tâm mà đình được khang trang như hiện nay.
Chàng góp ý:
- Tôi ở xa về xin cúng chút đỉnh vào việc bảo tồn ngôi đình, dâng hương trước bà Chúa Kho, chứ không cúng cho ma vương lộn sòng đâu nhé. Làm như thế mất cả sự linh thiêng của Thành hoàng đã được vua chúa sắc phong và dân làng tôn kính từ bao đời nay.
Vừa nghe, ông từ vừa lấy cuốn biên lai ra ghi số tiền một trăm đô la của chàng trao. Ông vui vẻ nói:
- Cũng có người nêu ý kiến như anh đấy. Nhưng thôi, chúng tôi ghi nhận lòng thành của anh đối với quê hương bản quán. Dẫu sao anh còn có cái tình nghĩ đến đình. Chúng tôi chỉ làm công việc quản lý do ủy ban giao.
Lúc ấy có hai cô gái đến xin quẻ bài đoán vận mạng tình duyên gì đó. Ông từ quay ra tiếp khách để kiếm tiền từ quẻ bài in sẵn. Chàng chào ông ta ra về, trong lòng băn khoăn không biết đình chùa miếu mạo rồi sẽ đi về đâu dưới cái chế độ nhiễu nhương lắm thầy nhiều ma này.
Lúc về qua nhà ông chú họ, chàng thấy ông ta đứng ngoài cửa vẫy tay bảo chàng:
- Mới về hả. Vào đây chơi.
Chàng nhìn ông chú, cười nói:
- Chú còn mạnh lắm. Chưa đến nỗi nào.
Ông chú nheo mắt, buông giọng thật thà:
- Mạnh gì đâu, cỗ xe đã bị phế thải rồi.
Chàng thấy bên trong căn nhà lầu, đồ đạc khang trang, chẳng thiếu thứ gì, khen ông chú:
- Chú về hưu mà có căn nhà này là yên chí rồi. Ông chú nói ngay:
- Của vợ chồng con Thảo đấy. Lương hưu giám đốc của chú không đủ ăn vài bát phở thì làm gì có nhà. Ngừng một lát, ông chú nói:
- Làng hồi này có máu mặt nhờ một số gia đình có con cái đi xuất khẩu lao động gửi tiền về nhà mua sắm. Cũng có những đứa con gái lấy chồng Trung quốc, Đài Loan, Mỹ. Mắt xanh, mắt đen đủ cả. Sướng ít, khổ nhiều đấy anh ơi.
Nghĩ đến bức tranh của làng, chàng thấy nó là một melting pot hợp chủng. Bên trong những gia đình có những mâu thuẫn về màu da, quyền lợi và cuộc sống.
Chàng hỏi ông chú:
- Thế các em bây giờ làm gì?
Ông chú buồn rầu bảo:
- Được mỗi con Thảo làm cho thương nghiệp, còn thằng Văn coi như bỏ.
- Sao vậy?
Ông chú khựng lại trong giây lát rồi chậm rãi nói:
- Anh là người nhà tôi chẳng muốn giấu, chứ thằng Văn hư vì chơi với đám xã hội đen ở làng nên có lúc tôi muốn từ nó. Có lần nó lấy cả hột xoàn của bà ấy đem bán lấy tiền mua bạch phiến hít, rồi tổ chức lấy trộm xe máy bị bắt, may mà tôi quen anh trưởng công an nên nó thoát ở tù.
Rồi ông chú hỏi chàng:
- Anh có thấy cái hotel ở cạnh làng mình không?
-Cháu có thấy.
- Của con trai ông Đỗ Mười [2] đấy. Nhiều cô gái làm tiền ở trong đó.
- Thế công an có biện pháp gì không?
- Bắt đi bắt lại rồi đâu vẫn hoàn đấy.
- Thời buổi này, đồng đô la trên hết.
Nói xong, chàng đứng dậy chào ông chú ra về. Thêm một vấn đề xã hội để chàng suy nghĩ trong lúc đi trên con đường gạch quanh co trong xóm lúc này đã quen thuộc với chàng. Cái yêu, cái ghét, cái giàu, cái nghèo, cái được, cái không đã hiện rõ trong từng gia đình, cả cái tôn ti trật tự, cái giá trị cũ ở làng đã bị đảo lộn. Đó là tác hại của một đảng chuyên quyền.
Trở về nhà chú em, nơi chàng đang ở thăm. Bà mẹ nằm liệt trên chiếc phản có con cháu săn sóc hàng ngày. Tuổi già 94. Cụ chỉ uống sữa cầm hơi, không nói năng được. Nhưng tinh thần còn chút tỉnh táo. Đó là người phụ nữ đã trải qua thời kỳ thực dân, phong kiến và cộng sản, khổ cực nhiều hơn là hạnh phúc.
Bà con đến thăm, cụ chẳng nhận ra ai. Rồi ông thầy tướng số đến bấm xem ngày nào cụ có thể ra đi. Có bà đứng ngoài sân lâm râm khấn vái tứ phương ngũ hành, cầu xin cho cụ sớm ra đi. Vẫn còn cái dị đoan cổ hủ trong nếp sống của người phụ nữ trong làng.
Chiều hôm ấy, bên mâm cơm gia đình, anh chị em được dịp trò chuyện lai rai. Sau bao phen vật đổi sao dời, đây là những giờ phút đoàn tụ quý hiếm bên cạnh một bà mẹ suốt đời hy sinh cho con cái. Nói về sự chịu đựng, hy sinh của phụ nữ Việt Nam, chàng phải mượn thơ của Hồ Dzếnh để ca ngợi:
Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời,
Tôi sẽ nạm vàng muốn khổ cực,
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.
Đem nạm vàng muôn khổ cực chỉ là một ước muốn của nhà thơ để trân trọng những hy sinh của người phụ nữ lúc còn trẻ cũng như lúc về già.
Đây là bản lược kê các con cụ về phương diện kinh tế, xã hội mà chàng mới thâu thập được. Mấy chú em làm việc cho cơ quan nhà nước đều mập, có đồng ra đồng vào. Chú A đã về hưu, tậu thêm cái nhà cho con gái ở Hà Nội. Chú B đang giữ chức phó giám đốc, có thời kỳ béo bở, cuộc sống khá phong lưu. Chú C tậu nhà lầu ở Saigon cho cô vợ bé ở; hàng tháng chú bay đi bay về như con thoi. Con cái các nhà được ăn học đầy đủ, lần lượt vào đại học. Thời mở cửa có đứa lấy chồng Đài Loan bị lừa mất vốn làm ăn, có đứa lấy Mỹ chẳng được xu nào, rồi bị bỏ rơi. Cuộc sống cứ thế quay đều. Cũng sắp mãn cuộc cả rồi, sổ sách, lời lỗ có thể tính từ bây giờ. Nếu chỉ lấy mức trung bình thì như thế là tạm đủ, cũng cơm no, áo ấm, chức nọ, quyền kia, thậm chí có người tiền vào như nước. Nhưng cuộc sống còn thiếu một thứ thiết yếu mà thiên hạ đã được thụ hưởng từ lâu là tự do. Bao lâu đảng Cộng sản Việt Nam còn nắm độc quyền trị nước bằng điều 4 Hiến pháp thì vẫn chưa thể có tự do.
Sau lúc chuyện vãn với mấy chú em, chàng đi nằm được một lát thì nghe thấy tiếng người nói lao xao ở ngoài sân. Giờ đã quá nửa đêm. Chú C từ ngoài sân bước vào trong nhà gọi chàng dậy:
-Anh ra tiếp hai anh công an một chút.
Chàng không hiểu chuyện gì, vừa bước ra sân thì một anh công an nói:
- Chúng tôi đến yêu cầu anh khai báo tạm trú. Anh là người nước ngoài cần được bảo vệ!
Chàng cầm tờ khai tạm trú, điền tên và ký, xong trao lại cho anh công an. Hắn nói tiếp:
- Đáng lẽ việc này chủ hộ khẩu phải lo cho anh ngay khi anh mới tới.
Chàng nhớ mình đã khai địa chỉ tạm trú tại sân bay Nội Bài rồi. Nhưng đây là địa phương tạm trú thì chàng phải khai báo lại. Cũng chẳng sao.
- Khi đi tôi có phải khai báo không?
- Khỏi. Anh cứ đi.
Chàng để chú em tiếp chuyện với hai anh công an vì đã khuya, chàng còn đang ngái ngủ. Khi họ đi khỏi, chàng hỏi chú em:
- Có vấn đề gì không?
- Không. Đây chỉ là thủ tục thông thường. Có một anh công an ở làng này.
Chàng tự nhủ:
- Biết đâu họ muốn điều gì đó?
Chàng chưa có “lễ” cho họ hay có thể họ muốn theo dõi chàng nên nói khéo là để bảo vệ chàng. Chàng nghĩ lan man trước khi tìm giấc ngủ muộn trên mảnh đất cội nguồn của mình, mảnh đất mà dân chưa được làm chủ, nay lại thêm lắm thủ tục rườm rà tựa những rễ già, rễ non bám quanh cây đại thụ trên đình.
Sáng dậy, chú C pha cà phê mời chàng.
- Đêm qua anh ngủ được không?
Chàng lắc đầu bảo:
- Không ngủ được.
- Chắc lạ nhà?
- Có thể!
Chàng không muốn nhắc đến hình ảnh hai anh công an đêm qua. Hồi còn ở trại cải tạo miền Bắc thuộc thành phần tù nhân chính trị cũng như khi được trả về Saigon, chàng đã quá quen thuộc các công an áo vàng ăn chặn của tù, vòi vĩnh xin xỏ người đã được hoàn quyền công dân, vì Đảng thiếu chăm sóc họ.
Ý nghĩ của chàng đứt quãng khi thấy một con chim sẻ bỗng sà xuống sân gạch mổ miếng cơm nguội cạnh chậu rửa bát. Chàng nhớ ngày xưa nhà mình có đống rơm ở vườn sau. Sáng ra nắng hè đổ sớm, ông già ở làng bên cạnh đến đặt lưới, chờ cho bầy chim sẻ tới mổ các hột thóc còn sót dưới chân đống rơm là ông ta kéo sập cái lưới. Chim sống nhờ con giun, hạt thóc. Người lại sống nhờ chim. Đúng là trời sinh voi sinh cỏ.
Bây giờ cảnh ông già đặt lưới bẫy chim sau nhà đã thuộc về quá khứ mà lưới người thì luôn chực sẵn bên mình. Chắc chú em không thể đoán nổi cái ý nghĩ tiềm ẩn này trong đầu chàng.
Bỗng trời âm u. Chú em đi căng bạt ngoài sân để khách đến chơi khỏi ướt. Trận mưa đầu mùa trút nước xuống từng đợt không dứt. Cây cối trong vườn tươi tỉnh lại sau cơn mưa. Hương cau, hương ngâu dậy mùi thơm phảng phất trong không khí. Đến quá trưa, trời hửng nắng.
Xế chiều có ông chú trong họ tới thăm. Ông nguyên là đại úy bộ đội về hưu lâu năm, trước có phục vụ trong ngành chính trị bộ đội nên ông nói năng lưu loát, bộc trực. Theo kháng chiến từ năm 1945, cuối cùng ông cũng chỉ leo lên tới cấp Đại úy rồi thôi vì lý lịch của ông ghi đạo công giáo; mà cộng sản vô thần thì không chấp nhận tôn giáo.
Biết Bình đã từng làm báo, lại có lập trường chống Cộng, ông đi thẳng vào vấn đề:
- Cháu ở xa về thăm mẹ trong lúc lâm chung chắc có nhiều điều bối rối. Duy có điều chú muốn nói là xã hội này vẫn có giai cấp bóc lột. Còn bản thân chú không có đất để chôn! Giai cấp bóc lột đang đè đầu đè cổ nhân dân, làm giàu trên mồ hôi xương máu của nhân dân.
Câu chuyện xoay quanh vấn đề giai cấp thống trị trong xã hội đỏ hiện thời, và ông nói chí lý, chí tình. Điều đó không có gì ngạc nhiên cả.
Ngay từ thời Việt Minh đánh địa chủ năm 1953, người dân đói phải sống bằng chế độ tem phiếu thực phẩm nhỏ giọt kéo dài đến cuối năm 1990, sang thời kỳ đổi mới hiện nay, giai cấp cộng sản thông trị vẫn ngự trị và sống phè phởn trên nhân dân. Trong cuốn Tư Bản, Marx viết: Khi giai cấp vô sản đánh đổ giai cấp tư bản và tịch thu mọi phương tiện sản xuất của họ thì không còn giai cấp bóc lột.
Trong bản Tuyên ngôn Cộng sản do Marx và Engels viết năm 1847 có ghi: Những người cộng sản không có quyền lợi riêng tư và tách rời khỏi quyền lợi của giới Vô sản. Thế mà trong xã hội cộng sản hiện nay, nhà nước cho phép các cán bộ kinh doanh làm giàu, tạo thành một giai cấp kinh doanh bóc lột mà người dân gọi là tư bản đỏ. Giai cấp này không đại diện cho công nhân, nông dân là những người bị bóc lột một cách tinh vi từ trên nửa thế kỷ nay. Cứ nhìn cách họ chiếm đoạt đất đai, nhà cửa của dân, kể cả đất công là tài sản chung của xã hội thì đủ rõ bản chất tham lam của giai cấp bóc lột.
Nạn tham nhũng tràn lan các cấp, các ngành cũng là hình thức bóc lột dân. Cửa quyền và lòng tham không đáy đã làm cho bệnh tham nhũng thêm trầm kha. Nó lũng đoạn cả hệ thống cai trị khiến cho việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân trở thành vô nghĩa. Đơn từ khiếu nại của dân thường gặp các rắc rối hoặc không được giải quyết.
Người cộng sản đang lung túng trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa lắp ghép với kinh tế thị trường, trong khi mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp đang có cơ hội tái diễn. Chủ nghĩa cộng sản đã bị phá sản ngay từ trong giáo điều sách vở cho đến thực tế xã hội hiện nay.
Còn một điều ông chú nói chết không có đất chôn là sự thực đau lòng cho các người già bởi vì đất đai nông thôn đang bị thu hẹp và qui hoạch hóa thành đô thị, thành cơ sở kinh doanh của tư bản ngoại quốc, lấy đâu ra đất để chôn; mà muốn chôn thì dân nghèo không có tiền mua đất chôn mình.
Các ông bà lãnh đạo đảng và nhà nước lúc sống thì giầu sang, khi chết đã có nghĩa địa Mai Dịch nằm một mình một cõi, còn nhân dân phải gửi nắm xương tàn của mình lên tận Bất Bạt, Sơn Tây hoặc biến thành tro bụi rải đi bốn phương.
Trong lúc bà cụ nằm liệt giường gần hai chục ngày, một bà cụ thông gia quê ở Hà Tây tới ở nhà con rể vài ngày chờ đưa đám, thấy bà cụ còn tinh thì tỉ tê nói với chàng:
- Tôi muốn về nhà mà cậu ấy cứ bảo ở lại chờ lúc cụ đi. Về rồi lại phải lên. Thôi cứ bỏ sữa cho cụ đi sớm. Cụ còn uống sữa thì cụ còn tỉnh.
Một ông con giáo sư tiến sĩ về hưu cũng phụ họa:
-Để cụ uống nước rửa ruột thôi.
Bà cụ thông gia nói tiếp:
- Ở quê tôi có người bị bệnh ết (AIDS) còn đang ngắc ngoải thì người nhà đem ra đồng quây gạch lấp đất ông ạ.
Chàng ngạc nhiên nhìn bà cụ thông gia:
- Thế hả cụ.
- Vâng, họ chôn sống.
Chàng cau mày nhìn chú em tiến sĩ. Thà bà cụ thông gia thiếu suy nghĩ đã đành, một ông con trí thức lại muốn cắt đứt sớm sự sống của bà mẹ thì thật đau lòng. Thế nên chàng phản đối và nói với các cô em gái là cứ để cụ uống sữa trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời cụ.
Một tuần sau cụ mới ra đi thanh thản. Ba chục vòng hoa tươi theo chân cụ về nơi cát bụi, đất của tổ tiên được tạo dựng từ trên bốn ngàn năm, thời các vua Hùng. Có những đứa trẻ ở làng mới sinh ra vào lúc đó. Tre già, măng mọc. Mong sao các thế hệ sau được thấy niềm vui trong cuộc sống tự do và hạnh phúc thực sự, như những đóa hoa bốn mùa nở trên mặt đất quê hương.
Các cụ thường an ủi nhau: Sinh ký, tử quy. Một đời làm mẹ mà để lại tấm gương nhân đức cho con cháu và cho xã hội là một điều trân quý vô cùng.
Chú thích:
[1] Quan họ Trần, tước Thái bảo.
[2] Nguyên Tổng bí thư Đảng Cộng sản.