Chương II
Nắng như cầm lửa mà đổ xuống trên rừng núi Chư-lây. Dưới suối, nước đi trốn gần hết, dân làng phải dỡ từng hòn đá ra mới tìm được nước. Rẫy muốn cháy. Cây lúa cứ thấp lè tè, hột cứng ít, hột lép nhiều.
Thêm cái đói muối. Hũ muối nhà nào cũng ăn tới hột cuối cùng rồi. Hết muối phải đổ nước ngâm cái hũ một đêm rồi dốc ra lấy nước mặn mặn đó ăn với cơm. Bây giờ cái hũ cũng hết mặn. Con nít khóc, kêu mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ ơi, cho con cái mặn.
Mẹ cũng phải khóc. Nước da người nào cũng tái lét, bủng rẹt. Má con gái không còn màu đỏ. Hai ông già không có muối ăn, thở không nổi, ăn vào bao nhiêu, nôn ra bấy nhiêu, rồi chết…
Núp ngồi trên hòn đá, ba bốn lần muốn đứng dậy mà hai cái chân không chịu đứng dậy. Hai con mắt ngó nắng lâu, nhìn cái chi cũng vàng. Rồi thì mờ, không thấy gì nữa, muốn té nhào xuống. Núp cố hết sức, mở mắt ra. Nhưng tưởng là mở được rồi, kỳ thật vẫn chưa mở được. Chỉ thấy toàn màu đỏ, rồi màu trắng. Núp lại cố hết sức đứng dậy, nhưng hai chân nó đi đâu rồi, không phải là chân của Núp nữa. Cơn đói muối có khi nguôi đi, quên đi được một chút, bây giờ lại đến, dằn vặt, khổ sở, không biết làm sao cho hết được. Núp đã ăn no rồi, thế mà trong bụng vẫn đói, vẫn thấy thiếu, cồn cào. Chết rồi! Có ai lấy một cái dao tre cạo trong ruột Núp thế này! Đau quá, đau như rách mất ruột rồi. Giàng ơi! Thế này thì con nít, ông già, bà già, phụ nữ còn khổ bao nhiêu nữa!
Khi còn nhỏ, bok Thiêng đánh Pháp, làng Kông-hoa chạy trong núi một năm không có muối. Núp cũng đã bị đói muối một lần rồi. Con người như con ma, đi như cái bóng lộn với lá cây, với cỏ ở rẫy bỏ cao lút đầu người. Từ đó đến nay lâu hung rồi. Mấy chục năm không có đói muối. Trước Pháp cấm, nhưng lén lút đi đường trong núi, xuống mua người Kinh cũng được. Lần này từ khi bộ đội ông Dũng và anh Cầm về, Pháp đánh lung tung, đường nào cũng có Pháp đi, không còn đường đi mua muối được nữa. Tất cả các làng Ba-lang, Đê-ta, Kông-mi, Kông-ma, Kông-giàng, Hà-ro… đã chịu đi làm xâu cho Pháp lấy muối ăn rồi. Pháp bắt đặt chủ làng, bắt nộp thuế. Rồi Pháp cho thằng Chu Rú, chánh tổng ở làng Đê-ô đi nói tất cả các làng:
- Người Kông-hoa cứng đầu lắm. Tất cả các làng không ai được cho Kông-hoa muối ăn. Tôi thấy ai cho, nói Pháp giết hết. Để coi không có muối ăn, đầu người Kông-hoa có mềm bớt đi không.
Lời nói của thằng Chu Rú như gáo nước lạnh đổ trên đầu. Kông-hoa xôn xao. Giữa lúc đó, Pháp đi lùng, thanh niên đói muối phải chạy, Pháp bắt Nhinh và Công, bỏ tù ở Hà-tam, rồi cho người đi kêu Kông-hoa đầu hàng…
Núp nằm đêm không sao ngủ được. Con muỗi kêu vo vo, con trâu dưới nhà sàn đập cái đuôi. Nhắm mắt, thấy Nhinh và Công. Mở mắt ra muốn khóc. Nhinh và Công là hai thanh niên làm rẫy khá nhất trong làng. Tức quá, làm sao cứu Nhinh, cứu Công?
Lũ làng cứ thúc Núp, thúc bok Pa:
- Nè, người chủ tịch, người chỉ huy, để mất Nhinh, mất Công sao?
Mẹ Nhinh, mẹ Công khóc mãi. Núp thương Nhinh và Công quá, nhưng biết làm sao? Chịu về đi xâu để cứu? Không được đâu. Càng về làm xâu, càng chết nữa. Thôi, chắc phải chịu mất hai người rồi. Tức Pháp quá, muốn cầm cái ná đi bắn Pháp ngay…
Núp nhớ anh Cầm. Sao bộ đội, cán bộ không thấy lên. Bok Hồ còn ở Hà Nội không? Bok Hồ có biết làng Kông-hoa còn đánh Pháp không?
Con trâu lại quất cái đuôi, đuổi con muỗi bay kêu vo vo. Con nít đói muối, mẹ nó không có muối ăn cũng không có sữa cho nó bú, nửa đêm nó còn khóc… Ngủ không được nữa rồi. Núp trở dậy, đi ra cửa. Ngó lên trời, thấy nhiều ông sao lấp lánh, không có mặt trăng.
- Con đi đâu đó, Núp?
- Mẹ cũng chưa ngủ à? Con đi tìm bok Pa nói việc cứu Nhinh, cứu Công.
Bok Pa cũng chưa ngủ. Bok nói:
- Chắc phải về làm xâu phép, Núp ạ.
- Không được đâu. Về càng chết… Thà chết thôi. Pháp biết Kông-hoa nuôi bộ đội, làm cái kho, đánh Pháp rồi, về làm xâu Pháp bỏ tù, giết hết.
Nhưng năm người gia đình Nhinh và Công không chịu nghe Núp trốn về đầu Pháp. Đi được ba ngày, ngày thứ tư, ba người trở về, khóc to. Cả làng nghe cũng khóc theo:
- Pháp lấy dao cắt lỗ mũi, cắt lỗ tai, chặt tay, chết hết bốn người rồi, ba người sợ quá trốn về đây.
Núp nhắm mắt lại cho khỏi khóc, nhưng nước mắt cứ trào ra, ướt hết hai gò má:
- Tôi nói rồi, càng đầu Pháp càng chết.
… Bây giờ Núp ngồi trên hòn đá, nhớ Nhinh, nhớ Công, nhớ On, nhớ Ngai. Chết chôn ở đâu rồi? Chết không còn cái mũi, cái tai!
Tức quá. Cầm ná, đứng dậy, chân không run nữa, bứt cái lá ăn cho đắng miệng. Đi tìm lũ làng. Phải đánh thằng Pháp. Nhớ lời anh Cầm nói rồi: “Pháp tới đây cầm súng đánh mình để lấy đất nước mình, mình cũng phải cầm giáo, mác, cung, tên đánh lại nó mới lấy lại đất nước được. Không còn con đường nào khác”. Núp đi tìm lũ làng. Thằng Pháp, đất nước mày ở đâu, sao mày tới đây lấy đất nước Ba-na giết người Ba-na, không cho người Ba-na muối ăn, áo mặc, rẫy làm?
*
* *
- Bỏ làng Kông-hoa à?
- Bỏ làng Kông-hoa.
- Chạy đi đâu?
- Chạy vô trong núi Chư-lây. Núi Chư-lây có nhiều dốc, nhiều đá, nhiều cái hang, nhiều cây to. Làm làng ở đó. Pháp tới, đánh Pháp…
Núp chưa nói hết câu, từ hàng trăm cái miệng đã ba tháng nay không hề biết một hột muối, vang lên những lời phản đối hỗn độn, ồn ào, không còn rõ là tiếng người:
- Bỏ đất ông bà à? Đi đâu?
- Không có muối ăn, làm sao? Chân Núp thanh niên khỏe, Núp leo núi được. Chân tôi không có muối, không biết leo núi đâu.
- Ở đây thôi, không đi đâu cả!
Con nít khóc lên the thé.
- Đấy, con nít đấy, đem nó lên núi, chết trên đó, chôn nó trên đó à?
- Muối! Muối!… Không có muối!… Đi đâu?
Một giọng nói ồm ồm:
- Về làm xâu đi, Pháp cho muối ăn.
Tức thì, tất cả im bặt. Rồi một loạt lại nổi lên ồn ào không thể nghe ra cái gì cả:
- Cái gì? Ai nói đó?
- Đi xâu à?
- Đứa nào?
Cũng không biết ai nói nữa. Người vừa nói đã lẩn mất trong đám đông sôi nổi, ồn ào…
Núp đưa mắt nhìn bok Pa. Buổi sáng nay bok Pa đã bằng lòng với Núp: Phải chạy lên núi Chư-lây, làm làng mới. Bây giờ, cái đầu sói của ông già cũng lắc đi, lắc lại.
- Không được, không được… Muối!… Không có muối, Núp à!
Bok Sung cũng lắc đầu:
- Giàng không cho đi…
Bây giờ trừ Xíp, không còn ai đồng ý với Núp. Xíp lách đám đông tới đứng gần bên Núp. Con mắt hằm hằm. Núp để tay lên vai Xíp. Anh biết đứa nào đã nói đòi về làm xâu cho Pháp lúc nãy rồi: thằng Ung. Cha nó chết, để lại cho nó gần bảy mươi cái nồi đồng, mười bốn con trâu[16]. Bây giờ nhất định nó không dám đi lên núi, đánh Pháp. Lên núi thì mất hết các thứ đó. Ai khiêng nồi đi, dắt trâu cho…
Bốn phía, tiếng con nít đòi muối khóc ồn ào, tiếng bà già ông già chửi người xui bậy, tiếng thanh niên phản đối Núp nói to. Giải tán hết. Mỗi người đi một ngả.
Mẹ Núp, vợ Núp leo lên nhà sàn. Nắng rọi vô trong bếp. Mái nhà lòi từng miếng trời xanh to bằng hai, ba bàn tay. Mẹ Núp rút thêm một nhúm tranh trên mái nhà, thở dài:
- Ăn hết mái nhà.
Chị Liêu cầm nhúm tranh đốt cháy, bỏ vào một cái bát bể. Tranh cháy mau, cuộn tròn lại, rồi tan thành một thứ tro màu bạc đục, nhớp. Ba mẹ con xúm quanh, cầm củ mài chấm tro tranh, ăn. Hàng tháng nay, dân Kông-hoa phải ăn tro tranh thay muối. Tro tranh có một vị chát, hơi đắng, nồng nặc, khó chịu. Nuốt vào, từng hột tro mắc nghẽn ở cổ; nhưng có chút vị chát chát cũng đỡ nhớ muối. Lúc đầu đốt tro tranh ngoài rẫy ăn. Sau tìm ra tranh mái nhà ăn ngon hơn. Khắp làng Kông-hoa nhà nào cũng lũng mái. Ăn lần ăn hồi chắc hết cả mái nhà.
Ăn chưa hết bữa, Núp đã lầm lì bỏ đi. Mẹ nhìn theo, rồi nhìn Liêu. Núp đi đến tối cũng chưa về. Anh đi từng nhà, từng bếp. Tới đâu, Núp cũng chỉ nói một câu:
- Ăn tro tranh, khổ lắm. Tôi cũng biết khổ. Nhưng ăn tro tranh khổ một đời mình thôi. Còn ăn muối Pháp khổ hết đời mình, đời con mình khổ nữa, đời cháu mình khổ nữa…
Bây giờ đi lẻ tẻ từng bếp, không ai phản đối. Núp nói rồi, mọi người vẫn ngồi im, ráng nuốt một bụm tro tranh, nuốt không đi hết, phải nín hơi, nuốt nữa, mặt đỏ, gân ở cổ nổi lên…
Núp đi nói ba ngày. Ngày thứ hai có thêm bok Pa và Xíp đi. Ngày thứ ba có thêm bok Sung đi.
Ngày thứ tư, cả làng họp. Bok Pa đứng ra hỏi:
- Nhà ai Núp cũng nói nhiều rồi. Bây giờ có người muốn theo Núp, theo tôi, đốt cái làng này, chạy vô núi Chư-lây, tìm chỗ khác, đất cao hơn, tốt hơn, có đá, làm làng, đánh Pháp, chờ muối Bok Hồ. Có người muốn phân tán về các làng Ba-lang, Kông-mi, Đê-ta, Ta-lung đi làm xâu cho Pháp. Ai muốn đi vô núi Chư-lây?
Im lặng. Con chim phí đậu trên mái nhà rông ngơ ngác nhìn, rồi sợ hãi cất cánh bay vụt.
Một bàn tay già cằn cỗi, năm ngón xương xẩu, dài và gầy như một que củi khô, từ từ đưa lên: bok Sung. Hai người giơ tay: Xíp, bàn tay đen, gân guốc. Tiếng bok Sung nói, chậm rãi, lề rề:
- Tôi biết như anh Núp nói đấy: đi vô núi khổ lắm, nhưng cái bụng còn sướng. Đi làm xâu à? Không được. Làm xâu thì không khi nào gặp ông Dũng, anh Cầm, bộ đội Bok Hồ nữa… Kông-hoa không đi làm xâu đâu…
Ba, bốn, năm, sáu… người lần lượt giơ tay: mai Diêu, mai Du, em bé Tun, bok Sring, đê Hang… Tay đưa lên mỗi lúc một đông. Những bàn tay trắng và thon, những bàn tay đen và to. Đặc biệt có một bàn tay nhỏ xíu cố đưa lên thật cao, nhưng vẫn lút giữa đám tay mỗi lúc một đông, càng đông càng chắc chắn. Bàn tay nhỏ đó là của Tun.
Một loạt nói lên:
- Chúng tôi đi theo anh Núp.
Núp đếm: chín mươi người. Còn bốn mươi người không đưa tay, từ ngày mai sẽ phân tán vào các làng, chịu đi xâu cho Pháp.
Chín mươi người. Đi đầu là bok Pa. Họ mang rìu, rựa, gạo, một ít quần áo. Lên một dốc cao của dãy núi Chư-lây, tất cả dừng lại, nhìn xuống. Dưới chân núi, làng Kông-hoa đang bốc cháy. Chính họ đã tự đốt làng trước khi ra đi.
- Lửa ơi, mày ăn hết cái làng đi, đừng cho thằng Pháp tới ở đây…
Chiều sẩm, đi tới một con suối. Các ông già làng nói:
- Suối này tên là suối Bông-pra. Chỗ này tốt, giàng cho làm làng được, có chỗ coi Pháp, đi xa cũng thấy, đánh được Pháp.
Tất cả đặt gùi xuống. Núp đứng nhìn về phía làng cũ. Gió buổi chiều thổi lên mùi thơm của cây rau ban-lo trộn lẫn mùi đất ướt của những rẫy ven suối lớn Đất-hoa. Không hiểu sao, Núp nghe trong hai mí mắt ướt rồi hai dòng nước mắt khe khẽ len ra đuôi con mắt, chảy dài xuống, vòng quanh trên hai gò má đen sạm vì nắng, nhọn lên vì đói muối. Núp biết từ hôm nay làng Kông-hoa mới thật là bắt đầu chống Pháp, khó khăn, khổ sở đây. Chín mươi người đã theo Núp đốt làng leo núi lên tới chỗ này. Trước nay Núp thương lũ làng chưa nhiều, Núp làm việc chưa nhiều, bây giờ Núp phải thương lũ làng nhiều nữa, làm việc nhiều nữa…
[16] Người thượng du tính giàu nghèo bằng số trâu và nồi đồng.