Chương IV
Anh Ghíp ơi, hòn đá chạy rồi đó à?
Ghíp cười híp cả cặp mắt lồi:
- Không phải hòn đá nữa đâu, các chị à. Bây giờ tôi là cái gió rồi đấy. Đi đâu cũng đi trước mà, làm gì cũng làm trước mà. Làm lúa sớm đấy.
Ghíp vừa đi vừa hát, hai chân cứ múa lên, mái tóc quăn phất phơ bay theo gió, anh ta đeo một cái đờn gông trước bụng, năm ngón tay búng lia búng lịa: tưng từng tưng, tứng từng tưng…
Ai thấy Ghíp cũng cười. Năm nay Ghíp no rồi. Ghíp no được là nhờ làm lúa sớm đấy.
Từ ngày bị mưa sớm tháng tư và đói nặng ở Bông-pra, Núp nghĩ miết: hàng trăm năm nay, đời ông, đời cha kể lại, rồi đến đời Núp nữa, bao nhiêu trận đói, có khi chết hàng trăm người, có khi quét sạch cả một làng, phần lớn đều do mưa sớm hư rẫy mà ra cả. Nhưng cũng từ đời ông, đời cha đến nay, người Ba-na không bao giờ dám làm rẫy sớm trước tháng ba, tháng tư. Làm rẫy sớm giàng không cho, giàng bắt phải chết hết. Thà chịu đói còn hơn trái ý giàng. Núp nằm đêm không ngủ được.
- Giàng, sao giàng ghét người Ba-na thế? Sao giàng không ghét thằng Pháp? Thằng Pháp ác lắm kia mà?
Nghĩ mãi không ra. Một hôm Núp đi tìm bok Pa:
- Bok Pa, năm nay tôi muốn làm rẫy tháng giêng đấy.
Bok Pa mở to mắt nhìn Núp từ đầu đến chân:
- Thật không?… Núp nói sao? … Ô… Núp muốn giàng bắt chết à? Không được đâu, không được đâu! Giàng bắt Núp mất, ai coi chuyện đánh Pháp, Núp đừng làm bậy thế.
Núp biết không xong rồi, bok Pa là người khá nhất trong làng, nói cái gì cũng tốt. Bok không chịu thì không ai chịu nữa đâu.
Năm nay đói nữa rồi!
Trên trời mây cứ bay. Sao ông mây cứ mưa sớm tháng tư, ác thế. Đói nữa, đói nữa thì làm sao đánh được Pháp? Núp đốt lửa ngồi suốt đêm. Chị Liêu trằn trọc:
- Anh Núp không muốn đi ngủ à?
- Không đâu, đói nữa rồi, ngủ đi!
Chị Liêu nhìn chồng không hiểu gì cả. Không biết nói sao, Liêu ôm con vào lòng, cũng không thể nào ngủ được.
Núp khêu lửa lên. Tàn bay lả tả. Nhìn ra bên ngoài trời tối om. Mây cứ ùn lên, che kín tất cả các ông sao.
- Không được, không được!
Liêu giật mình, hoảng hốt:
- Anh nói gì thế, anh Núp?… Anh nói với ai thế?
Núp không trả lời. Anh nói như ra lệnh cho vợ:
- Liêu ngủ đi. Sáng mai dậy sớm nấu cơm tôi ăn. Tôi đi chặt rẫy…
- Mới tháng giêng, anh…
Núp gạt đi:
- Liêu đừng nói nữa, mai tôi đi đấy…
Sáng hôm sau, Núp đi làm rẫy thật. Mẹ khóc, nhưng chị Liêu thì đi theo chồng. Gặp bok Pa, bok cười hỏi:
- Đi đâu đấy? Không đi săn con nai à? Tháng giêng đi săn con nai tốt lắm đấy. Lá vàng này, con nai thích đi ăn trong rừng nhiều lắm đấy.
Núp dừng lại:
- Đi chặt cây làm rẫy thôi, bok Pa ạ. Không đi làm rẫy đói mãi, chắc có ngày cả Kông-hoa này kéo về theo Pháp hết thôi. Tôi đi làm trước, giàng có bắt, bắt tôi chết trước. Giàng cho sống thì sang năm cả làng làm rẫy sớm hết.
Bok Pa về bàn với bok Sung:
- Núp dại quá, chưa biết giàng chi cả, chắc bok phải cúng giàng cho nó, không thì nó chết mất.
Bok Sung lắc đầu, buồn rầu:
- Xin giàng cũng không cho đâu. Xưa nay không ai làm thế. Sao nó dại thế!
Bok Pa ngồi yên mãi, rồi nước mắt từ từ lăn trên hai gò má nhăn nheo, hai giọt nước mắt, bok không muốn chùi nữa:
- Núp thương lũ làng quá nên nó làm bậy thế… Núp ơi, tiếc mày quá!
Cả làng ai cũng tiếc Núp. Chỉ có Ghíp, cái thằng bướng đó, xưa nay có biết sợ giàng là gì đâu. Anh Núp cho nó gạo ăn, một tay nó cầm rựa, một tay nó cầm cái kèn đi theo anh Núp làm rẫy tháng giêng!
Nhưng Núp, Ghíp, Liêu, không ai chết cả. Năm đó mới cuối tháng ba, trời tệ quá, đổ mưa to lắm. Cả làng phải bỏ rẫy gần hết. Chỉ còn rẫy của Núp và Ghíp làm lúa sớm gặp mưa, tốt lắm, thu được hơn năm trăm gùi lúa[18]. Bữa cơm bữa cháo, cả làng ăn chung với Núp và Ghíp qua những ngày đói. Năm sau, Núp lại đi làm rẫy sớm. Bok Sung lại khóc:
- Giàng tha một lần, hai lần giàng không tha đâu.
Nhưng bok phải khóc cho cả làng, vì ai nấy đều đi theo Núp, làm rẫy tháng giêng cả rồi!
Năm nay làng no. Ghíp lại đánh đờn gông “tứng từng tưng, tứng từng tứng”, và đi theo anh Núp miết. Mẹ Ghíp nói:
- Mày muốn làm cái đuôi anh Núp phải không?
Ghíp cười:
- Thế mẹ không ưng no à?
- Sao lại không.
- Ưng no phải đi theo anh Núp, mẹ ạ.
Làng no…
Ngọn gió buổi chiều thổi qua các cây rừng, thổi từ dưới rẫy lên ngọn núi cao, có mang theo cái mùi thơm của lúa chín. Cái mùi thơm đó, con heo rừng biết được. Cái mũi nó nhúc nhích. Đã ba, bốn mùa nay rồi, con heo rừng không xuống rẫy làng Kông-hoa nữa. Lần cuối cùng nó xuống rẫy Kông-hoa, cách đây đã không biết mấy chục lần ông trăng sáng, nó không thấy có bóng người, cũng không nghe có tiếng đàn tơ-rưng nước! Nó chắc giống người Kông-hoa không còn nữa. Nó dùng hai cái nanh dài húc đổ một khoảng rào cao, nhảy vào trong rẫy. Nó tìm đi, tìm lại, nó “khịt! khịt!”, nó chạy quanh: rẫy không có một hột lúa nào nữa… từ đó nó bỏ đi, hết rừng này qua rừng khác, nó đói.
Nhưng bữa nay, nghe ngọn gió buổi chiều có hơi lúa thơm, nó đợi cho bóng tối từ trong các gốc cây to lan dần ra, trùm hết cả núi rừng, các ông sao trên trời cao sống dậy, nó lại mò xuống rẫy làng Kông-hoa…
Ghíp biết trước năm nay được mùa thế nào con heo rừng cũng xuống ăn lúa. Ghíp nói với anh Núp:
- Phải làm đờn tơ-rưng nước đuổi con heo rừng, anh Núp ạ.
Núp nói:
- Phải đấy, Ghíp có cái tay tốt, Ghíp làm nhé. Bày cho lũ thanh niên làm nữa. Làm cho nhiều cho vui thêm cái làng mình…
Đờn tơ-rưng nước cũng giống như đờn tơ-rưng thường, làm bằng nhiều ống tre lồ ô, cái dài, cái ngắn, khoét móp đi rất khéo, cột với nhau bằng dây rừng. Làm xong cái đờn, đem cột trên một hòn đá ngoài suối. Đầu cái đờn cột vào một hòn đá giữa suối, đuôi cái đờn cũng cột vào một hòn đá giữa suối, ngay chỗ nước suối đổ đứng thẳng xuống. Tất cả các ống tre dài, ngắn nằm theo chiều nước. Nước từ trên đổ xuống bồng cái đờn lên, cái ống tre dài bị nước đánh kêu “ung… ung…” Nước đổ xuống gặp hòn đá ở dưới, lại nhảy lên, đập vào các ống tre ngắn, kêu hay hơn tay người đánh đờn tơ-rưng. Nước đánh đờn tơ-rưng như thế suốt ngày đêm. Các con nước suối đều như Ghíp thế, đánh đờn không bao giờ biết mệt. Ghíp có khi bỏ ăn, ra ngồi bên suối, nghe con nước giỏi đánh đờn… Hễ có rẫy lúa chín là có đờn tơ-rưng nước. Con heo rừng sợ tiếng đờn đó. Suối nước vừa đánh đờn chơi, vừa giữ rẫy giùm cho mình. Ba, bốn mùa nay, lúa không mọc trên rẫy, con heo rừng không thèm đến, Ghíp đói, thanh niên đói cũng không đi coi cái đờn nữa. Nước bứt hết dây đờn, kéo mấy ống tre trôi lềnh bềnh về đến con sông Ba. Kông-hoa không có tiếng đờn tơ-rưng nữa…
Nhưng mùa này… tối hôm đó, con heo rừng mò xuống núi Chư-lây, bốn chân nó đi không đạp gãy một ngọn cỏ. Nó rình mò. Đến đầu ngọn suối, nó bỗng dừng lại. Trong đêm núi rừng thanh vắng, hai tai nó vểnh lên: nó nghe có tiếng suối đánh đờn. Cặp mắt đỏ như lửa của nó tự nhiên dịu xuống, nó ngơ ngác. Tiếng đờn mỗi lúc một dồn dập, mỗi lúc một cao. Tự nhiên im bặt. Rồi lại nổi lên, trầm trầm. Rồi nhanh. Rồi giục giã. Con heo rừng hoảng hốt: không, giống người Kông-hoa không chết, giống người Kông-hoa còn sống, còn đánh cái đờn giữ cái rẫy suốt đêm ngày, không cho nó vào phá cái rào ăn hột lúa chín. Nó quay lại, cặp mắt nó đột ngột xanh lè, nó phóc một cái, ù té chạy lên núi cao. Nó sợ người…
Con heo rừng đói bỏ chạy trong đêm đó gặp Ghíp giữa đường. Ghíp đang theo anh Núp vô núi tìm trái lô-pang.
Trái lô-pang trong núi nhiều như cỏ, thế mà lâu nay không ai biết. Anh Núp thấy người Kông-hoa ăn tro tranh lâu quá, người cứ teo lại. Anh đi mãi trong núi tìm thử có thứ gì ăn khá hơn không. Gặp lá gì cũng ăn thử. Có lần ăn trúng lá độc, mửa gần chết. Chị Liêu ôm đầu chồng, đổ nước cháo, khóc mãi. Tỉnh dậy, ít bữa, Núp lại đi tìm nữa. Sau cùng tìm được trái lô-pang, ăn hơi mặn, chan chát, đỡ hơn tro tranh nhiều. Núp tìm cây lô-pang về nuôi ở rẫy. Nó lớn lên, leo lên cột nhà rẫy. Buổi sáng nào đi ra rẫy, Núp cũng tới đứng xem nó lớn, múc nước suối mát đổ vào gốc cho nó uống. Bụng anh vui sướng quá! Trái lô-pang, có nó làng vui hơn nhiều lắm. Có khi tưởng ăn còn ngon hơn muối…
Ghíp lại theo anh Núp đi đánh giặc, một lần ở Lanh-lanh, một lần ở Xê-nga. Lần thứ nhất thanh niên giết được mười lăm thằng bằng ná và bẫy đá. Nhưng làng Lanh-lanh ở cao quá, xa rẫy quá, phải bỏ làng chạy tới núi Xê-nga.
Lần thứ hai ở Xê-nga, Pháp thấy bù nhìn rơm của Núp làm tưởng người thật, nó “văn-xê” lên bắt, bị trúng chông chết tám đứa nữa. Nhưng Xê-nga đất cũng xấu quá. Lũ làng lại muốn đi chỗ khác nữa rồi.
Con chim pơ-rơ-tơk lại kêu. Nghe tiếng nó, nhớ con suối Kông-hoa hiền lành chảy quanh co dưới chân núi, nhớ cái đất ở đó màu mỡ quá, nắm lên một nắm, bỏ xuống còn dính trong tay; nhớ bóng mát của cây xoài có con chim mẹ đút mồi cho chim con ăn buổi sáng. Trong bụng nảy lên ý muốn: đi về dưới đó. Núp ra đứng ở đầu làng, nghe gió từ dưới chân núi thổi lên. Anh cũng muốn đi về dưới đó. Bây giờ đi về được rồi. Biết làm nhiều chông rồi, chông ngắn chông dài, chông trên cây, “chông mưa”, biết làm mang cung bắn một lượt năm phát, biết làm bẫy đá không cần người giật, biết làm cả nhà giấu lúa, giấu người già, yếu. Bây giờ cần đất tốt hơn, ăn no hơn. Núp hỏi bok Pa, rồi hỏi lũ làng. Bằng lòng cả.
Ba năm lên núi cao, bây giờ chín mươi người Kông-hoa lại kéo trở xuống, về trên mảnh đất ông bà, làm lại làng, đánh giặc ngay ở đấy. Pháp đẩy Kông-hoa lên núi, Kông-hoa không chết trên đó. Bây giờ Kông-hoa trở về, đã mạnh hơn trước nhiều.
༺༒༻
Bàn tay bà cụ già nắm cái rựa cùn đẩy đi đẩy lại trên thanh tre lồ ô, chậm rãi, kiên nhẫn, lầm lì. Ngoài trời gió và mưa lất phất. Và đói muối, và giặc Pháp nữa luôn luôn uy hiếp. Nhưng nhất định, chắc chắn không có gì có thể ngăn cản nổi bàn tay già này chậm rãi, vót miết thanh tre lồ ô này thành cây chông nhọn được… Những cây chông chuốt sạch xong rồi, bà cụ xếp lại thành một đống bên chân. Bà cụ đặt thêm một cây vừa vót xong nữa vào đống chông đó, lấy bàn tay già vỗ vỗ lại cho đều, thở dài, rồi tay trái sờ soạng dưới sàn nhà, lấy lên một thanh tre lồ ô nữa, tay phải nắm chặt cái rựa cùn, lại kiên nhẫn đẩy đi, đẩy lại. Cây chông thứ bao nhiêu rồi, không còn nhớ nữa… Cái rựa cùn kì kà kì kèo như là mài trên miếng lồ ô. Mỗi khi bà cụ dừng lại, gian nhà im lặng, thì ở nhà bên cạnh, ở nhà bên cạnh nữa, vang lại cùng một thứ tiếng kì kà kì kèo nhẫn nại, âm thầm, chắc chắn đó. Nghe lời Núp, đêm nay cả làng ngồi vót chông. Ông già, bà già, trẻ con đều vót chông. Nửa đêm, Tun dẫn Ghíp và Xíp, vào từng nhà, thu tất cả chông đã vót xong, mang ra một gốc cây giữa rừng. Mưa đã tạnh. Ở gốc cây có một cái hũ đậy kín. Tun đứng đấy hồi lâu, nghe ngóng hướng gió thật kỹ rồi ba anh em ngồi về phía đầu gió, Tun giở nắp hũ ra. Trong ánh sáng mờ mờ, ba người lấy từng cây chông, cẩn thận đút vào trong hũ, nhúng vào nước mủ cây tang-nang. Những cây chông tẩm thuốc độc xong, Tun bỏ cả vào gùi, cẩn thận lắm. Anh Núp dặn đi dặn lại mãi. Anh chỉ vẽ cho Tun từ cách ngồi tránh hướng gió, cách cầm cây chông thế nào để tránh thuốc độc. Chỉ cần hơi mủ tang-nang tạt vào mặt là đã sưng cả mặt lên ít ngày rồi chết. Già làng ngăn mãi nhiều lần không được, anh Núp tức Pháp lắm, liều chết lắm, mới đi vô rừng lấy được mủ cây tang-nang về đây… Con gà khuya ngủ dậy nhớ mặt trời nó kêu: ò ó o! Nhưng mặt trời còn ngủ mê lắm. Đêm còn tối om. Ba anh em đi về.
Tun đi đầu. Năm nay Tun đã lớn rồi: từ khi đẻ nó ra đến nay, bok Pa tính đã làm được mười sáu cái rẫy[19]. Nó nhanh nhẹn, tay chân rất khỏe, cái cằm giống cha, hơi vuông, rắn rỏi. Nó đi theo anh Núp miết…
Ghíp đi sau cùng, trong bụng buồn lắm. Vụ này do Ghíp mà gây ra cả.
Từ khi làng trở về Kông-hoa, đánh hơn Pháp hai lần, làm ăn no, Pháp không lấy được lúa, không bắt được con heo, con trâu. Thanh niên chủ quan, không lo Pháp nữa. Nhất là Ghíp.
Ghíp hay nói:
- Con cọp trong rừng đánh nó chảy máu bốn năm lần, nó cũng phải sợ. Thằng Pháp nhất định không dám tới Kông-hoa nữa đâu.
Có bữa đang nói bô bô như thế, thoáng thấy anh Núp tới, Ghíp hoảng, bỏ đi. Nhưng anh Núp đi rồi, Ghíp lại khoa tay, múa chân nói như cũ. Cho đến cách đây mười ngày, Ghíp dẫn năm thanh niên đi gác. Ghíp cũng nói:
- Con cọp ở trong rừng đánh nó chảy máu bốn, năm lần…
Rồi dẫn cả năm người lên núi hái trái thiên tuế về nấu ăn. Không ngờ Pháp tới. Nó không dám vô làng, chỉ đi phá rẫy, bị trúng chông cũng nhiều, nhưng nó bắt được tám người: bà Hu mẹ Ghíp, chị Lã em vợ Núp, anh Dinh, anh An và bốn người già. Nó dẫn về đồn đánh nhiều lắm, bỏ tù, rồi kêu Kông-hoa về đầu hàng không thì nó giết cả tám. Lũ làng đòi về đầu Pháp để cứu tám người. Núp nói thế nào cũng không được. Sau cùng, phải để cho sáu bếp ba mươi người già, yếu, con nít, phụ nữ đi. Pháp bắt làm nhà ở chung với làng Hà-ro, rào dây thép gai bốn phía, cho lính của nó gác.
Bây giờ Ghíp đi trong đêm tối, phần nhớ mẹ, phần buồn vì lỗi của mình, hai con mắt đỏ ngầu. Mẹ ơi làm sao cứu mẹ ra? Mẹ có khóc không? Mẹ bây giờ ở chỗ nào rồi?
- Thôi mai mốt tôi không đi hái trái thiên tuế nữa đâu. Tôi đập bể cái đờn gông, tôi bứt dây cái đờn kơ-xi rồi. Mai mốt tôi đi gác miết, không cho Pháp tới làng nữa đâu…
Nhưng bây giờ mẹ ở trong đồn Pháp rồi, ba mươi tám người Kông-hoa ở trong đồn Pháp rồi. Ghíp muốn khóc quá, nhưng cứ nhớ con mắt anh Núp nhìn thì không dám khóc. Anh Núp không nói gì Ghíp cả. Sau bữa đó, anh nói chung với tất cả lũ thanh niên:
- Khi đánh giặc, họp tất cả lũ làng lại, lũ làng tin anh em thanh niên, lũ làng mới chịu đánh giặc. Anh em thanh niên hứa với lũ làng sao? Bây giờ làm sao?
Tất cả thanh niên cúi đầu xuống không nói gì. Ghíp tránh anh Núp mãi, không dám gặp mặt. Nhưng Núp lại đi tìm Ghíp. Anh không ngủ, con mắt đỏ kè. Anh nói:
- Đêm nay Ghíp đi với Tun, làm như Tun.
Như mấy bữa trước mà nói thế thì Ghíp đã đỏ lỗ tai lên rồi: “Sao lại đi theo Tun? Lớn thế này, đi theo con nít à?” Hôm nay Ghíp im lặng, chỉ nói:
- Anh Núp, tôi có lỗi…
Nhưng Núp đã gạt:
- Thôi, thôi… tôi đi ngay đây mà.
- Anh đi đâu?
- Đi tới đồn Hà-ro.
- Anh…
Nhưng Núp đã đi rồi.
Sao anh Núp lại đi tới đồn Hà-ro? Giàng ơi, Pháp bắt anh Núp nữa thì Ghíp có tội vô cùng.
༺༒༻
Buổi chiều ba mươi người Kông-hoa bỏ đi về Hà-ro chịu sống tập trung với Pháp, Núp đứng ở đầu làng nhìn theo cho đến sẩm tối, không nói được một tiếng nào.
Tối bữa đó, lần đầu tiên chị Liêu để ý thấy những nếp nhăn trên trán chồng. Chị ngồi vò đầu con, thằng Hờ Ru vân vê cái khố của nó.
Sáng hôm sau, Núp dậy thật sớm, cầm ná ra đi. Bok Pa hỏi:
- Đi đâu?
Núp nói:
- Mình cán bộ, đồng bào đi một bước mình cũng phải đi theo, bok ạ. Tôi nghĩ đêm khi hôm nhiều rồi. Tôi phải đi tới làng Hà-ro tìm cách lấy cho được lũ làng về. Tôi khỏe, đi xa được. Bok già, bok ở lại coi lũ làng…
Từ Kông-hoa đi Hà-ro một ngày đường. Tới Hà-ro Núp phải trốn ngoài núi. Thằng lính Pháp lâu lâu nó đi ra, đứng ngó, rồi đi vô đồn. Núp muốn nhảy tới, đánh chết nó. Nhưng thôi.
- Tao lấy hết được ba mươi tám người về rồi tao mới bắn mày.
Đêm xuống. Phải ngủ trong rừng. Đêm trong rừng có trăm, nghìn con mắt sáng ở dưới đất, ở trên cây. Nó nhìn Núp. Núp biết đó là những cái lá khô ban đêm nó thức dậy nhìn trời. Bok Sung nói thế. Nhưng có lúc, nhìn kỹ ngó như mắt con cọp. Lạnh từ ngôi sao trên trời chạy vô lỗ tai, rồi chạy ra sau lưng. Núp lùi lại sau một gốc cây to, đề phòng con cọp nhảy tới thì bắn ngay một phát. Nhưng con cọp nhìn mãi, đứng yên một chỗ. Một ngọn gió đi qua. Mắt cọp liếc qua liếc lại… Không phải con cọp, cái lá khô đấy thôi!
Nhưng khuya, có con cọp thiệt. Nó tanh quá. Núp lạnh cả mình. Thoáng một cái, Núp nghĩ tới khi nhỏ, một lần thấy người bị cọp vồ. Định chạy, nhưng chạy thì chết ngay. Bây giờ Núp không thể chết được. Trong người Núp tự nhiên dần dần nóng ran lên. Nhất định không chết. Núp ngồi im, nín thở. Con cọp chưa biết mình đâu… Tiếng lá sột soạt, sột soạt. Một cành cây khô gãy kêu “rắc”. Mùi tanh bớt đi. Lâu lắm. Con cọp đi chưa? Núp cúi xuống, lượm một hòn đá ném thử vào trong đêm. Không có tiếng động gì trả lời: con cọp đi rồi… Suốt đêm, đầu óc cứ phải căng thẳng, sẵn sàng chống lại bao nhiêu nguy hiểm có thể tới bất cứ lúc nào. Đến khi mệt quá gục xuống gốc cây, ngủ thiếp đi thì sao bắt đầu tắt từng cái một, gió lạnh buốt buổi sáng quấn quýt các gốc cây, xào xạc trong đám tranh.
Trời hửng sáng. Mừng quá. Buổi sáng người Thượng du thường đi ra núi. Thế nào cũng gặp người làng. Nhưng chờ mãi, vẫn không thấy. Đói quá, phải nhổ rau ăn. Trưa, Núp mò vào sát làng Hà-ro, nằm trong bụi. Cả làng im lặng. Hàng chục mái tranh say nắng đứng sững. Không thấy một người. Đến chiều đành phải ra núi ngủ một đêm nữa. Ngày thứ hai có một người trong làng đi ra rẫy. Núp ngồi trong bụi, nhìn rõ mặt, không phải người Kông-hoa. Đúng là người Hà-ro rồi. Năm năm nay, lần đầu tiên Núp thấy một người ở trong làng tập trung của Pháp. Người này còn trẻ, mặc khố rách, áo cũng rách, cổ đeo cái gì xanh xanh đỏ đỏ, nước da vàng tái, mắt nhìn xuống.
Đi ở với Pháp năm năm, chỉ được cái đeo trên cổ, còn áo quần, con người thì như thế đó.
Núp định ra chặn lại hỏi. Nhưng… có được không?… Nó có bắt mình nộp cho Pháp không?… Chắc không đâu, Pháp làm nó khổ thế này, bụng nó chắc không thương Pháp đâu.
Núp bước ra. Người Hà-ro giật mình quay lại nhìn Núp từ đầu đến chân, rồi quay gót, định chạy. Núp nói:
- Đừng chạy, tôi đây… người Kông-hoa mà… Ở trên núi mới xuống, định gặp anh…
Không ngờ người thanh niên nghe nói “Kông-hoa”, mặt tái mét, nhìn Núp sừng sững, lẩm bẩm:
- Ở trên núi xuống à?…
Thấy cái ná của Núp. Cặp mắt hoảng hốt. Anh vụt chạy.
Nguy rồi! Nó chạy về báo làng thì lộ hết. Núp phóc theo, cố sức đuổi. Hai ngày không ăn cơm, hai chân đuối, bốn năm lần muốn ngã chúi, đâm đầu vào đá. Cây hai bên đường cứ như lao vào trước mặt. Núp không còn thấy gì nữa. Nhưng cứ cắn răng chạy. Tới một con suối nhỏ, loạng choạng thấy cái áo của người thanh niên Hà-ro vụt qua, Núp nhảy ào xuống, chụp một cái, và nắm được cái khố.
- Tại sao chạy? Tại sao chạy?
Hai người đều thở, hổn hển, không ai nghe thấy tiếng của ai. Một hồi lâu, bớt ù tai, bớt hoa mắt, Núp mới thấy rõ người thanh niên nhìn Núp, van lơn, nói bấp búng trong miệng:
- Anh… anh đừng giết tôi… Pháp nó bắt tôi dẫn nó đi… cái bụng tôi có muốn đâu… anh… anh đừng giết…
Núp hiểu rồi. Một lằn gân tím nổi lên gần bên thái dương. Núp nắm chặt cổ tay anh thanh niên Hà-ro, nghẹn lên đến cổ:
- Thằng Pháp, mày ác đến thế đấy. Mày bắt người Hà-ro dẫn đường cho mày đi đánh làng Kông-hoa, rồi mày nói với người Hà-ro rằng người Kông-hoa thù người Hà-ro lắm, ghét người Hà-ro theo Pháp, muốn giết chết người Hà-ro ngay. Năm ngoái đã một lần người Hà-ro muốn cầm giáo lên đánh người Kông-hoa, cũng do miệng mày xui cả. Bây giờ gặp người Kông-hoa, người Hà-ro sợ hơn gặp mày. Sao miệng mày như con rắn độc xanh đầu thế?
Núp phải nói đến chiều, anh thanh niên Hà-ro mới hết sợ. Anh hứa về nói với ông chủ tịch cũ làng Hà-ro sáng mai ra gặp Núp ở rẫy. Người Hà-ro đi rồi. Núp định trở về Kông-hoa nhưng sợ sáng mai trở lại không kịp, không gặp được ông chủ tịch nên phải ở lại một đêm nữa trong rừng. Nửa đêm, nghe con voi đi ăn cả một bầy. Nó nhổ cây răng rắc, nó kêu ghê quá. Đêm trước Núp leo lên cây, đêm nay không dám nữa, phải rúc vào một hốc đá. Hơi đá lạnh thấm tới đốt xương trong lưng, tới chỗ sâu nhất trong ruột. Núp đút hai chân vào trong lá khô, nằm suy nghĩ. Cách đây hơn ba năm, Núp đã một lần để cho năm người Kông-hoa về đầu Pháp ở đồn Hà-ro. Lần đó Pháp giết mất bốn người. Lần này Núp lại để cho ba mươi người Kông-hoa về đầu Pháp nữa ở đồn này. Nhưng lần này không phải liều như lần trước. Lần này, Núp nhất định không để cho một thanh niên nào đi, ba mươi người toàn người già, phụ nữ. Lần này Núp nhất định phải bám theo sát ba mươi người, tìm hết cách lấy cho được ba mươi người này, và cả tám người bị bắt trước nữa, lấy về hết cho làng Kông-hoa. Làm sao lấy? Núp cũng chưa biết rõ. Nhưng nhất định là phải lấy cho được… Mong trời mau sáng nhưng sao đêm cứ dài. Gió thổi, rụng sương xuống lộp độp trên lá khô. Núp ngồi dậy, dựa lưng vào đá, đợi mãi. Nhưng cũng như hai đêm trước, khi trời rạng sáng thì Núp đã gục đầu lên đá ngủ thiếp đi. Một con chim bay sà xuống kêu lanh lảnh đánh thức Núp dậy. Mặt trời buổi sáng chói lọi…
Gần trưa, gặp ông chủ tịch cũ làng Hà-ro, trước đây có quen Núp. Thấy Núp ông dừng lại, bước tới hai bước, ba bước, rồi òa lên khóc:
- Khổ lắm, Núp ạ… khổ lắm. Người Hà-ro không muốn ở đây nữa… Khổ lắm, sao Núp còn cho ba mươi người Kông-hoa về đây làm chi?…
Núp cắn môi đến chảy máu, cố không khóc:
- Không phải tôi cho đâu, bok ạ… ba mươi người Kông-hoa hôm nay thế nào rồi, bok nói cho tôi biết. Tôi ở trên núi xuống đây, đường xa, đi hỏi tin đây…
Hai người ngồi sau một lùm cây sim, ở một góc rẫy xa đường đi. Núp chống tay lên gò má, ngồi nghe ông già kể chuyện làng Hà-ro, kể chuyện ba mươi tám người Kông-hoa mới bị tập trung. Giọng nói của ông già trầm trầm, đứt quãng. Ngón chân cái của Núp đạp mãi một hòn sỏi, móng chân ấn mạnh vào hòn sỏi cứng, muốn bật ra, rớm máu, Núp vẫn không biết đau. Mặt Núp màu tro xám. Nước mắt chảy vòng quanh trên gò má.
- Bok!… Bok đừng kể nữa.
Giọng nói của Núp run lên. Núp chùi nước mắt:
- Không, bok cứ kể nữa đi, tôi muốn nghe nữa, bok cứ nói đi.
Ông già lại chậm rãi kể nữa, kể mãi… Năm năm nay bây giờ Núp mới biết nỗi khổ của người Ba-na ở trong làng tập trung của Pháp rõ ràng như thế. Khi ở trên núi, nghe tin ở với Pháp có muối ăn, có áo mặc… Bây giờ thì rõ rồi. Có muối, có áo: đúng. Nhưng ai có? Cả làng Hà-ro bốn trăm người, chỉ gia đình người chủ làng có. Còn lũ làng đông thì sao? Muối cũng không có ăn, áo cũng không có mặc, Pháp không cho đi ra khỏi làng tập trung. Buổi sáng, cái đồng hồ của Pháp kêu tám tiếng, Pháp mới mở cửa làng cho đi ra rẫy, buổi chiều, đồng hồ của Pháp kêu năm tiếng, phải về hết, đóng cửa lại. Như con heo, như con trâu. Quanh năm, bất cứ lúc nào cũng bị kêu đi xâu. Pháp bỏ lên xe, chở đi tới đồn điền của Pháp ở Pơ-le-cu, Biển-hồ, Đất-đoa. Đi một tháng, hai tháng về đau nằm xuống, cỏ ngoài rẫy cao hơn lúa, đói. Con gái trong làng, lính Pháp lấy gần hết. Đến khi thả về, đau quặt quẹo. Có người xé váy thắt cổ lên cây xoài trong làng, tự tử. Thanh niên Pháp bắt đi lính, đưa đi Ban-mê-thuột, Kon-tum, Lâm-viên… Tháng trước nó nghi một người làng ra núi gặp “ông Minh”[20], nó bắt về, đánh gần chết rồi chặt đứt một bàn tay. Nó nói:
- Đứt một bàn tay cho nhớ, đừng theo ông Minh nữa…
Ông già không biết gì về tin tức ba mươi người Kông-hoa và tám người bị bắt. Chỉ thấy Pháp đang bắt làm nhà, ở chung với người Hà-ro. Pháp có cho một ít muối, nhưng không ai chịu lấy. Núp hỏi:
- Bây giờ tôi muốn gặp người Kông-hoa, bok có giúp tôi được không?
Ông già suy nghĩ lâu lắm. Sau cùng ông nắm tay Núp, nói:
- Được đấy. Chiều nay, gặp chỗ rẫy này nhé…
Suốt buổi trưa, Núp định tìm chỗ bóng cây kín ngủ một chút, nhưng không sao ngủ được. Núp lại bò vào sát làng Hà-ro. Nắng nổi màng màng trên làng xơ xác, nghèo nàn. Núp đứng dựa vào gốc cây, nhìn mãi. Nước mắt lại trào lên, nhoà hết hai con ngươi.
Buổi chiều, Núp đợi chỗ xa hơn, trèo lên một cây cao nhìn xuống rẫy. Thấy một người đi ra, đứng ở rẫy, ngó quanh quất, kêu:
- Núp ơi! Núp ơi!… ơ… Núp đâu? Núp ơi!…
Đúng là tiếng bà Hu rồi. Trong người Núp như lửa cháy. Núp tụt xuống cây, vỏ cây cà vào bụng, chảy máu ra mà không biết. Bà Hu ôm chặt lấy Núp.
- Thôi đừng khóc nữa, mí ạ… tôi muốn hỏi chuyện.
Nhưng bà Hu đã hỏi trước:
- Thằng Ghíp đâu rồi. Nó có bị Pháp bắn không? Hôm Pháp bắt tôi, nó chạy đuổi Pháp mãi. Sao nó không đi với anh?
- Không đâu, không đâu, nó mạnh lắm, tốt lắm, nó ở nhà coi lũ thanh niên làm chông đấy…
Bà Hu kể cho Núp biết tám người bị bắt, Pháp mới thả hai người. Pháp bắt ba mươi người Kông-hoa làm nhà ở chung với người Hà-ro. Nó phát gạo, muối. Người Kông-hoa lắc đầu, không lấy. Chỉ muốn chạy về Kông-hoa thôi.
- Còn Lã…
Bà Hu lại òa lên khóc nữa:
- Chị Lã bị Pháp hiếp, bây giờ nó còn giam trong đồn.
Núp đứng im rất lâu, nghẹn trong cổ không nói được gì cả.
Bà Hu ngồi xuống một hòn đá:
- Anh Núp ơi, muốn đi về ngay thôi, không ai muốn ở đây nữa hết. Mai mốt chắc thế nào cũng phải trốn đi. Ở trên núi không có muối ăn cũng chịu được. Ở đây… như Lã đấy…
Núp đứng một bên, đặt tay lên vai bà mẹ già. Núp nói chậm rãi:
- Chưa được, mí ạ. Bây giờ phải nói lũ làng cứ làm nhà, cứ lấy muối, lấy gạo của Pháp ăn đi. Để cho nó không biết gì cả. Khoan chạy đã. Khi nào chạy được tôi sẽ xuống dẫn chạy.
Đêm đó Núp trở về Kông-hoa, hẹn sáng ngày kia gặp nữa. Núp đi một đêm. Có khi nghe con cọp đuổi con mang chạy trong rừng. Nhưng Núp quên cả sợ, hai chân không biết mỏi, đi thật nhanh, thật nhanh. Núp nghĩ ra rồi. Phải nói ba mươi người kiên nhẫn chịu ở với Pháp ít lâu nữa. Pháp sẽ thả hết tám người. Núp sẽ tổ chức chạy hết… ý nghĩ dồn dập tới trong đầu. Pháp đuổi theo thì sao?… Phải đánh, phải cắm chông…
Về tới làng vừa sáng. Núp đi tìm bok Pa, bok Sung, Xíp ngay họp nhau bàn suốt buổi mai. Núp nói:
- Bây giờ tôi giao làng lại cho bok Pa, bok Sung coi giùm. Phải nói lũ làng làm cho thật nhiều chông, chông thuốc độc nữa, chuẩn bị kỹ. Còn tôi phải xuống ở sát làng Hà-ro nữa. Miệng Pháp còn nói nhiều cái độc lắm. Tôi phải ở đó ngày nào cũng bày cho lũ làng chống lại Pháp mới được.
… Chị Liêu chỉ kịp đổ vào gùi cho Núp năm bát bắp khô, một ít tro tranh và trái lô-pang, rồi ra đứng trên ngưỡng cửa nhìn theo chồng đi khuất vào trong lá cây xanh. Anh Núp đi quên nói cho Liêu biết bao giờ thì tỉa lúa được. Thôi, bữa nay chị tự đi hỏi bok Pa lấy thôi. Chị nói với mẹ:
- Con đi ra rẫy, mẹ ạ.
Bà mẹ ái ngại:
- Con không đợi Núp về à?
- Thôi, anh Núp còn đi lo việc đất nước nhiều, con đi làm trước cũng được…
Núp trở lại Hà-ro. Lần này bà Hu ra dẫn thêm chị Lã nữa, Pháp đã thả Lã và ba người nữa rồi, chỉ còn bỏ tù hai người. Lã gục đầu vào gốc cây, khóc. Núp đặt một bàn tay lên tóc Lã. Năm nay Lã mới mười tám tuổi. Núp muốn nói với Lã nhiều, nhưng không hiểu sao không nói được gì cả. Núp chỉ nghẹn ngào:
- Mắt Lã đừng khóc nữa, Lã ạ… Thế nào cũng đi thoát khỏi chỗ này.
*
* *
Trong làng Hà-ro. Trời mưa lâm râm. Đêm tối đen và có gió. Sáu người Hà-ro ngồi quanh một bếp lửa than. Không dám thổi to ngọn lên. Pháp trên đồn cấm đốt lửa. Thấy lửa nó bắn chết ngay. Mới ban ngày nóng, ban đêm sao lạnh ghê người. Chị Lã quấn chăn tới cổ, ngồi khui tàn than mãi. Ông già Sring thở dài:
- Rẫy trên núi Chư-lây, người trên núi Chư-lây chắc quên người dưới này rồi.
Ông già lại gục đầu xuống đầu gối, mái tóc bạc phơ. Lại thở dài nữa:
- Núi Chư-lây quên mình rồi… quên rồi… đúng đấy… nó nhớ mình làm gì nữa… Mình bỏ nó mình đi, bụng mình dại quá… Núp nó nói miết, bốn lần, năm lần không biết nghe… Đáng lắm rồi… Nó quên mình là phải đấy…
Những người ngồi xung quanh im lặng như không ai biết nói cả. Nhưng rồi sụt sùi, sụt sùi, ai khóc thế? Cả sáu người ngẩng lên nhìn nhau. Sáu người đều khóc.
Chị Lã muốn nói quá, cứ ức lên cổ. Nhưng, không biết có nên nói không?… Anh Núp không dặn phải giữ bí mật… Hay là anh Núp quên. Nói ra, có chuyện gì không?
Không giữ được nữa rồi. Lã khơi đi khơi lại một hòn than, nhìn chăm chăm trong lửa, rồi vén tóc lên, chị nói:
- Núi Chư-lây, suối Kông-hoa không quên mình đâu lũ làng ạ… Tôi nói… Không quên mình đâu…
Năm người đều quay lại nhìn Lã. Lã vẫn nói, như nói một mình:
- Không quên mình đâu… bây giờ đây… mưa này, gió này… vẫn ở ngoài rừng đấy… chờ mình đấy. Thương mình lắm.
Năm người cùng hỏi:
- Ai?… Ai ở ngoài rừng?
- Người trên núi Chư-lây xuống.
- Ai? Sao Lã không nói?… Lã nói ai thế?
Lã không giữ nổi nữa rồi. Chị òa lên khóc:
- Tôi nói… anh Núp đấy, lũ làng ạ… Từ bữa ba mươi người về đây, anh Núp đi theo miết, trốn ở ngoài rẫy ngoài rừng Hà-ro… hỏi tin mình, tìm cách cứu mình đấy.
- Lã gặp ở đâu?
Lã kể hết câu chuyên gặp Núp, những lời Núp dặn. Rồi tất cả sáu người giụi hết lửa đi, ngồi nói chuyện rì rầm trong bóng tối. Tối đen, nhưng cả sáu người đều biết mắt người nào cũng giàn giụa nước mắt.
Ông già Sring nói đi nói lại mãi:
- Lũ làng ạ, chúng ta có lỗi với Núp lắm… bây giờ phải nghe lời Núp dặn đấy… phải làm như bằng lòng ở với Pháp hết rồi đấy… mà không được nói với ai nữa cả. Pháp biết thì tôi… giết hết lũ làng.
Mấy ngày sau Pháp thả luôn hai người Kông-hoa bị bỏ tù. Thằng Chu Rú, chánh tổng ở đồn Pháp, nói:
- Lũ ba mươi tám người này cũng như con chuột chạy tới cùng cây sào rồi, không đi đâu nữa mà lo.
*
* *
Hai ngày hai đêm liền, tất cả người Kông-hoa còn lại ở làng đều làm chông. Bây giờ năm mươi người đã tập họp trước nhà rông. Bok Pa đứng lên nhìn quanh một lượt. Năm mươi người, năm mươi gùi, mỗi gùi bốn trăm cây chông thuốc độc. Bok Pa nói:
- Lũ làng đã nghe Núp nói chuyện người mình khổ ở làng Hà-ro đấy. Bây giờ phải đi cứu ba mươi tám người Kông-hoa về. Núp đi trước rồi. Mình phải đi cho mau tới nơi cho kịp, cắm chông cho giỏi đi thôi.
Bok chỉ nói chừng đó, rồi quay lưng đi ngay, năm mươi người đi theo. Họ đi thành một hàng dài nên người đi sau không thấy người đi trước. Chỉ thấy cái đầu lơ thơ mấy sợi tóc bạc của ông già Pa đi đầu.
*
* *
Trong bóng tối đen của làng Hà-ro có nhiều người đi đi lại lại, lăng xăng, rối rít lắm. Nhưng vẫn im lặng. Lâu lâu một người nào đánh rơi một cái nồi, một cái cuốc, kêu “keng”… Tất cả dừng lại, nín thở. Ba mươi mấy cặp mắt thao láo nhìn trong đêm tối. Trên đồn, thằng lính Pháp kéo cái súng lắc cắc, lắc cắc, hô “Ta-la!” Nhưng rồi, không có gì. Con chim ăn đêm không trông thấy vỗ cánh bay qua sát đầu. Người Hà-ro vẫn ngủ mê, chưa hay biết gì cả.
Bà Hu, chị Lã dẫn Núp đi khắp làng. Tới đâu cũng có những tiếng hỏi thì thầm:
- Anh Núp đấy à… Giàng ơi, anh Núp! Anh không quên người Kông-hoa bao giờ, anh Núp ơi, bụng anh tốt quá.
Rồi hai cánh tay ôm chầm lấy Núp. Và khóc. Núp gỡ hai cánh tay ra, nghe hơi thở, anh nhận ra được từng người: bok Sring, em Song, chị Hanh, chị Lê, chị Tung… Núp nói nhỏ:
- Thôi, đừng khóc nữa. Khóc người Hà-ro nghe thức dậy, Pháp biết thì lộ hết đấy… Tôi chưa tốt đâu, làm cán bộ để mất ba mươi tám người, tốt gì. Bây giờ phải im lặng, đi về được hết tới làng đủ cả ba mươi tám mới tốt…
Mọi người đã mang gùi đứng cả ở sân làng. Núp đếm một lần: ba mươi tư người. Đếm lại, cũng ba mươi tư người. Lần thứ ba, vẫn ba mươi tư người.
- Còn bốn người, ở đâu?
Trong bóng tối, lại xôn xao. Gọi nhau thật nhỏ:
- Song, mày có đó chưa?
- Hanh, mày có đó chưa?
- Lê. Đâu! Đâu! Đưa tay đây tao nắm thử nào…
Đúng rồi, thiếu bốn người: bốn cha con bok Ôi. Ông già đó có bà con ở làng Hà-ro. Bây giờ không muốn về, sợ Pháp đuổi theo bắn chết. Ông già ngồi trong góc nhà với ba đứa con. Núp nói thì thầm:
- Bok Ôi, mai mốt bok có muốn đi đánh làng Kông-hoa không?
Trong bếp còn một chút lửa than. Nó chiếu vào hai con mắt bok Ôi, hai con mắt như hai chấm lửa đỏ trong bóng tối.
- Núp nói gì? Núp bảo tôi muốn đi đánh người Kông-hoa. Ai nói với Núp thế. Tôi muốn giết chết người đó… Tôi đi đánh con tôi, cháu tôi à…
- Thế thì bok phải về đi thôi. Bok có nhớ mấy lần trước ai dẫn Pháp đi đánh làng Kông-hoa không? Người làng Hà-ro đấy. Có phải người làng Hà-ro muốn dẫn đi không? Không phải đâu, Pháp nó để cái súng sau lưng nên phải làm thế đấy. Bok là người làng Kông-hoa, biết đường, biết núi Kông-hoa, Pháp nó cũng để súng sau lưng, bok làm sao?…
Một người con bok Ôi đứng dậy nói:
- Cha… anh Núp nói… con muốn đi…
Tay bok Ôi nắm cái quai gùi, rồi thả ra, rồi nắm lại, rồi lại thả ra. Núp nhìn vào trong gùi: cuốc, xẻng, rìu, rựa, áo quần, đủ cả… Núp vừa bước xuống bậc thang cuối cùng thì trong nhà nghe cọt kẹt, cọt kẹt, rồi bok Ôi gọi:
- Anh Núp ơi… anh Núp… tôi đi đây… cả bốn người đây… Nhưng… Pháp nó đuổi theo không?
Núp cười nhìn ông già:
- Bok đưa tôi mang bớt cái gùi này cho… Không sợ đâu, bok ạ, có bok Pa dẫn người làng đi cắm chông ngăn đường nó rồi.
… Ba mươi tám người đã đi ra khỏi làng Hà-ro rồi. Hàng rào của Pháp, Núp đã cắt từ khi nào. Họ nhìn lên trời cao. Một cái ngôi sao ở xa lắm đang tụt dần xuống một đỉnh núi: đó là đỉnh núi Chư-lây. Ở chân núi đó có con suối Kông-hoa, có tiếng con nít mới đẻ khóc oe oe. Ở đó có làng Kông-hoa nghèo khổ, đốt đi làm lại không biết mấy lần rồi; nhưng cũng ở đó mới có vui, mới có tiếng đờn tơ-rưng của Ghíp, tiếng kèn đing-nam hoà lẫn với tiếng phụ nữ hát ở rẫy. Ở đó người làng biết thương yêu nhau, đùm bọc nhau; ở đó có rẫy lúa chín do anh Núp bày làm trước mùa bây giờ tươi tốt không biết bao nhiêu. Ở đó bây giờ kham khổ, nhưng nhất định rồi anh Cầm, bộ đội sẽ lên, sẽ sung sướng hơn bây giờ nhiều lắm. Năm năm chịu khổ đánh giặc, Kông-hoa mới được như vậy đó. Có đi sống tập trung gần một tháng ở Hà-ro, mới so sánh được như thế, mới thấy được như thế… Bok Ôi tự nhiên khóc. Muốn đi về Kông-hoa quá, đi mau lên, mau lên, mau cho tới con suối, cho tới cái làng. Dại quá, sao lúc nãy bok lại không muốn đi. Giàng ơi, nếu không có anh Núp nói thì bok không còn bao giờ được ăn trái xoài dưới gốc cây ở đầu làng Kông-hoa, cây xoài vẫn che bóng mát trên mái nhà của bok lâu nay…
Tảng sáng hôm sau, gặp năm mươi người của bok Pa dẫn ra đón. Mừng quá, chỉ biết ôm nhau, rồi thả ra, giục nhau:
- Thôi, đi mau lên, đi mau lên, về tới làng hãy nói chuyện…
Bok Sring và Xíp dẫn lũ làng đi về trước. Bok Pa, Núp, Ghíp, một số thanh niên ở lại sau, cắm chông đầy tất cả các đường đi về làng Kông-hoa. Đến trưa, súng nổ, Pháp đuổi theo, sáu thằng bị chông. Chúng phải kéo nhau về…
Làng Kông-hoa lại đủ mặt chín mươi người.
Đêm nay Núp bàn với bok Pa phải chuyển làng lần nữa. Chống với Pháp còn lâu còn dài. Xíp hỏi:
- Đánh Pháp đến khi nào mới thôi?
Núp nói:
- Đánh đến khi hơn Pháp, hết Pháp ở đất nước mình mới thôi. Đánh đời mình chưa xong, thì đánh đến đời con, đời cháu mình nữa.
[18] Một gùi tức là 20 kg.
[19] Mỗi rẫy là một năm.
[20] Ông Minh: tức Việt Minh.