← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ BA Chương I

Ở chính giữa rẫy, một nhúm lửa đốt lên từ bao giờ cháy bập bùng suốt đêm, không bắt lan rộng ra mà cũng không tắt. Núp ngồi hơ hai bàn tay lên lửa đó.

Đến năm nay, nhớ cho kỹ từ ngày cha mẹ sinh ra, Núp đã làm hơn ba mươi cái rẫy, tức là gần bốn mươi tuổi rồi. Nhưng chưa khi nào Núp gặp một mùa rẫy khó, khổ như thế này…

Lửa vẫn cháy bập bùng. Núp nhìn hai bàn tay mình. Hai bàn tay đều bê bết máu, máu quyện với mủ cây, với đất, với mồ hôi đen sạm từng mảng. Bây giờ không còn thấy đau nữa. Hai cánh tay mỏi rã rời, đến nỗi không biết là tay của mình nữa, tay của mình như rụng đi từ khi nào rồi.

Núp nhắm mắt lại. Anh thấy lửa cháy như trong một giấc mơ. Rồi hai lỗ tai tự nhiên nghe từ bốn phía trong rừng sâu và tối đen mù mịt vọng lại một thứ tiếng chan chát, đều đều, kiên nhẫn, như không bao giờ hết. Không phải tiếng chặt cây đâu. Tiếng rựa, tiếng rìu bổ vào gỗ nghe còn trong hơn sắc hơn. Tiếng này thì cành cạch tức tối. Tiếng gì thế? Hay là rừng đêm nó kêu như vậy?…

Nhưng Núp mở mắt choàng dậy. Suýt nữa thì gục đầu vào trong lửa. Anh nhìn lại hòn đá nhọn, to bằng cái đầu người để bên chân, vấy máu. Không, rừng khuya nó không kêu lên như thế đâu. Đó là tiếng lũ làng chặt cây bằng đá đấy…

Cách đây hai năm, từ khi bỏ làng Bông-pra lên núi cao hơn nữa, trong chín mươi gùi của người Kông-hoa chỉ còn vẻn vẹn mười hai cái rựa, tám cái rìu. Với chừng ấy rìu rựa, người Kông-hoa đã chặt biết bao nhiêu cây để phá sáu mươi cái rẫy trong hai năm trời. Rìu rựa mòn dần. Chạy làng mấy lượt cũng làm mất hết một số. Bây giờ chỉ còn có sáu cái rựa, năm cái rìu, đã đem làm của chung cả làng. Lũ làng phải chuyền tay nhau luân phiên từ bếp nhà này qua bếp nhà khác mà chặt. Chặt ban ngày không kịp, phải chặt cả ban đêm. Suốt đêm, suốt ngày, rìu rựa không nghỉ một chút nào. Người này chưa thả xuống đất, người khác đã giật lấy. Cầm được trong tay là ra sức mà chặt, chặt lấy, chặt để. Rồi giành nhau, cãi nhau, đánh nhau. Mỗi lần như thế lại phải đi tìm Núp đến hoà giải. Ghíp cãi nhau với bok Srip, Hanh cãi nhau với Cung, bok Ôi đánh thằng Song. Chỉ có Tun là không giành rìu rựa, không cãi nhau, đánh nhau với ai. Một bữa, nó đi vào trong núi, tìm được một hòn đá bằng con gà mái, đầu nhọn. Nó bê tới rẫy, rồi cứ ôm cả hòn đá, quay cái đầu nhọn mà bửa vào gốc cây. Vỏ cây bể tung toé ra. Cây chảy máu ròng ròng, móp dần, móp dần vào. Tối nó bê hòn đá về nhà, ném kềnh ra giữa sàn, nằm lủi xuống, không ăn, không uống, không nói nữa. Hai bàn tay nó lúc đầu chảy máu, sau bầm tím, sưng vù lên. Nó cắn răng, nước mắt chảy ròng ròng, nhưng nó không kêu một tiếng nào. Lũ làng vẫn thường nói:

- Thằng bé đó… gan nó là gan con cóc tía…

Ba ngày sau, hai tay hơi khá, nó lại bê hòn đá đi ra rẫy, chặt nữa, kỳ ngã cái cây to mới thôi. Gặp thanh niên, nó đạp một chân lên hòn đá, ngước mặt lên, hỏi:

- Các anh có muốn theo anh Núp không?

Thanh niên không hiểu, hỏi lại:

- Tun nói gì thế?

Nó nhìn thanh niên, mắt long lanh sáng, giống y như mắt cha nó:

- Muốn theo anh Núp phải cầm đá đi làm rẫy, rìu rựa phải để cho lũ người già.

Thanh niên cười bỏ đi. Nhưng ít ngày sau, rẫy nào cũng bắt đầu chặt cây bằng đá. Chặt ngày, chặt đêm…

Ban ngày Núp đi chặt cây ở rẫy mình. Ban đêm Núp đi chặt giúp rẫy cho người già, cho các bếp có người bị Pháp giết chết, có người góa, mồ côi. Đêm nay Núp chặt rẫy cho bà mẹ Thanh. Liêu đi chặt rẫy nhà thay Núp, Núp lắng tai nghe: phía suối Thi-om, phía rẫy của Núp, cũng vang một thứ tiếng đều đều, mỏi mệt, nhưng kéo dài kiên nhẫn. “Liêu chặt đến bây giờ vẫn chưa đi ngủ”.

Núp đứng thẳng dậy, nghe trong người dần dần nóng. Lũ làng chưa ai nghỉ cả, Liêu cũng chưa nghỉ, sao Núp lại nghỉ sớm thế này?… Nhưng lũ làng, Liêu ban ngày có chặt đâu, người chặt ban ngày thì ban đêm nghỉ, người chặt ban đêm thì ban ngày nghỉ… Không, Núp phải khác, Núp là cán bộ “phải làm nhiều, làm giỏi hơn và nói lũ làng làm theo”. Đêm nay Núp phải ngả cho được cây này… Núp lại ôm hòn đá, lấy hết sức bửa vào gốc cây, hai cái, ba cái… làm mãi, làm mãi, không nghỉ. Cho đến khi con gà thức giấc kêu ò ó o. Núp leo lên ngọn cây, cột một sợi dây rừng dài. Chờ mãi, được một cơn gió mạnh đi qua, Núp la to:

- Gió đẩy với tôi một tay nhé!

Rồi ra sức kéo. Cây gãy răng rắc, đổ ào xuống, ngọn cây phủ trùm lên đầu Núp, Núp đứng thở. Hàng trăm hàng ngàn cái lá tròn như không biết bao nhiêu bàn tay vỗ lên vai, lên lưng Núp, và nói rì rào rất thân mật: “Thôi, anh Núp về nghỉ đi, ngủ đi một chút. Trời sắp sáng rồi. Ngày mai còn đi làm rẫy nhà nữa chớ… Anh tốt lắm, anh Núp ạ…”

Khi Núp về tới nhà, Liêu đã ngủ rồi. Núp không đốt lửa chỉ se sẽ đến nằm bên vợ. Anh ôm thằng Hờ Ru vào lòng. Rồi anh nắm tay Liêu. Bàn tay của Liêu nhám sì, máu khô quặn lại. Núp kéo tấm vỏ cây đắp cho Liêu. Từ một năm nay Liêu không còn áo quần mặc phải quấn vỏ cây. Còn một cái áo rách vá trăm miếng. Liêu mặc cho con rồi. Núp vuốt tóc trên mặt Liêu. Máu ở tay anh làm ướt cả trán Liêu…

Núp có ngủ gì được đâu. Anh nằm thao thức mãi. Anh nghĩ tới chín mươi người đi theo anh từ ba năm nay, trèo lên núi Chư-lây rồi trèo xuống núi Chư-lây, mặc áo rách rồi mặc vỏ cây. Từ khi xuống núi Chư-lây, tưởng ở được yên ổn hơn, nhưng sau vụ Hà-ro lại phải chạy nữa, hai lần nữa rồi… Chín mươi người trong đó có cả mẹ anh, Liêu và Hờ Ru… Ba năm chờ bộ đội Bok Hồ, chờ anh Cầm, dài không biết bao nhiêu. Hòn đá dưới suối Đất-hoa trước kia nhọn, bây giờ nước đã mài tròn cả đầu nó rồi. Chín mươi người vẫn lầm lì đi theo Núp. Họ lấy cái bàn tay chảy máu mà chặt cây, tỉa bắp, mà cắm chông, đánh Pháp. Có khi khổ quá, Núp sợ người làng không chịu nổi được nữa. Chính Núp cũng như người mất sức nhiều lắm rồi, loạng choạng, muốn gục xuống. Những lúc đó, Núp đi hỏi dò từng người, người khá nhất, người kém nhất, người vừa vừa trong làng. Có khi Núp hỏi Liêu. Không ai trả lời thẳng với Núp cả. Đến Liêu cũng thế. Nhưng tất cả chỉ lặng lẽ đi làm và một bữa trên rẫy, khi lúa bắt đầu xanh, Núp nghe thấy tiếng lũ làng hát, tiếng Liêu hát. Những lúc đó, không có gì lay chuyển được Núp nữa. Núp vừa mừng vừa thương đến nghẹn ngào muốn khóc. Núp chặt một ngày gần hết một nửa rẫy, gấp đôi ngày thường.

Núp nắm chặt bàn tay Liêu rất lâu:

- Liêu ạ, tôi thương lũ làng như thương Liêu, thương mẹ, thương Hờ Ru. Tôi cũng thương mẹ, thương Liêu, thương Hờ Ru như thương lũ làng…

Trong đêm, bỗng nghe văng vẳng rồi mỗi lúc một rõ, có tiếng đờn kơ-xí - thứ đờn nhị réo rắt của Tây Nguyên. Tiếng đờn tình tứ, nhởn nhơ như cánh con bướm đó, Núp biết rõ là tiếng đờn của Ghíp.

Đã ba năm nay, mùa xuân không có đờn kơ-xí. Ba năm phải bứt hết dây đờn mài nhọn, đục lỗ làm kim may. Cho đến cách đây nửa tháng, Núp đi coi Pháp ở đường 19, thấy Pháp cột rất nhiều dây. Hỏi thăm lũ người trước đã bị Pháp bắt về Hà-ro, biết Pháp “a lô” vào dây đó, gọi nhau đi đánh mình. Núp ghét lắm, về dẫn năm thanh niên đi cắt năm gánh nặng, ném bốn gánh xuống hố, còn một gánh đem về làm kim. Ghíp thích quá, chạy theo Núp, xin một đoạn dài.

- Cho tôi làm cái đờn kơ-xí, anh Núp ạ.

Núp cười:

- Lấy bao nhiêu cũng được. Làm cho nhiều đờn. Ai cũng có hết, cho vui cái làng Kông-hoa…

Mùa xuân năm nay lại nghe tiếng đờn kơ-xí của Ghíp, các chị cười, nói:

- Anh Ghíp kéo đờn, con nai, con mang trong rừng nó cũng ra nghe đó…

Nghe tiếng đờn, không hiểu vì sao, trong bụng Núp nóng lên bừng bừng. Thương làng, thương Ghíp, thương Liêu… Núp quay sát vào Liêu, nước mắt của Núp chảy qua má Liêu, giàn giụa.

Liêu vẫn thở đều. Giấc ngủ ngon như giấc ngủ trẻ con.

༺༒༻

Những buổi trưa nắng cháy, làng xóm vắng tanh, thường nổi lên những cơn gió rất lạ. Gió cứ quay tròn rất mạnh, bao nhiêu rác rưởi, bao nhiêu lá khô, có khi cả những vật lớn như cái gùi, cái thúng cũng đều bị gió cuốn vào, xoay tròn cuống quýt và tung lên trời cao. Bok Sung gọi là “ma gió”.

Tin của bok Ôi đưa về thật như là ma gió, xoáy cả làng Kông-hoa. Hơn ba năm nay, khổ bao nhiêu cực bao nhiêu, Pháp đánh bao nhiêu lần, ăn tro, ăn măng le,… cũng không sao cả. Người Kông-hoa vẫn cắn răng chịu, nhất định thế nào cũng đến ngày bộ đội, cán bộ lên.

Thế nhưng lần này cả làng mất bình tĩnh: bok Ôi đi làm cá ở suối Đất-hoa chạy về hớt hơ hớt hải, kêu:

- Núp ơi… Núp đâu rồi? Anh Núp đâu rồi?

- Cái gì?

- Núp đâu rồi? Tôi hỏi Núp.

- Núp đi Kông-ka chưa về. Hỏi Núp làm gì? Có cái gì, cứ nói đi?

- Pháp…

- Pháp sao? Pháp đến à?

- Không, Pháp không đến… Pháp nói người Ba-lang, người Ba-lang nói lại tôi…

- Nói sao?

- Pháp nói… nói… khắp nơi đất nước mình, ai người đánh Pháp, ai người theo Bok Hồ, ở Hà Nội, ở Sài Gòn, bây giờ thua hết rồi… Bộ đội, cán bộ bị Pháp giết chết hết rồi… Bok Hồ cũng không còn nữa…

Tin của bok Ôi như một ông mây đen che phủ mặt trời. Đêm lũ thanh niên không họp ở nhà rông nữa. Trái bầu hết nước, lũ phụ nữ làm biếng đi ra suối lấy nước. Các ông già hai người, ba người ngồi nói chuyện rì rầm. Thanh niên đi tới, đứng sau lưng, lắng tai nghe. Bok Ôi sờ soạng cầm một que củi, nói:

- Lần này chắc hết người đất nước mình. Không bao giờ có muối, có rìu rựa nữa. Giàng ơi, chắc phải sống như người Hà-ro rồi. Sao đất nước mình khổ thế này!

Hai vai ông già rung lên, ông khóc như một đứa trẻ.

Bok Sung ngồi nhìn lửa chăm chăm. Bao nhiêu câu chuyện về núi sông, đất nước Ba-na, đất nước mình khắp nơi, Kinh, Thượng, như một dòng suối rì rào chảy qua trong đầu bok. Không, đất nước mình từ xưa cũng đã có người như ông Tú, như bok Ma-Trang-Lơn, như người thần ở núi Đê-lê-da[21]. Nhưng chưa thấy có ai như Bok Hồ, tốt như thế, thương nước như thế, nói được tất cả đất nước đứng lên đánh Pháp… Bok Sung lắc đầu, nói với mọi người:

- Không, không đâu! Người tốt như Bok Hồ, như bộ đội, như cán bộ, giàng không làm chết bao giờ đâu. Đừng nghe miệng Pháp.

Tun ngồi bên cạnh cha. Nó đốt lửa cháy to lên, rồi nó nói một mình:

- Tôi chờ anh Núp, phải hỏi anh Núp mới biết.

Cả làng đều thấy Tun nói đúng. Sáng hôm sau, bok Pa dậy thật sớm, cho thanh niên đi gác hết các ngả đường, sợ Pháp thế nào cũng đi lùng. Phải đi gác, chờ anh Núp về. Ngày sau, Núp về. Nghe tin, Núp lẳng lặng đi vào ngồi bên bếp lửa lạnh, và thấy mồ hôi chảy ướt mèm cả trán. Tun lo lắng đến ngồi bên Núp. Nó hỏi:

- Sao, anh Núp?

Núp để tay lên vai Tun:

- Không sao cả. Em chạy đi nói lũ làng chiều nay tới nhà rông nói chuyện.

Buổi chiều tất cả lũ làng đến đông đủ, trừ mấy người đi gác.

Núp hỏi:

- Ai nói tin đó?

- Người Ba-lang nói.

- Sao người Ba-lang biết?

- Đi xâu ở Hà-ro, nghe Pháp nói.

Núp đỏ ngầu con mắt, hỏi:

- Ai tin miệng Pháp?

Sao hôm nay Núp giống con beo thế. Lưng anh khoác một tấm vỏ cây kơ-đôn thay áo, vằn vện như da con thú dữ. Không ai nói gì cả. Tun thở dài, nhẹ nhõm đi một phần. Nó ngồi nhìn vào mắt anh Núp: ai đốt lửa trong đôi mắt ấy? Núp nói chậm rãi:

- Việc tốt, Pháp nói xấu. Việc xấu, Pháp nói tốt. Người Ba-na lâu nay biết rồi. Bok Hồ còn ở Hà Nội đánh Pháp, Bok Hồ không đi đâu xa. Bok Hồ còn, đất nước còn, bộ đội anh Cầm cũng còn. Lũ làng mình ở đây, Pháp đánh miết không nổi. Pháp làm sao đánh nổi Bok Hồ…

Những lời nói của Núp như một ngọn lửa cháy bập bùng, không lớn ngọn lắm, nhưng không có cách gì dập tắt nổi. Những lời đó, Núp nói với lũ làng, mà cũng là nói với chính mình.

Núp im lặng rất lâu, rồi nhìn bok Ôi, hỏi:

- Bok Ôi à, bok tin miệng Pháp hay tin miệng Bok Hồ hơn?

Bok Ôi lúng túng, hoảng hốt nhìn Núp rồi nhìn lũ làng. Thấy ai cũng nhìn mình, bok càng luống cuống:

- Không!… Anh Núp… sao anh nói thế… Tôi có nói gì đâu… miệng Bok Hồ người Ba-na nào không tin…

Núp nói:

- Ai dạy làm rẫy tốt, ai dạy đánh Pháp lâu, ai nói cán bộ người Kinh lên thương người Thượng như thế? Đều là Bok Hồ dạy cả. Có đúng không? Đều là đúng cả! Bok Hồ không nói bộ đội, cán bộ chết, sao lại nghe miệng Pháp mà sợ?…

Tất cả ngồi im. Cơn “ma gió” trong đầu đã dịu dần xuống, nhưng chưa phải đã tắt hẳn. Núp suy nghĩ mãi. Sau cùng, Núp nói nhỏ. Mọi người xúm xít lại gần nghe:

- Tôi đi Kông-ka về, gặp đê Khưu, người tốt ở Ba-lang, nghe nói… có người Kinh lên tới Ba-lang rồi, hỏi thăm làng Kông-hoa mình.

Lửa tàn xuống, chỉ còn cháy hoe hoe. Nhưng bao nhiêu cặp mắt màu hung sẫm còn sáng hơn lửa.

- Người Kinh đó bây giờ ở đâu?

- Có phải anh Cầm không?

- Phải đi gặp, anh Núp ạ…

- Tên gì?

- Có phải người Bok Hồ không?

- Có nghe tin gì nữa không?… Tin Bok Hồ…

Núp nói:

- Tôi nghĩ rồi, chưa đi gặp ngay được đâu. Không biết chừng Pháp cho một người Kinh theo nó giả làm cán bộ lên phỉnh mình ra rồi bắt… Chưa biết có phải là người Bok Hồ thiệt không…

Bok Pa bàn:

- Anh Núp ạ, Pháp như con cọp trong rừng, nó biết ngửi hơi người, nó rình kỹ lắm. Anh chưa nên đi đâu. Pháp bắt anh thì không ai coi làng…

Đêm đã khuya. Núp về nhà nằm xuống rồi, còn nghe bên nhà rông tiếng bok Sung nói chuyện. Không hiểu nghĩ thế nào, đêm nay bok Sung lại ngồi kể chuyện gươm ông Tú cho thanh niên nghe. Câu chuyện đã kể bao nhiêu lần rồi. Thế nhưng khi bok Sung đưa một ngón tay lên, hơi nghiêng đầu, bảo tất cả: “Im lặng… im lặng… nghe rõ không… đó là tiếng nước suối Thi-om… chảy qua làng ông Tú rồi chảy tới một con sông rất lớn không có bờ, người Kinh gọi là biển…” thì tất cả đều im lặng, mắt nhìn chăm chăm và trong đêm khuya nghe rõ ràng tiếng suối dạt dào, ngạc nhiên như mới nghe lần đầu.

Núp nghĩ liên miên. Người Kinh… người Kinh lên rồi sao? Ai thế he? Anh Cầm, ông Dũng?… Có phải thật là người Bok Hồ không? Hơn ba năm nay, càng ngày Núp càng hiểu chuyện gươm ông Tú. Mong mãi lưỡi gươm ông Tú, mong mãi người Kinh, người của Bok Hồ lên.

Bây giờ người Kinh đã lên ngoài núi. Ai he? Bok Pa nói cũng đúng, Núp chưa nên đi gặp người lạ này… Nhưng, Núp không đi thì ai đi? Có phải Bok Hồ cho người lên kêu Núp đây không? Bok Hồ kêu sao Núp không đi… Chắc Núp phải đi rồi. Đồng bào trông gặp người Kinh lắm. Núp là cán bộ, Núp phải đi trước.

Sáng hôm sau, Núp đi tới rừng Ba-lang. Có bốn thanh niên đi theo, trong đó có Ghíp, mang tên thuốc độc, ná tốt. Gặp Pháp muốn giả cán bộ bắt người Kông-hoa nhất định đánh.

༺༒༻

Núp đi gặp người Kinh ở Ba-lang đã về. Ghíp nói nhiều lắm. Ghíp tả người Kinh cho lũ làng nghe:

- Ô… người Kinh này tốt lắm. Cái mặt à? Cái mặt cũng hơi giống người Ba-na, khác có cái sẹo ở gần lỗ mũi, nghe nói bị thương đâu lâu rồi. Con mắt hiền lành, đen lắm. Ít nói… Ăn mặc à? Cái áo màu đen, thường thôi, không đẹp đâu. Đi dép làm bằng bánh xe lấy được của Pháp. Tóc ngắn lắm, chưa có râu.

Lũ làng hỏi người Kinh nói gì, Ghíp không trả lời:

- Cái đó để anh Núp nói.

Bok Pa hỏi:

- Tên là gì?

Núp nói:

- Tên là Thế. Đúng như Ghíp kể.

Ghíp sướng lắm:

- Đúng như tôi kể đấy.

Bok Pa lại hỏi:

- Có tin gì Bok Hồ không?

Tun hỏi:

- Bok Hồ còn ở Hà Nội chớ?

Núp lắc đầu, hơi cười:

- Không, Bok Hồ hết ở Hà Nội lâu rồi. Năm năm rồi…

Mọi người nhìn Núp sửng sốt:

- Sao? Bok Hồ không ở Hà Nội nữa sao? Pháp chiếm Hà Nội rồi sao?…

Núp thong thả nói tiếp:

- Bok Hồ đánh Pháp ở Hà Nội ít tháng, rồi Bok Hồ đi chỗ khác. Bây giờ Bok Hồ ở… Việt Bắc.

- Việt Bắc?… Việt Bắc à… Việt Bắc ở đất nước nào thế?

- Nghe anh Thế nói cũng ở đất nước mình. Có rừng, có núi cao, cao hơn núi Chư-lây nhiều. Đứng trên núi Việt Bắc, thấy toàn hết đất nước mình, Kinh, Thượng đều thấy rõ. Bok Hồ đứng trên hòn núi đó, chỉ huy cả nước đánh giặc…

- Thế à… Ô, tốt quá… Thế Việt Bắc ở phía nào?

Núp nhìn quanh, suy nghĩ, rồi đứng dậy đi ra cửa, quay về phía ông sao giống cái bánh lái của người Kinh, đưa tay chỉ vào trong đêm tối mờ mịt:

- Ở phía này…

Tất cả đều ra cửa nhìn. Gió từ phía đó thổi về. Ông sao bảy cái nhấp nhánh và rất sáng.

- Bok Hồ ở phía này.

“Phía này” có một ông sao quanh năm không bao giờ thay đổi chỗ ở. Sáu ông sao lớn chạy quanh ông sao đó. Ông sao đó đã mọc lên và không bao giờ lặn nữa trong lòng đồng bào Kông-hoa.

Gió thổi phần phật trên mặt mọi người. Núp nhớ một câu anh nói với lũ làng, mà cũng là nói với chính bụng anh cách đây mấy hôm: “Pháp không thắng nổi người Kông-hoa, làm sao thắng nổi Bok Hồ”. Đúng rồi, Bok Hồ chỉ huy cả nước, có biết bao nhiêu người như người Kông-hoa nữa, cũng đông như ông sao trên trời. Bok Hồ mạnh vô cùng…

Khi trở vào ngồi quanh bếp lửa, lũ làng hỏi:

- Còn tin gì nữa không?

Còn nhiều tin lắm. Anh Thế kể cho Núp nghe nhiều tin lắm, không nhớ hết. Nhớ bao nhiêu, kể lại bấy nhiêu.

Tin ở phía nam đường 19, người Ba-na bị Pháp tập trung ở Đất-bớt nổi dậy đốt làng của Pháp, chạy lên núi, làm làng mới, đánh Pháp như làng Kông-hoa ở đây. Tin ở phía bắc Tây Nguyên bộ đội Bok Hồ đánh lấy được đồn Kông-pơ-lông rồi, bắt người Pháp rất nhiều, lấy nhiều súng lớn, súng nhỏ. Tin ở dưới Kinh có bốn tỉnh Pháp không chiếm được, người Kinh dưới đó làm rìu rựa, muối, lúa nhiều gởi đi tất cả các nơi cho bộ đội đánh Pháp.

- Ô, tốt quá, tốt quá, sướng lắm rồi…

- Còn tin chỗ Việt Bắc, chỗ Bok Hồ sao?

- À, tin chỗ Việt Bắc, anh Thế kể bộ đội mình đánh Pháp thắng to nhất từ trước đến nay, có ba tỉnh trước bị Pháp lấy, bây giờ mình lấy lại hết, bắt một ngàn thằng Pháp, có hai thằng quan năm[22].

Càng nói, trong bụng Núp càng dạt dào sung sướng. Thế là hơn thằng Pháp rồi. Làng Kông-hoa hơn thằng Pháp, không phải chỉ hơn ở đây, mà còn ở khắp nơi nữa, ở Việt Bắc, ở Đất-bớt, ở dưới Kinh, ở Kông-pơ-lông…

Mãi đến khuya lắm mới tắt lửa. Núp ra về tới cầu thang, thì nghe tiếng mẹ hỏi:

- Sao anh Thế không về Kông-hoa cho người làng thấy mặt?

Núp dừng lại. Anh nói:

- Con chưa cho về.

- Sao thế?

Vì cũng chưa biết chắc có phải người Bok Hồ thiệt không. Mới coi một lần chưa rõ. Để mai mốt phải đi coi lại kỹ nữa.

Mọi người đều thấy Núp nói đúng. Nhưng ai cũng muốn mau thấy mặt anh Thế.

Đêm nay bà mẹ Núp lại không ngủ được nữa rồi. Núp cũng không ngủ, Núp nằm nghĩ tới anh Thế bây giờ ở ngoài rừng. Làng Ba-lang chỉ có Xá và Khưu tốt nhiều, còn lũ làng nhiều người nghe theo Pháp lâu rồi, Núp không dám để cho anh Thế ở Ba-lang. Nhưng Núp cũng không thể cho anh Thế về Kông-hoa ngay được.

Từ khi Kông-hoa phá tập trung của Pháp ở Hà-ro chạy về làm làng mới, Pháp càng đi lùng riết. Có khi năm trăm, có khi một ngàn tên, súng lớn, máy bay. Lần nào thanh niên Kông-hoa cũng đánh chết được Pháp nhưng rồi cũng phải đốt làng chạy nữa. Khi trước đã ra khỏi chân núi Chư-lây khá xa, bây giờ càng ngày càng phải lùi dần trở vào sát chân núi. Làng Kông-hoa từ đó có một kỷ luật giữ bí mật rất cao. Chung quanh làng cắm chông như dao mọc, đi một ngày đường cũng chưa hết chông. Dưới suối cũng có chông, trên cây cũng có chông. Chỉ có người Kông-hoa biết những con đường ra vào bí mật. Người ngoài làng muốn đến Kông-hoa phải có Núp coi đi coi lại năm lần, mười lượt, biết là người thiệt tốt, muốn đánh Pháp, Pháp đánh không khai, Pháp bắt dẫn đi tìm Kông-hoa không đi, bấy giờ mới tự tay Núp dẫn vào. Đi không có Núp dẫn thế nào cũng bị trúng chông.

Hôm qua, ngồi nói chuyện với anh Thế xong, anh Thế nói:

- Anh đi về Kông-hoa cho tôi đi theo. Tôi muốn thấy mặt người Kông-hoa, thăm cho biết.

Núp nói:

- Anh đi theo tôi không được đâu. Con đường tôi đi xấu lắm. Hòn đá to, cái dốc cao, con cọp nhiều, con voi nhiều, con vắt cắn chảy máu. Mai mốt người Kông-hoa làm đường tốt, anh tới biết mặt người Kông-hoa sau cũng được.

Thế nhìn cặp mắt to màu nâu sẫm của Núp, nhớ lại những điều Núp đã nói với anh từ sáng đến giờ, rất tha thiết, nhưng không tài nào khơi được một chút bí mật gì về đặc điểm, dân số, vũ khí của Kông-hoa. Thế biết rõ con người đó rồi, anh không nài thêm nữa…

Không ngủ được nửa đêm Núp trở dậy, ngồi dựa lưng vào tường, hai mắt mở thao láo, nhìn trong bóng tối. Những điều anh Thế nói với Núp buổi sáng nay cứ chờn vờn trong óc mãi. Núp nhớ anh Cầm. Anh Cầm khi đi về dưới Kinh chắc còn rất nhiều điều chưa nói được với Núp. Nếu trong hơn ba năm qua có anh Cầm ở đây, giúp đỡ thêm thì chắc Kông-hoa còn khá hơn nhiều. Bây giờ có anh Thế lên rồi. Chắc anh Thế còn nói cho Núp biết thêm nhiều cái hay, cái tốt nữa, biết thêm cách đánh Pháp thế nào cho hơn nhiều nữa. Núp nhớ lại ngày khởi nghĩa đi An-khê làm lễ, bữa đó lần đầu tiên Núp biết làng Kông-hoa như dòng suối nhỏ, khắp đất nước mình có bao nhiêu dòng suối nữa chảy chung về con sông lớn. Hơn ba năm nay, con suối Kông-hoa bị đứt riêng ra mất. Bây giờ có anh Thế lên, Núp lại được biết tất cả các con suối trên đất nước mình ở Đất-bớt, ở Kông-pơ-lông, ở Việt Bắc, ở Kinh, ở đâu đâu cũng chảy đều, chảy mạnh. Con suối Kông-hoa bây giờ bắt được dòng rồi, đêm nay hình như cũng chảy dạt dào hơn. Trong bụng Núp bây giờ cũng như con suối đó…

Núp đứng dậy, đi ra cửa, nhìn trên trời. Ngó ông sao phía Bok Hồ, rồi ngó xuống phía Kinh, mây ùn lên che mất nhiều ông sao. Rồi mưa lác đác. Nghe có tiếng chân người sau lưng, quay lại, thấy mẹ:

- Mẹ chưa ngủ à?

- Chưa… Núp ạ, chắc anh Thế ướt hết.

Núp cũng vừa nghĩ thế, mẹ nói:

- Con đem anh Thế về đi… sao con không thương người Kinh.

Núp nhìn mẹ, lắc đầu:

- Chưa được đâu, mẹ ạ… Để mai con tới rừng Ba-lang, làm một cái nhà nhỏ cho anh Thế ở đó tạm.

༺༒༻

Núp ngồi trong chòi anh Thế, giữa rừng Ba-lang, bên cạnh Xá. Núp nhớ lại hơn mười năm trước đây, đi qua con suối Đất-hoa, xuống coi Pháp ở An-khê, Núp gặp một ông già áo khố bị Pháp thả bom cháy cả, phải đeo một miếng vỏ cây trước bụng. Ông già cõng một đứa bé; cha mẹ vừa bị Pháp đánh, về đau rồi chết… Từ đó đến nay đã mười lăm năm. Đứa bé đó bây giờ đã lớn lên rồi. Nó đen như một hòn than, tóc bù xù không làm tối được đôi mắt rất sáng. Khi nó nói chuyện Pháp nó như một con beo con, gầm gừ, dữ tợn. Đứa bé đó trùng tên với em Núp. Nó là Xá ngày nay đấy.

Xá lớn lên ở Ba-lang. Năm mười tuổi, Xá theo lũ làng đi làm xâu cho Pháp. Pháp đánh, Xá chửi lại rồi bỏ chạy trốn vào núi. Năm mười hai tuổi, nghe ở làng Kông-hoa có anh Núp đánh Pháp, Xá muốn đi tìm mà không biết ở đâu. Xá hỏi anh Khưu là người khá nhất trong làng Ba-lang. Anh Khưu nói:

- Làng Kông-hoa có đê Núp đánh Pháp tốt lắm.

Xá hỏi:

- Thế sao anh Khưu không theo anh Núp đánh Pháp.

Khưu vò đầu đứa con gái nhỏ của anh, nói:

- Tôi còn cha, còn mẹ, còn đứa con gái này, cái chân còn nặng lắm, không bỏ làng đi được. Đi theo anh Núp thì phải khổ. Con tôi chịu khổ lắm không nổi…

Từ khi có anh Thế lên ở ngoài rừng, bắt liên lạc với anh Khưu, Xá theo anh Khưu ra rừng gặp anh Thế, rồi theo miết anh Thế, không muốn rời. Năm nay Xá mười tám tuổi rồi. Xá làm liên lạc giữa anh Núp và anh Thế từ một tháng nay. Cả làng Ba-lang chỉ có một mình Xá được anh Núp chỉ cho biết con đường bí mật vào làng Kông-hoa. Xá không được nói lại với ai, cả với anh Thế nữa. Anh Thế ở một cái chòi ngoài rừng, có gì cần gặp anh Núp thì Xá đi kêu, có gì cần nói anh Núp thì Xá đi nói giùm… Buổi sáng nay, anh Thế nhờ Xá đi kêu anh Núp. Xá đi rất nhanh, bây giờ dẫn anh Núp về đến chòi anh Thế ở đây. Anh Núp ngồi bên cạnh Xá. Xá mở một quyển sổ nhỏ, tay cầm cây viết chì tô theo các nét chữ anh Thế mới phóng cho chiều hôm qua. Núp chống tay lên cằm, ngồi nhìn tay Xá chăm chú. Đợi Xá run run tô xong một vòng tròn trên giấy, Núp hỏi:

- Xá à, anh Thế bày lâu chưa mà Xá làm được cái chữ đấy.

Xá ngước lên cười:

- Bày năm ngày rồi, tôi biết chậm quá mà.

Anh Thế đang cúi tìm cái gì trong một cái túi vải, không ngẩng lên, nói:

- Không chậm đâu. Xá học thế nhanh đấy. Học hai tháng nữa đọc được cái giấy đấy…

Núp lại ngồi nhìn Xá. Anh nhớ lại những ngày tuổi trẻ của mình. Trong bụng vừa mừng, vừa thương Xá, thương anh Thế. Anh Thế nói:

- Mai mốt anh Núp cũng học chữ nhé.

Núp cười:

- Tôi già rồi, không học chữ được đâu, học đánh Pháp thôi.

Từ một tháng nay, cứ ba ngày, năm ngày Núp lại đi đến rừng Ba-lang gặp anh Thế một lần. Càng ngày Núp càng thấy anh Thế giống anh Cầm ngày trước, càng thấy trong bụng mến anh Thế hơn. Mỗi ngày Núp nói cho anh Thế biết thêm một ít tình hình làng Kông-hoa. Mỗi lần gặp nhau nói chuyện, anh Thế cũng bày cho Núp thêm được nhiều điều mới. Núp nghe lời anh Thế, đã nói được lũ làng chịu làm rẫy chung. Mấy năm trước chưa biết, chỉ người nào cặm cụi làm rẫy người nấy, người mạnh thì đủ ăn no, người già, yếu, goá, mồ côi, một mình không làm nổi, cuối năm đói, lũ làng phải chung gạo, chung bắp lại giúp. Bây giờ biết tập trung lại hết, chia ra từng tốp làm chung, tốp nào cũng có người mạnh người yếu. Hôm nay kéo hết tới chặt cây đốt rẫy cho bếp này, ngày mai lại kéo hết tới chặt cây đốt rẫy cho bếp khác. Làm rất mau, rẫy nào cũng tốt, cuối năm nay chắc bếp nào cũng dư ăn. Trong làng có việc chi khó, Núp đi tìm hỏi, anh Thế đều bày cho làm được tốt hết cả.

Núp vẫn ngồi im nhìn Xá cặm cụi viết, rồi quay lại nhìn anh Thế. Xá bây giờ quấn quýt lấy anh Thế, ban đêm cũng ở ngoài rừng ngủ chung, ban ngày đi tìm được con ốc, con cua, con cá dưới suối cũng đem cho anh Thế. Núp nghĩ tới lũ làng cứ thúc Núp: “Dẫn anh Thế về đi, sao Núp để lâu thế”. Thôi, lần này, tỉa lúa xong, làng hết cữ, anh Thế được về Kông-hoa cho lũ làng thấy mặt rồi đấy.

Trong bụng nghĩ vậy, nhưng chưa nói gì cho anh Thế biết cả.

Anh Thế rủ Núp ra ngồi dưới một gốc cây kơ-pông rất lớn. Cành cây to và dài, lá chùm gửi mọc dày, ngó như cánh tay một con vượn rất lớn đưa sà xuống, muốn nhúng hẳn vào dòng suối nhỏ, nước trong chảy lanh tanh phía dưới.

Hôm nay anh Thế nói chuyện không nên chạy làng nữa. Núp mở to mắt, nhìn cành cây kơ-pông:

- Không được, anh Thế ạ, không phải người Kông-hoa muốn chạy mãi đâu. Nhưng ở một chỗ thì đánh không nổi Pháp, nhất định Pháp đánh mình phải thua. Đánh bẫy đá, đánh chông được một lần, lần sau nó biết chỗ, đánh không được nữa. Nó đem máy bay tới thả bom, không có con đường chạy. Người Kông-hoa bây giờ phải như con thú trong rừng, bữa nay ở bụi này, ngày mai ở bụi khác…

Thế hỏi:

- Còn rẫy thì làm sao?

Núp thở dài:

- Cũng phải chịu thôi. Chạy được gần thì làm rẫy cũ. Khi phải chạy xa thì bỏ luôn thôi. Khắp quanh núi Chư-lây này bây giờ rẫy người Kông-hoa bỏ chỗ nào cũng có đấy… Không phải người Ba-na bụng không biết thương cái rẫy mình làm ra đâu. Đất cái rẫy đó thấm máu cái bàn tay người Kông-hoa, thấm mồ hôi người Kông-hoa… Tiếc lắm, nhưng làm sao!

Thế bứt một cái lá, chậm rãi xé làm đôi, làm tư, làm tám, rồi vò nát, ném xuống đất, phủi tay. Thế nói:

- Bok Hồ dạy: phải làm rẫy ăn no thì mới đánh Pháp lâu được. Chạy mãi bỏ rẫy mãi thì không no được, không đánh lâu được. Bây giờ phải tìm cách ở một chỗ, đánh Pháp, làm rẫy, không chạy nữa…

- Cách gì?

- Phải tổ chức làng lại, anh Núp ạ.

- Tổ chức sao?

Suốt ngày hôm đó, anh Thế bàn với Núp cách tổ chức lại làng Kông-hoa thành làng kháng chiến, không chạy nữa. Phải tổ chức dân quân, phải làm thêm nhà bí mật, làng bí mật trong rừng, giấu bớt lúa, phải làm đường bí mật cho người già, phụ nữ, con nít rút lui khi Pháp tới, phải làm chông nhiều hơn nữa, canh gác kỹ hơn nữa. Đến chiều, khi ra về, Núp lấy trong gùi ra một trái bầu khô đưa cho Thế.

- Cái gì đây?

Núp để trái bầu xuống bên hòn đá, nói:

- Bầu đựng mật con ong đấy. Khi trước anh Cầm lên ở đây cũng có ăn mật con ong này rồi. Lũ làng tôi biết người Kinh thích ăn mật, gởi tôi đem cho anh đấy.

Thế biết phong tục người Ba-na, không từ chối được, Thế nói:

- Tôi gởi anh cái lời bằng miệng thăm tất cả lũ làng, anh Núp nhé!

༺༒༻

Trời không có trăng nhưng rất sáng. Các ông sao màu đỏ, màu xanh li ti, li ti như không đứng yên một chỗ, cứ có gió thổi qua là lao xao như rừng. Núp và Thế nằm ngửa, ngẩng lên nhìn trời. Đêm nay là đêm đầu tiên Núp ngủ lại giữa rừng với Thế. Núp kể cho Thế biết làng có những ai vào dân quân rồi, nhà bí mật đã làm được năm cái rồi, v.v… Hai anh em nói chuyện rì rầm mãi, không ngủ. Gió nó cũng nói chuyện rì rầm với lá cây trên đầu hai người.

Nói hết các chuyện trong làng rồi. Bây giờ Núp nằm im. Núp nhớ lại đêm nằm ngủ chung với anh Cầm cách đây gần bốn năm. Núp trăn trở hai, ba lần, rồi quay lại nhìn Thế, hỏi:

- Anh Thế à, anh có ở Kon-tum không?

Thế cũng quay lại:

- Không. Sao anh Núp hỏi thế?

- Anh Cầm trước có ở Kon-tum đấy, anh Thế ạ…

Nằm im một hồi lâu, rồi Núp lại hỏi:

- Anh Thế à, vậy anh có ở chỗ Việt Bắc, chỗ Bok Hồ không?

- Không, Việt Bắc xa lắm. Nhưng cũng có người ở chỗ đó vào trong này luôn, biết tin đấy.

- Thế à. Thế sao anh không ở gần Bok Hồ mà anh biết nhiều chuyện đánh Pháp tốt vậy. Không có Bok Hồ ở gần, ai bày cho?

Thế nói:

- Đảng dạy cho, anh Núp ạ.

- Đảng gì? Tôi không biết.

- Anh có muốn biết Đảng không, tôi nói anh biết nhé.

Thế ngồi dậy, dựa lưng vào gốc cây, bắt đầu nói. Núp cũng ngồi trước mặt Thế. Đêm nay Núp biết Đảng là gì rồi. Núp biết đất nước mình rộng lắm, có nhiều núi, nhiều sông, có cả chỗ không có núi, có nhiều biển. Con chim bay cũng không hết được, ngọn gió bay cũng không hết được. Ở đâu cũng tốt, đất làm rẫy một năm hai mùa, ba mùa. Hột lúa to và tròn. Con người đẹp và tốt. Nhưng người tốt thì nghèo hết, người xấu thì lại giàu hết. Người xấu đi lấy đất nước người tốt, bắt người tốt phải làm xâu làm thuế. Thằng Pháp xấu ở đất nước khác cũng tới lấy đất nước mình. Người khổ tức quá từ ngày xưa đã đứng dậy chống lại. Nhưng cứ phải thua mãi, thua mãi. Cho đến khi có Đảng chỉ huy mới thắng được tới bây giờ. Đánh Pháp ngày nay là do Đảng chỉ cho đấy.

- Ô… thế Đảng là Bok Hồ phải không?

- Bok Hồ cũng là người Đảng đấy. Nhưng còn nhiều người Đảng khác nữa. Bok Hồ là người chỉ huy Đảng ở nước mình.

- Bok Hồ người Đảng, còn ai nữa?

- Còn đông lắm. Ai người nghèo khổ, căm thù Pháp, căm thù người bóc lột, làm ăn tốt, không sợ chết, đánh giặc đánh trước, làm rẫy làm trước, khó khăn, gian khổ chịu được, người đó người Đảng… Anh Núp ạ, đánh giặc không có Đảng nhất định không hơn được. Người Đảng không phải chỉ làm một mình mình giỏi. Người Đảng biết làm sao cho đúng, cho tốt, người Đảng làm trước rồi còn nói mọi người làm theo nữa. Không có Đảng thì trong bụng có thù Pháp mấy đi nữa, cũng không làm trúng được hết, cũng không đánh nổi Pháp.

Núp nằm mở mắt nhìn lên trời và nghĩ không biết bao nhiêu chuyện. Đúng rồi, bây giờ Núp mới hiểu vì sao anh Cầm, bộ đội, anh Thế, người Kinh ở xa như vậy, leo núi khổ như vậy mà lên tới đây, qua con sông Ba có cá sấu không sợ, ở ngoài rừng hai tháng nay không biết mệt, không biết nản, thương người thượng du như thế. Núp hiểu vì sao người Kinh dưới xa kia lại làm rìu, rựa gởi lên cho người Thượng trên này. Đúng rồi, đều là do có Đảng chỉ cho cả. Núp nghĩ đến nỗi khổ của đời Núp, của mẹ, của Liêu, của người Kông-hoa, cũng đông, cũng nhiều như các ông sao trên trời vậy. Bây giờ có Đảng chỉ huy người khổ, Núp muốn đi theo Đảng.

Núp hỏi anh Thế:

- Vậy tôi… anh Thế ạ, tôi… có được người Đảng không.

Thế nhìn Núp:

- Anh cố gắng, mai mốt cũng được người Đảng đấy.

- Tôi cố gắng nữa. Anh Thế ạ.

Suốt đêm đó, Núp không ngủ. Chung quanh, thấy toàn là sao. Trăn trở mãi, Núp lại hỏi anh Thế:

- Anh Thế à, anh cũng khổ lắm phải không?

Đến gần sáng, Thế còn kể cho Núp nghe đời mình: khi nhỏ đi ở cho người giàu bị nó đánh, không có cơm ăn. Lớn lên, tức quá đi theo Đảng làm cách mạng cho tới bây giờ, chưa có vợ, chưa có con…

Sáng hôm sau trở dậy đi về làng, Núp nắm tay anh Thế nói:

- Đường tới làng tôi bữa nay tốt rồi. Mai tôi dẫn anh đi thăm người Kông-hoa nhé.

Thế cười, hỏi lại:

- Thế hôm nay đường hết đá to, hết con vắt rồi à?

Núp cũng cười, lắc đầu:

- Không, chưa hết đâu. Nhưng tôi biết anh người Đảng rồi, con đường khó mà đi tới chỗ tốt, anh cũng cứ đi được… Tôi cũng làm theo anh đấy!…

Thế siết chặt tay Núp. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Thế, chưa bao giờ anh thấy sung sướng bằng hôm nay.

[21] Một ngọn núi cao, căn cứ kháng chiến của ta ở Tây Nguyên.

[22] Trong chiến dịch biên giới năm 1950.