Chương II
Mấy ngày nay, đi đâu vắng thì thôi chứ về nhà là thế nào bok Sung cũng đi khắp làng, gặp chỗ nào đó người tụ tập đông là xen vào, gạt mọi người ra, múa hai tay, cười hà hà, nói mãi một câu này:
- Nè, có phải không, Bok Hồ, người Kinh gởi cho người Kông-hoa mỗi người hai cái tay đấy.
Mọi người đều cười. Nhưng bok Sung lại làm như người ta chống lại ý đó của bok, bok trợn tròn hai con mắt lên hỏi:
- Chớ không phải cho người Kông-hoa hai cái tay đấy à?… Này, tôi nói thế này nhé: ngày không có cái rìu, cái rựa, có phải ai cũng nói: “Thiệt như cụt mất cái tay rồi” không?… Bây giờ Bok Hồ gởi anh Thế mang lên cho bốn cái rựa, năm cái rìu… Ô, cái nào cũng mới tinh cả, sáng như là ông trăng, như thế thì cũng bằng cho người Kông-hoa… mấy cái? Hai cái à… cũng chưa phải đâu… ba, bốn, năm, sáu bảy… một trăm cái tay đấy… hà hà hà hà…
Bok cười với mọi người.
Trong bụng mỗi người Kông-hoa không bao giờ quên được cái ngày anh Thế đưa rìu rựa của Bok Hồ về làng. Anh Thế giao cho Núp, chia cho các nhóm làm rẫy chung. Buổi sáng, nắng sơn vàng chóp nhà rông, lũ làng họp lại hết ở sân. Núp đứng trên hòn đá giữa làng, nhìn khắp mọi người. Chín mươi khuôn mặt Ba-na thân yêu đều quay lại nhìn anh. Bao nhiêu con mắt long lanh, chờ đợi Núp nói. Tự nhiên Núp lúng túng, không biết bắt đầu thế nào. Anh nhìn lại khắp lũ làng một lượt nữa: gần bốn năm nay sương mặn của núi Chư-lây đã làm đen sạm hết chín mươi khuôn mặt đó. Gần bốn năm nay, chưa một ngày nào chín mươi người đó được ăn đủ no, đủ mặn. Thịt trong người teo lại. Má hóp xuống. Mặt trở nên xương xẩu, rắn chắc. Núp nói gì với anh em, với bà con, với lũ làng bây giờ? Núp cầm tất cả chín cái rìu rựa đưa lên cao, rồi chậm rãi bắt đầu:
- Lũ làng ạ, khi lũ làng mình bỏ cái làng ở Bông-pra đi lên núi Chư-lây kham khổ, thằng Pháp nó cố lấy hết cái sắt của mình, nó chắc thế nào mình cũng chết đấy. Thế nhưng mình không chết, mình sống được tới bây giờ, mình trở về chỗ làng cũ này rồi. Bây giờ có anh Thế mang rìu rựa của người Kinh, của Bok Hồ gởi cho mình đây, mình càng làm rẫy giỏi hơn nữa, ăn no nữa, nhất định thằng Pháp phải chết trước mình, lũ làng ạ…
Trên chín mươi khuôn mặt tự nhiên nở bao nhiêu nụ cười, có nụ cười của chị phụ nữ như một cái hoa trắng của cây kơ-pông, có nụ cười của ông cụ già mất hết cả răng rồi, có nụ cười của thằng con nít, nó vừa cười vừa đưa tay lên vẫy Núp. Anh Thế đứng phía sau cũng cười và chớp chớp mắt…
Chín mươi người chia ra làm chín tốp làm rẫy chung. Mỗi tốp có một người coi chung chín người, gọi là “đầu tốp”. Chín người đầu tốp lần lượt tách ra khỏi đám đông, đi tới chỗ Núp, đưa tay lên, nhận một cái rìu hay một cái rựa. Người đầu tốp cuối cùng, tốp của phụ nữ, là chị Liêu. Chị Liêu năm nay con đã lớn, chị lại khỏe mạnh, leo lên cây chặt cành làm rẫy nhanh như con sóc. Chị lại hay cười và ít nói, chỉ chăm làm như khi còn trẻ. Liêu được lũ phụ nữ bầu làm đầu tốp.
Núp đưa cái rựa cuối cùng cho Liêu. Cả hai vợ chồng cùng cười. Cả làng ai cũng cười. Nắng buổi sáng cũng cười trên lá cây màu xanh mùa xuân. Tiếng kèn của Ghíp rộn rịp. Và lũ thanh niên hát lại một bài hát đã cũ lắm rồi:
Mày lầm rồi, thằng Pháp ơi!
༺༒༻
Thằng bé Ngứt ngồi trên ngưỡng cửa nhà sàn, nắng rọi vào trong mắt nó. Năm nay nó mười hai tuổi rồi. Từ khi anh Núp mang nó về nuôi năm đói nặng đến nay, nó ở với mẹ Núp và Liêu mãi. Nó theo chị Liêu ra rẫy, cũng bắt chước đi chặt cây. Anh Núp đi đâu cũng mang về hai củ mài, một củ cho nó, một củ cho Hờ Ru. Từ bữa anh Thế lên, nó theo anh Thế, và nói được bập bẹ mấy tiếng Kinh “ăn cơm, uống nước, đi chơi, hột lúa…”
Bữa nay anh Thế về huyện. Nó ngồi trông mãi. Tay nó cầm một sợi dây có cột nhiều gút. Anh Thế hẹn đi về huyện năm ngày thì trở lên. Mỗi ngày thằng Ngứt thắt một gút trên sợi dây. Sáng nay ngủ dậy, nó đem dây ra đếm, thấy đã đủ năm gút, nó ra ngồi chờ mãi, sao không thấy anh Thế lên? Nó ngồi trên ngưỡng cửa, ai hỏi gì cũng không nói, chị Liêu đi ra rẫy cũng không đi theo, con mắt cứ ngó chăm chăm phía suối Đất-hoa.
Không phải chỉ có một mình Ngứt trông anh Thế. Cả làng đều trông. Anh Thế lên ở Kông-hoa mới được một tháng bây giờ đã thành như người trong làng. Miệng ai cũng ưng kể chuyện anh Thế thương lũ làng, kể mấy lần nghe cũng còn thích. Nhất là chuyện cái ống muối. Hôm đó anh Thế tới làng lần đầu. Anh mở ống muối chia cho mỗi bếp một ít. Chia xong, chỉ còn ống tre không. Mấy ngày sau, một đêm Thế đi đâu về mệt quá nằm lăn ra ngủ. Bà mẹ Núp tới ngồi một bên, tẩn mẩn tần mần rờ từ đôi dép, cái mũ, cái áo của anh. Mẹ mở đến ống muối của anh, thấy ống đầy tro tranh và trái lô-pang: anh Thế đã nhịn muối cho mẹ, cho lũ làng ăn… anh Thế ở trong nhà việc gì cũng làm: nấu cơm, quét nhà, đan cái rá, cái rổ, cho con heo ăn, múc nước đầy các trái bầu. Làm ở nhà Núp xong, anh lại đến làm ở các nhà khác trong làng nữa. Buổi chiều anh Thế đi ra suối. Lũ con nít chạy theo vây quanh. Anh tắm cho từng đứa. Buổi tối anh kể chuyện dưới Kinh cho lũ làng nghe. Con nít đứa ngồi trong lòng anh, đứa bám trên lưng anh, đứa trèo lên vai anh. Anh Thế thuộc tên từng đứa. Anh bảo chúng nó ngồi dậy cả, rồi anh dạy hát…
Thằng Ngứt lẩm nhẩm hát một bài anh Thế mới bày. Bỗng, hai con mắt nó nhấp nháy sáng, nó đứng dậy, thả rơi cái dây có cột gút. Nó nhìn chăm chăm phía lùm tranh cao trước làng. Trên các ngọn tranh cao lố nhố, màu vàng, nó mới thấy một chấm đen. Cái chấm đen to dần, to dần. Nó đợi nhô dần lên cái mũ rộng vành màu tím sẫm, cái trán rộng và đen, cái mũi hơi bè ra, rồi cái đầu súng có con ruồi… đúng rồi! Nó nhảy phóc một cái từ trên sàn nhà xuống đất, reo lên:
- Anh Thế, anh Thế lên rồi!
Lũ phụ nữ đang giã gạo, dừng tay, buông thõng chày trong cối, ngẩng lên nhìn, rồi tất cả đều cười:
- Đúng anh Thế lên rồi. Con mắt thằng Ngứt giỏi thật!
Lũ làng chạy đến vây quanh. Anh Thế mang một cái gùi nặng trên lưng.
- Gùi gì đây, anh Thế?
- Có tin gì, anh Thế?
- Anh đi đường tốt hết phải không, anh Thế?
Thế không biết trả lời ai trước cả. Về huyện năm ngày, trong bụng cũng nhớ làng Kông-hoa lắm. Bây giờ trở lên gặp lũ làng, thật như trở về quê vậy. Thế đặt gùi xuống đất, giở miếng lá đậy ở trên ra.
- Ố! Muối! Muối!
Thế gạt mồ hôi:
- Muốn của Bok Hồ gởi cho lũ làng Kông-hoa đấy…
Thế nói ít tin đánh Pháp ở các nơi, rồi Ngứt dẫn ra rẫy tìm anh Núp…
Hai anh em ngồi ở rẫy. Ngứt cầm trái bầu đi xuống suối lấy nước. Núp hỏi:
- Lần này huyện nhắn gì Kông-hoa, anh Thế?
Thế không trả lời ngay. Anh ngồi im một lát rồi hỏi lại Núp:
- Anh Núp à, những con nước nào chảy về suối lớn Đất-hoa?
Núp nói:
- Nhiều lắm. Mỗi con nước chảy về suối lớn Đất-hoa đều chảy qua một làng. Anh chưa biết à? Muốn tìm người Ba-na, cứ đi tìm chỗ nào có con nước chảy ngang là có người ở đấy. Con nước chảy qua làng Ba-lang, con nước chảy qua làng Kông-lê, con nước chảy qua làng Kông-giàng, Đê-mô, Đê-ô, Đê-lanh… mấy con nước đó đều chảy về suối lớn Đất-hoa. Suối lớn Đất-hoa chảy ra gặp đường 19, rúc qua một cái cầu. Trên cầu đó có đồn Đất-lung của Pháp.
Thế vấn một điếu thuốc bằng lá chuối non của lũ làng phơi khô để dành cho:
- Anh Núp ạ, thằng Pháp ở đồn Đất-lung đang muốn đi ngược lên các con nước nhỏ đấy.
Núp hỏi:
- Anh nói sao?
- Tôi về huyện họp, huyện nói thế này: Pháp nó đã phát súng cho lũ làng Đê-ô, Đê-mô, Đê-lanh từ đầu năm nay. Nó nói lũ làng đó cầm súng đó chống lại cán bộ. Việc này do thằng chánh tổng Chu Rú làm đấy. Những làng nó phát súng đều ở trên các con đường từ dưới Kinh lên đây cả. Nó muốn người các làng đó cầm súng bịt đường không cho tôi lên đây nữa, không cho bộ đội mai mốt lên đây nữa. Bây giờ thằng Chu Rú lại đi phát súng cho lũ làng Kông-giàng, Kông-châu, Nga-gió, Leng-tu… ở trên các con suối nhỏ. Nó định phát súng dần dần ngược theo mấy con suối đó. Mai mốt nó còn phát tới Ba-lang, Đê-ta, Kông-ma, Ta-lung đây. Nó đang định vây rồi diệt làng Kông-hoa này.
Núp chống cái rìu xuống đất, rút ống điếu đang ngậm ở miệng ra, hai mắt dần dần đỏ. Không phải bây giờ Núp mới biết chuyện này. Từ ngày nghe Pháp bảo thằng Chu Rú đi phát súng cho lũ Đê-ô ở gần con nước lớn sát đường 19, nói là cho người Ba-na bắn con nai, con heo rừng, Núp đã biết là nó muốn người Đê-ô bắn lại cán bộ, bắn lại người Ba-na rồi. Nhưng Núp chưa nghĩ kỹ đến như thế này. Bây giờ huyện chỉ cho Núp thấy rõ rồi đó, Núp phải làm sao?
Núp nói:
- Phải giữ cho được hòn núi Chư-lây này, anh Thế ạ.
Thế vấn điếu thuốc rồi lại ném đi không hút:
- Đúng đấy, trước tiên là phải giữ cho được hòn núi Chư-lây. Quanh hòn núi Chư-lây này có năm làng: Kông-hoa, Kông-ma, Ta-lung, Đê-ta, Ba-lang. Muốn giữ được núi này phải làm sao cho năm làng này biết đánh Pháp hết.
Núp suy nghĩ lâu. Rồi nói:
- Kông-hoa biết đánh Pháp khá rồi. Ta-lung thì chưa đi làm xâu cho Pháp, nhưng làm chông còn ít lắm, chưa biết làm dân quân. Còn Ba-lang, Kông-ma, Đê-ta thì đang đi xâu cho Pháp, phải đi nói cho nó nghe cho được cái tai, cái bụng… Nói nó khó lắm, nhưng cũng phải nói được, anh Thế ạ.
Thế đứng dậy:
- Tôi cũng định nói anh như vậy đấy. Đánh Pháp không phải đánh một người, một làng. Đánh Pháp phải đánh hết cả đất nước mới thắng được. Muốn hơn Pháp phải làm sao cho người mình mỗi ngày một nhiều hơn, người Pháp mỗi ngày một ít đi…
… Đêm đó, Núp và Thế bàn nên đi nói làng nào trước. Núp nói:
- Làng Kông-ma có thằng chủ làng đang muốn theo Chu Rú, bụng nó xấu lắm, chưa nói được ngay đâu. Làng Ba-lang thì ở gần đường Nga-gió quá, chắc nó còn sợ Pháp nhiều. Phải đi nói làng Đê-ta trước. Tôi biết đường trong núi nhiều, tôi đi xa được, để tôi đi nói lũ làng Đê-ta. Anh còn biết đường ít, anh đi nói lũ làng Ta-lung gần hơn, anh Thế nhé…
Một con chim chèo bẻo kêu lanh lảnh trong đêm. Thế nắm tay Núp:
- Thôi, ngủ đi đã, khuya rồi.
Hai người nằm sát vào nhau. Cả hai đều đóng khố. Cái chăn của Thế đem đắp cho mấy đứa con bà Hu bị sốt rồi. Muỗi đốt như kim châm, không ngủ được. Núp nằm nghĩ mãi. Anh nhắm mắt lại và thấy một ngọn núi cao, có nhiều đá to: ngọn núi Việt Bắc, ngọn núi Bok Hồ. Bok Hồ khi nào cũng dạy đoàn kết. Bốn năm nay Núp nghe lời Bok, nhưng mới chỉ biết đoàn kết trong vài bếp, trong làng, chưa biết đoàn kết các làng khác. Người làng khác cũng khổ, cũng ghét Pháp, sao mình không biết đi nói nó đánh giặc, để nó khổ mãi. Do bụng mình chưa biết thương nó thật. Bây giờ có Đảng chỉ con đường, Đảng cho anh Thế lên bày cho biết, đường của Đảng đi rất khó nhưng tốt thế. Núp nhất định đi theo. Núp buột miệng nói:
- Mai tôi đi, nhất định, anh Thế ạ.
Thế cũng nói:
- Đúng đấy, mai tôi cũng đi Ta-lung.
Thằng Hờ Ru cựa mình nói ú ớ. Thế ngồi dậy quạt muỗi, kéo cái chăn lại cho nó. Thế hỏi nhỏ:
- Anh Núp này, anh đi làm việc nhiều, bỏ làm rẫy nhiều, chị Liêu có nói gì không?
Núp nằm nghiêng lại, đặt bàn tay to lớn của Núp lên vai thằng Hờ Ru, xoa xoa nhè nhẹ:
- Không, bây giờ Liêu biết nhiều rồi, anh Thế ạ.
Thế nói:
- Mùa này tôi cũng đi làm rẫy với anh nhé, để một mình chị Liêu làm, chị ấy khổ lắm…
Núp nhắm mắt. Giấc ngủ đến khi nào không biết.
༺༒༻
Nhà sàn làng Đê-ta ngắn bằng hai sải tay, thấp lè tè, đầu to, chân ngắn và nóng bức. Một con heo nái ở đó ngứa quá, đến kề cái lưng vào cột cây kì qua kì lại, làm cho tất cả bếp núc và xâu thịt nai khô treo trong nhà đều rung rinh. Bok Ung lấy cái gậy đuổi, nó éc éc chạy được vài bước, rồi lại ụt ịt thong thả bỏ đi rất là biếng, đến uống nước cơm lem lép và khịt khịt vào trong một cái chậu bể. Làng Đê-ta ngày trước hơn ba mươi nóc nhà to, trâu nhiều, chó nhiều, trên nhà rông lúc nào cũng có chiếc diều có sáo vi vu. Bây giờ chỉ còn hai mươi nóc nhà thấp lè tè như thế. Con gái mặc vải của Pháp bán, đeo vòng của Pháp màu xanh, màu đỏ, mỗi chiếc Pháp đổi một gùi lúa. Nhưng con mắt người nào cũng trắng dại ra vì đói. Con nít bụng to, đi giỡn với con heo, cả hai nhớp như nhau.
Núp vừa nói chuyện với lũ già làng Đê-ta vừa nhìn tất cả những cái đó. Bốn năm đi làm xâu cho Pháp, làng Đê-ta như thế đó…
Lũ già làng Đê-ta ngồi vây kín quanh ché rượu. Nghe nói Núp ở Kông-hoa tới thăm, già làng Đê-ta trước nay đã biết tiếng Núp là người ăn nói tốt, thương lũ làng nhiều, làm rẫy giỏi, ai cũng mừng, đem cột rượu mời Núp uống. Nhưng khi Núp nói tới chuyện làng Đê-ta cũng phải đánh Pháp thì không ai nghe cả. Bok Ung hồi khởi nghĩa làm chủ tịch làng bây giờ già lắm rồi, đến cái lông mày cũng bạc, hai má hóp sâu, miệng móm mém. Bok nói:
- Không được, Núp à. Bụng người Đê-ta xưa nay không xấu với người đánh Pháp, không xấu với cán bộ, với Chính phủ. Nhưng bụng người Đê-ta không biết ăn tro tranh…
Bốn, năm ông già khác buông cần rượu, nói một lượt:
- Chạy làng à, chạy đi đâu?… Chạy không nổi đâu. Người Kông-hoa chạy được, người làng tôi, giàng không cho chạy.
- Chạy làng ăn gì, vót chông miết, bỏ làm rẫy, đói chết. Không được đâu, anh Núp à…
- Anh Núp, anh làm sao giàng cho phép người làng Đê-ta chạy được, làm sao người làng Đê-ta đánh Pháp có muối ăn, có áo mặc, thì người làng Đê-ta đồng ý. Không có, khó lắm… khổ quá, chịu sao nổi. Đi làm xâu cho Pháp cũng khổ, nhưng còn có muối cho con nít ăn. Đi chạy làng sợ con nít chết hết…
Núp không nói được gì nữa. Nắng rọi vào giữa nhà, bụi bay trong nắng không biết bao nhiêu hột… Trưa rồi. Lũ già làng về cả, chỉ còn một mình Núp ở nhà bok Ung. Núp nằm ngửa, con mọt ăn cái xà nhà kì cà kì kèo, rồi nó thả bụi tre trắng xuống trên ngực Núp.
Núp nghĩ tới thằng Pháp. Nó đang sai thằng Chu Rú đi ngược lên những con nước của đất Ba-na, nó đang phát súng cho người Ba-na ở quanh ngọn núi Chư-lây, chỉ lên núi đây, nói rằng: “Người theo Việt Minh như con heo rừng, xuống phá rẫy. Gặp nó, xa phải bắn chết, gần phải bắt cắt mũi, cắt tai, xâu lại, đem nộp cho Pháp đổi muối ăn…” Nó nói xấu thế, sao người Ba-na cũng có người nghe theo nó. Mình nói tốt thế này, sao người Ba-na không nghe theo mình… Không, không phải đâu. Bụng Pháp muốn xấu mà miệng nó trả lời tốt, bây giờ người Ba-na mau nghe, nhưng rồi cũng mau quên lời nó. Bụng mình muốn chuyện tốt, nhưng làm theo mình phải khó khăn, lũ làng lâu nghe được. Nhưng nói miết nói miết rồi cũng nghe được. Mà nghe được rồi thì không bao giờ quên đâu…
Núp nhớ lại trước đây năm năm, có lần Núp đói muối mờ cả hai con mắt, trèo lên một hòn đá cao, đứng hỏi một trăm ba mươi người Kông-hoa: “Ai chịu đói muốn đi đánh Pháp, ai không chịu nổi, muốn về đi xâu cho Pháp?” Có chín mươi người đưa tay đi lên núi, chín mươi người nghèo nhất trong làng, bụng thù thằng Pháp nhiều nhất.
Người làng Đê-ta có thù Pháp không? Tháng trước, đêm hôm làm lễ Núp vào Đảng, anh Thế nói: “Ai người nghèo, ai người bị Pháp bóc lột, người đó căm thù Pháp, người đó mình nói họ biết thù, sức họ mạnh lắm, làm gì cũng được, bụng họ đều có thể tốt, sau này họ thành đồng chí được hết”. Người Đê-ta nghèo lắm, đi làm xâu cho Pháp đời ông, đời cha, đời mình, người Đê-ta sao lại không biết thù Pháp, không thương đất nước? Chỉ tại miệng mình chưa nói cho họ rõ, mình chưa chịu khó khăn…
Buổi chiều Núp đi thăm hết trong làng. Hỏi thăm Pháp bắt xâu một ông trăng mấy lần, đi xâu Pháp bảo làm gì, miệng Pháp nói sao, tay Pháp làm sao? Hỏi thăm thằng con nít tại sao nó gầy thế? Hỏi thăm con trâu mất đi đâu rồi, ai lấy? Hỏi thăm vì sao rẫy nhiều cỏ thế?…
Tối, người làng họp ở nhà rông. Núp xin phép bok Ung ngồi kể chuyện cho lũ làng nghe. Lũ làng tưởng nghe chuyện Kông-hoa, chuyện đánh Pháp. Nhưng Núp chỉ kể toàn chuyện làng Đê-ta, chuyện từng nhà, từng bếp. Chuyện bếp này bếp kia không biết, chuyện bếp kia bếp này không biết, nên nghe chuyện nào cũng thấy lạ. Núp kể vì sao cái rẫy của mí Lê bỏ cỏ nhiều thế, mí Lê xưa nay làm rẫy giỏi, ai cũng biết. Chỉ vì mỗi ông trăng là ba mươi ngày, mí Lê phải đi làm xâu hết mười lăm ngày rồi, cái rẫy sao tốt được. Kể vì sao bok Sra không làm lại cái nhà mà ở, để gió xô miết cái lều lụp xụp, có ngày ngã đè chết người; vì con trai của bok, Pháp bắt đi xâu, rồi nói là theo Việt Minh, lấy dao cắt đứt cánh tay, máu chảy một ngày phải chết. Kể vì sao đê Hiu mất con trâu, ai lấy; vì sao mai Lam bị Pháp bắt làm vợ rồi thả về, bây giờ suốt đời đau bệnh, không có chồng con…
Đến khuya, lửa tắt dần chỉ còn một ít than hồng. Bok Sra ôm hai đầu gối, cắn mãi hai hàm răng lại, nhưng không được nữa rồi, bok òa lên khóc. Mai Lam cũng khóc theo. Anh Hiu, anh Khíp, chị Hoa, chị Vu… đều khóc. Tiếng khóc ấm ức. Lửa hết cháy rồi. Bóng tối trùm lên cả tiếng khóc, làm cho nó nghẹt lại, đau ruột quá…
Núp chùi nước mắt, đứng dậy đi tìm một bó củi khô, cho lửa ăn, lửa sống lại phừng phừng. Anh ngồi nhìn lửa mãi. Im lặng. Khíp đang ngồi phía sau xa, tự nhiên Khíp đứng dậy, đi tới gần bên đống lửa, đưa một bàn tay soi lên lửa nói:
- Anh Núp, sao anh chưa nói chuyện tôi. Bây giờ tôi nói cho lũ làng nghe. Bàn tay tôi đây, mất hết hai ngón. Thằng Pháp bắt tôi đi xâu, tôi đau quá, tôi không làm được nhiều, nó bỏ tù tôi, rồi nó lấy dao chặt hai ngón tay này của tôi đây…
Khíp không khóc. Cặp mắt Khíp đỏ ngầu. Núp nhìn Khíp. Năm nay Khíp hai mươi tuổi. Trước Khíp cũng là người Kông-hoa. Năm đói muối chín mươi người chạy lên Bông-pra đánh giặc, cha mẹ Khíp không chịu chạy, bỏ theo làng Đê-ta, đi làm xâu năm năm nay. Lúc đó Khíp còn nhỏ. Bây giờ đã thành người lớn rồi, tóc xoăn lên, trán cao, nước da đen, cánh tay to như chân con cọp…
Sáng hôm sau, Núp trở về Kông-hoa. Người làng Đê-ta hẹn:
- Mai mốt anh tới chơi nữa nghe.
Ra tới đầu suối, nghe tiếng chân người chạy theo. Quay lại thấy Khíp. Khíp cầm tay Núp:
- Tôi trước ông bà uống nước suối Kông-hoa, ăn lúa đất Kông-hoa. Bây giờ tôi muốn theo người Kông-hoa đánh Pháp, anh cho tôi về Kông-hoa. Khổ tôi chịu được, đói muối tôi chịu được… Tôi không ở làng Đê-ta nữa.
Núp dẫn Khíp tới bờ suối. Hai anh em ngồi xuống trên một hòn đá, để cho nước suối leo lên trên bàn chân lanh tanh. Núp bảo Khíp nên ở lại làng Đê-ta. Không phải người Kông-hoa không muốn nhận Khíp nữa đâu. Nhưng Khíp tốt rồi, phải ở lại, phải nói cho lũ làng Đê-ta ai cũng tốt được như Khíp cả, sao cho làng Đê-ta cũng được như làng Kông-hoa. Sao cho đất nước mình ngày nay mới tốt một làng, ngày mai còn tốt nhiều làng nữa.
Núp lấy tay bụm nước lên rửa mặt, rồi nói:
- Khíp ạ, đất nước mình, nước con suối nào cũng tốt. Suối nước Kông-hoa, suối nước Đê-ta, suối nước Ba-lang… suối nước nào uống vào cũng biết thương yêu đất nước, căm thù thắng Pháp cả. Mình biết trước, mình phải nói cho lũ làng ai cũng đều biết thế…
༺༒༻
Núp bàn với Thế:
- Nói năm lần rồi, người Đê-ta chưa nghe. Bây giờ phải đi nói người Ba-lang nữa. Vừa nói người Ba-lang, vừa nói người Đê-ta.
Núp dẫn Thế tới cho Khíp ở làng Đê-ta biết mặt, Khíp đưa anh Thế đi nói chuyện với lũ làng Đê-ta. Còn Núp thì đi Ba-lang.
Núp đi nhiều lắm. Đi về, sợ cỏ ăn mất cái rẫy, ra coi thử. Thấy mai Liêu cõng con trên lưng đang nhổ cỏ. Núp thương Liêu quá. Liêu vừa nhổ cỏ vừa hát:
Kìa những đàn chim trắng
Trên rẫy lúa đòng đòng,
Chim lượn chim bay quanh
Bắp trỗ cờ đỏ chói
Buổi mai mặt trời mọc
Buổi chiều mặt trời lặn
Người cõng lúa về buôn[23]
Chim cũng theo về tổ…
Núp tự nhiên thấy hai bàn tay, các ngón đều xao xuyến lên. Muốn đi tìm cái đờn tơ-rưng, đánh một bài nói cái rẫy lúa tốt, người vợ đẹp, làm ăn giỏi, đất nước có Bok Hồ tốt quá, mai mốt thắng giặc còn tốt hơn nữa, Nhưng bây giờ phải đi thôi. Muốn mai mốt thắng giặc, bây giờ phải đi, cái chân không biết mỏi, cái ngực không biết mệt.
Núp đi làng Ba-lang.
Ở Ba-lang Pháp đặt một chủ làng. Người này con đông, ốm yếu, hình như lúc nào cũng bị lạnh nên rụt cổ lại. Sợ Pháp, sợ cả bộ đội. Lũ làng Ba-lang đưa ra làm chủ làng “phép” để nói chuyện với Pháp thôi. Xá còn nhỏ, nhưng ăn nói đúng, chủ làng lại nghe Xá hay đi Kông-hoa nên cũng sợ Xá.
Núp dặn Xá phải nắm cho được chủ làng. Xá về nói chủ làng:
- Anh làm chủ làng “phép”, bụng không thương Pháp, không ai ghét đâu. Nhưng làm chủ làng “phép” thì phải giúp lũ làng.
Chủ làng co cổ lại, hỏi:
- Giúp sao, Xá bày tôi:
- Giúp: Pháp muốn làm gì, về nói cho lũ làng, cho tôi biết trước.
Từ đó Pháp muốn bắt xâu, muốn lấy thuế, muốn lấy con trâu, lấy mật, muốn bán vải, Xá đều biết trước cả. Xá đi tìm anh Núp và anh Thế trong rừng, ba người nói chuyện. Xá về nói lại chủ làng. Pháp muốn bắt xâu ba mươi người, cho đi mười lăm người thôi. Nói Pháp người làng Ba-lang làm khổ quá, ốm hết rồi, lần sau sẽ đi nhiều hơn…
Núp tới nói chuyện làng Ba-lang phải chạy làng đã bốn, năm lần nhưng lũ già cũng chưa ai nghe. Núp phải bày Xá đi nói từng người một, được năm thanh niên. Lâu lâu ra rừng một bữa, Núp tới nói chuyện…
Một hôm Xá đi tìm Núp, kéo ra rừng, kề miệng vào tai, nói nhỏ:
- Tôi sắp có cái súng rồi, anh Núp ạ.
- Ở đâu mà có, anh Thế cho à?
- Không đâu… Pháp cho đấy.
Xá cười, lấy một cái que dài, kề vào vai, giả làm súng, bắn “đùng!”
Xá kể: chủ làng nói cho Xá biết Pháp định cho lũ làng Ba-lang sáu cái súng để bắn con heo rừng. Xá biết rồi, nó muốn người Ba-lang bắn lại cán bộ đấy thôi. Nhưng được cứ để nó cho, Xá sẽ lấy hết.
Núp muốn đi tìm anh Thế ngay, nhưng anh Thế về huyện chưa lên. Núp đốt lửa ngồi suốt đêm. Thằng Pháp đi ngược các con suối đã lên tới Ba-lang rồi. Mà mình chưa nói được làng nào hết. Nó muốn vây núi tới Chư-lây rồi. Ngày mai nhất định Núp phải đi Ba-lang. Để Pháp giao được một khẩu súng cho người Ba-lang thì sau này còn khó khăn không biết bao nhiêu nữa. Lần này, thế nào Ba-lang cũng phải đánh Pháp, nhất định…
༺༒༻
Lũ làng Ba-lang đã tập trung đông đủ ở nhà rông. Đống lửa cháy nổ lép bép. Người chủ làng vẫn co rụt cổ lại, ba đứa con nhỏ, không biết đứa nào là anh đứa nào là em, ngồi co ro như cha chúng nó, mắt thao láo. Chủ làng bắt đầu nói, tiếng nói rè rè, trầm trầm, nhưng có lúc tự nhiên lại cao lên the thé:
- Cái này không phải tự miệng tôi nói. Cái này tôi nghe Pháp nói, tôi nói lại: Pháp thấy người Ba-lang ở trong núi, có nhiều con heo rừng, con cọp xuống phá rẫy, phá làng, Pháp muốn cho người Ba-lang cái súng bắn con heo con cọp…
Chuyện Pháp muốn cho súng xôn xao trong thanh niên Ba-lang luôn mấy ngày nay. Ai cũng muốn lấy. Phải rồi, người Ba-lang ba năm nay đói, vì sao? Vì con heo rừng xuống phá hết cái rẫy. Có cái súng, có cái súng, ô… thanh niên nằm đêm, hễ nhắm mắt là thấy cái súng. Có cái súng sướng biết bao nhiêu. Sẽ làm một cái chòi. Ban đêm, không cần ngủ ở nhà rông, ra ngủ ở chòi. Đến khuya, nhất định con heo rừng tới, con mắt nó như hai đốm lửa trong đêm tối. Giơ cái súng lên, nhắm cho kỹ, bóp cò: “Đoàng!”… Cái chấm lửa đỏ biến mất ngay. Con heo rống lên. Nó chạy, nhưng nó không chạy thẳng được nữa rồi. Nó nghiêng chúi hẳn về một bên. Rồi ngã lăn quay ra. Máu chảy ộc ộc, thấm xuống đất rẫy… Ô, sướng biết bao nhiêu… Pháp cho cái súng à?… Lấy đi!… Lấy cho nhiều đạn…
Bốn, năm thanh niên nhìn chủ làng chằm chằm:
- Cho mấy cái?
- Sáu cái.
- Có nhiều đạn không?
- Bây giờ còn ít đạn, sau này nhiều đạn.
- Lấy đi, tôi giữ một cái.
- Tôi cũng giữ một cái.
Xá cũng muốn nói:
- Tôi cũng giữ một cái.
Nhưng liếc qua, thấy Núp vẫn ngồi im nhìn lũ thanh niên, Xá không dám nói nữa. Chỉ có hai con mắt Xá lóng lánh như hai cái đầu ruồi súng chùi sạch. Chủ làng cũng liếc nhìn Núp, rồi nói:
- Pháp dặn ai muốn giữ súng phải nói tên tôi biết, tôi nói Pháp viết tên trong sổ rồi Pháp phát súng cho. Lần này, Pháp phát một khẩu, sau này phát nữa.
Lũ thanh niên im lặng hết. Bây giờ Núp mới nói:
- Có ai muốn ghi tên lấy súng không?
Không ai trả lời cả. Núp nói chậm rãi, chắc chắn, hai tay không động đậy, con mắt ngó một chỗ. Lũ thanh niên càng nghe càng cúi đầu xuống và tụt lui vào bóng tối. Lâu nay Núp ít đến Ba-lang, nhưng người Ba-lang nghe tên Núp nhiều lần, không ai không biết. Mấy hôm trước Núp nói chuyện thù Pháp, phải chạy làng, thanh niên nghe đỏ kè con mắt, phụ nữ, già làng thì khóc. Chưa ai chịu nghe theo Núp chạy làng, nhưng trong bụng ai cũng biết Núp nói tốt, nói phải, ai cũng suy nghĩ…
Hôm nay Núp nói vì sao Pháp muốn cho súng người Ba-lang. Có phải nó mới cho súng người Ba-lang thôi không? Không phải, nó đã cho súng Đê-ô, Đê-mô, Kông-giàng, Đê-lanh… rồi đấy. Súng Pháp người Đê-ô, Đê-mô, Kông-giàng, Đê-lanh… đem làm gì, người Ba-lang có ai biết không?
Một ông già gầy gò, ở trần, mặt toàn xương, hai gò má sâu hoắm, đứng dậy đưa một nắm tay, nắm tay cũng toàn xương, ông già hỏi:
- Sao anh Núp nói lũ làng Kông-giàng làm gì. Lũ làng Kông-giàng tôi biết rồi. Nó không phải là người Ba-na đâu. Nó là đồ chó. Bụng nó bây giờ thành bụng Pháp hết rồi. Nó tự lên đồn xin Pháp cái súng, về đi đánh lại lũ làng Đê-mô, Đê-ô, rồi đi bắn cán bộ… Nói nó làm gì?
Ông già thở hổn hển, ngồi xuống. Lại im lặng. Núp lại nói, chậm rãi:
- Làng Kông-giàng là người đất nước nào? … Không phải đâu, bok ạ, nó không phải là người đất nước Pháp đâu. Nó cũng là người đất nước mình đấy. Nó cũng nói tiếng Ba-na, uống nước suối Đất-hoa. Không phải Kông-giàng muốn đi xin cái súng Pháp trước để bắn Đê-mô, Đê-ô đâu. Khi đầu, thằng Pháp đem cái súng cho làng Đê-mô, Đê-ô trước. Pháp nói: để bắn con heo rừng, con mang. Không có ai nói cho Đê-ô, Đê-mô biết. Đến khi bắn được con heo, con mang rồi, ưng cái súng quá rồi, Pháp mới không cho đạn nữa. Muốn xin được đạn nó, miệng nó nói gì phải làm theo cái ấy. Khi đó nó mới xúi Đê-ô, Đê-mô đi đánh Kông-giàng. Kông-giàng sợ quá, phải chạy lên đồn Pháp xin súng để chống lại Đê-ô, Đê-mô… Bây giờ thì miệng nó nói “bắn cán bộ” cũng phải nghe theo nó rồi. Lũ làng ạ, Pháp cho Ba-lang súng bây giờ cũng như vậy đó. Ba-lang muốn giữ súng nó, một ngày, hai ngày, lâu ngày, nhất định rồi Ba-lang cũng phải bắn lại người Kông-hoa, cũng phải bắt tôi, cắt tai, cắt mũi nộp Pháp để lấy đạn đấy…
Cả nhà rông im phăng phắc. Ông già lúc nãy bây giờ ôm mặt khóc không ra tiếng. Lũ thanh niên cúi xuống, rồi ngẩng lên nhìn Núp. Hai mắt anh Núp nhìn lửa, hiền từ, mệt mỏi. Họ thấy anh Núp như người anh. Họ muốn từ nay làm việc gì cũng hỏi Núp trước cả…
Núp nói:
- Nhưng thằng Pháp đã muốn cho súng, không lấy cũng không được…
Bao nhiêu cặp mắt mở tròn, nhìn Núp. Núp nói tiếp:
- Mình không lấy, mai mốt đi xâu, tới đồn, nó nói mình theo cán bộ, nhất định nó bắt, bỏ tù…
Im lặng nặng nề.
- Làm sao?
- Phải bỏ đi xâu. Đi xâu miết cũng không được đâu. Pháp kêu mình cho súng tức là Pháp muốn mình một là theo nó đánh lại cán bộ, đánh lại Kông-hoa, một là theo cán bộ, theo Kông-hoa đánh lại nó… Mình không theo nó, chỉ còn một cách: phải đánh nó.
- Bây giờ phải đi lên núi sao?
- Không, không cần, cứ ở đây, làm chông, mang cung cho khá, làm dân quân cho khá, người Kông-hoa biết trước bày cho…
Đến nửa đêm, Núp còn ngồi nói cách đánh Pháp thế nào, hẹn ngày mốt cho tám dân quân Kông-hoa xuống giúp Ba-lang làm bẫy đá, nhà bí mật.
Khi Núp ở Ba-lang ra về, ngọn gió lạnh buổi sáng vừa thổi tắt mấy cái sao cuối cùng trên nền trời xanh nhạt.
Đi được một đoạn đường, mệt quá. Núp ngồi xuống, gục đầu vào gốc cây, ngủ thiếp đi.
Khi tỉnh dậy, thấy Xá ngồi một bên. Núp đứng lên:
- Thôi Xá về làm rẫy đi. Xá muốn có cái súng bắn con heo, con nai, phải nói người Ba-lang đánh giặc giỏi. Còn đi xâu cho Pháp thì cái súng nó không bắn được Pháp đâu. Súng đó nó bắn cán bộ mình thôi.
Xá đứng yên, không biết nói gì để tỏ với Núp rằng mình đã biết sai lầm rồi…
Một tháng sau, Xá làm chỉ huy dân quân Ba-lang đánh một trận, chết được bốn Pháp. Ba-lang là làng gần đồn Pháp đã đánh được Pháp rồi, nửa tháng sau làng Đê-ta cũng bỏ đi xâu, dời làng vào sát núi, làm chông, làm bẫy đá. Khíp không đòi về Kông-hoa nữa. Khíp ở lại làm chỉ huy dân quân làng Đê-ta.
༺༒༻
Anh Thế đi nói làng Kông-ma. Chủ làng Kông-ma nghe thằng Chu Rú bày, dẫn tám người núp ở suối đầu làng, định bắt anh Thế, cắt tai đem cho Pháp. Thế chạy thoát được về Kông-hoa.
Núp bàn với Thế:
- Thôi để tôi đi.
Thế nói:
- Bây giờ để nghĩ cách đã. Anh đi nó cũng giết. Chưa đi được đâu.
Núp gõ cái ống điếu xuống sàn:
- Tôi phải đi, anh Thế ạ. Bây giờ nó xấu, nhưng còn xấu ít. Mình chậm không đi nói, để mai mốt nó xấu nhiều nữa càng khó nói hơn.
Thế không biết nói gì nữa.
Núp ôm con vào lòng, nói:
- Chỗ này khó, Đảng kêu tôi đi đấy. Tôi không sợ chết đâu, anh Thế ạ. Tôi biết làng Kông-ma. Ở đó có lũ giàu, bụng xấu. Còn lũ người khổ phải đi làm cho Pháp, nó không phải sướng đâu. Nó theo Pháp sướng thì nó cần gì bắt cán bộ, cắt cái lỗ tai, đổi muối cho Pháp. Pháp không cho nó muối, nó mới phải làm thế. Tôi nói cho nó biết, chắc nó phải nghe được. Người cực khổ lỗ tai ai cũng tốt.
Thế nắm tay thằng Hờ Ru:
- Tôi đi với anh…
Núp lắc đầu…
- Để tôi đi trước, tìm được người tốt, bữa sau anh hãy đi. Nó bắt tôi, còn anh…
Ngày sau Núp đi, không nói cho mẹ, cho Liêu biết là đi đâu như những lần trước.
Hai tháng sau, bốn mươi người khổ ở làng Kông-ma đòi bắt thằng chủ làng, cắt tai: nó theo Pháp, ác lắm. Chủ làng sợ quá, bỏ cả nhà cửa, vợ con chạy theo Pháp ở đồn Hà-tam.
Làng Kông-ma một trăm hai mươi người chạy vào chân núi Chư-lây.
[23] Buôn: làng.