Chương III
Nửa đêm làng Kông-hoa còn bốc cháy. Lần này là lần thứ năm người Hà-ro dẫn Pháp lên đánh Kông-hoa. Lần này cũng là lần nặng nhất. Kông-hoa mất bốn trăm gùi lúa. Dân quân Kông-hoa đi họp với dân quân Ba-lang, Đê-ta, Ta-lung, Kông-ma, khi trở về đến làng thì Pháp đã rút tới đồn nó rồi. Dân quân đi họp, giao làng cho lũ thiếu nhi gác. Pháp tới bất ngờ, Tun chỉ huy thiếu nhi, ở trên cây tụt xuống chỉ kịp ném một quả lựu đạn của anh Thế mới cho hôm trước. Lựu đạn không biết đập nên không nổ, Tun ném trúng ngay vào giữa mặt thằng Pháp. Bọn kia hoảng quá, chạy lui bị trúng chông hai đứa. Chúng nó “văn xê” tới, nắm được cái khố của thằng Ngứt. Ngứt cầm rựa quay lại chặt một nhát. Thằng Pháp phải thả ra. Ngứt cầm cái rựa chảy máu ròng ròng chạy về làng, cùng với Tun dẫn lũ người già, người phụ nữ, con nít trốn hết vào làng bí mật. Khi yên tiếng súng trở ra, nhà, lúa đã cháy ngùn ngụt…
Bây giờ Kông-hoa phải đào tro làng cũ lên, làm lại cái làng mới.
Hôm nay Núp đi làng Đê-ta. Lũ làng ngồi vót chông. Nắng nóng rực cái rựa, trong bụng cũng nóng rực. Bok Pa ngồi trên một hòn đá nhỏ giữa nắng. Bok đặt cái rựa xuống hòn đá, không biết mấy lần định nói, rồi lại thôi. Hai con mắt đỏ kè. Bok vót mười cái chông, cái nào cũng hư cả. Sau cùng bok ném cái rựa xuống đất, đứng dậy. Bok không giữ được nữa rồi. Phải nói, nói cái ấm ức từ khi cháy làng đến giờ:
- Lũ làng này, tôi nói đây… Lần này nhất định phải đi đánh lũ Hà-ro. Không đi không được. Người Kông-hoa muốn sống hay muốn chết? Muốn sống thì phải đi đánh lũ Hà-ro một trận… Lần này là lần thứ mấy rồi. Không chịu được nữa. Tay ai đốt bốn trăm gùi lúa đây? Tay Hà-ro. Tay ai chỉ Pháp tới đốt làng Kông-hoa đây? Tay Hà-ro…, tức lắm. Lũ nó không phải là người Ba-na nữa. Lũ nó ăn muối Pháp, mặc áo Pháp, bây giờ thành người đất nước khác rồi.
Bok thở hổn hển, nói không ra hơi nữa. Những lời nói của bok như một cơn gió, nó thổi bốc ngọn lửa âm ỉ trong bụng bao lâu nay, Ghíp cũng thả rựa xuống, đứng dậy, khua tay, nói:
- Muốn theo Bok Hồ, muốn độc lập, không đi đánh người Hà-ro không được! Không đánh người Hà-ro mai mốt cái làng này cũng cháy, cái suối này cũng mất. Đất nước Ba-na không còn chỗ ở nữa. Trước một mình Kông-hoa, không đi đánh nó được. Bây giờ có Ba-lang, Ta-lung, Đê-ta, Kông-ma, người Kông-hoa phải trước tiên đi đánh nó. Giết hết nó đi, đánh thằng Pháp sau được ngay. Pháp không có Hà-ro, Pháp cũng chết đói.
Mớ tóc xoăn của Ghíp bây giờ như cứng ngắt lại. Ghíp đi lấy một cái ná, ra đứng giữa làng, đưa lên cao:
- Người Kông-hoa bụng ai thù người Hà-ro, theo bok Pa, theo tôi đi đánh!
Đám thanh niên hơn năm mươi người đều đứng dậy. Bok Pa leo lên nhà rông. Ông già bây giờ quắc thước lạ. Râu mép vểnh lên, con mắt như lưỡi mác mới mài, cái ná cầm trong tay, ống tên đeo trên lưng, giọng nói như con cọp già:
- Bây giờ chưa đi ngay được. Phải làm thêm tên. Có bốn mươi cái mác của anh Thế mới mang lên, đem mài hết đi. Ghíp đi vô núi lấy tên thuốc độc, phát cho mỗi người một trăm cái. Tối nay giết gà cúng giàng. Sáng mai đi sớm.
Suốt buổi chiều, Kông-hoa bỏ làm chông. Thanh niên đi mài mác, làm tên. Ban đêm con nít, phụ nữ khóc. Các bà già nhớ lại ngày xưa người Ba-na đánh người Gia-rai, người Gia-rai đánh người Ê-đê, chồng chết, con chết, con cọp trong rừng ra ăn xác người, nước suối đỏ máu, không uống được. Các bà không dám nói gì, sợ cái miệng đàn bà làm cho giàng của đàn ông nổi giận, chỉ ôm con gái khóc.
Bok Pa đi khắp các nhà tìm:
- Thằng Tun đi đâu rồi? Ai lấy chông thuốc độc!
Thằng Tun đi đâu mất, tìm không ra.
Trong làng lửa cháy suốt đêm.
༺༒༻
Núp đứng giữa. Bốn xung quanh, năm chục thanh niên, mười ông già ở trần, cầm ná, đeo tên. Năm mươi lưỡi mác dài mọc lên lởm chởm, sáu mươi cái khiên màu đỏ chót. Trời nắng chang chang. Đêm hôm qua đang ở làng Đê-ta, nghe Tun chạy lên báo tin bok Pa dẫn đám thanh niên đi đánh Hà-ro, Núp đi suốt một đêm về tới đây. Một thứ mệt không biết vì sao, không biết từ đâu đến chẹn ngang ngực Núp. Tưởng không thở được, không nói ra tiếng nữa. Mồ hôi trên trán, trên ngực chảy xuống, ướt đẫm. Núp lừ đừ đưa mắt nhìn chung quanh. Mệt mỏi đè nặng trên hai mí mắt đến gần nhắm hẳn lại.
Bok Pa đứng lên đầu. Bok quay lại nhìn tất cả lũ thanh niên, rồi ngẩng lên nhìn Núp, hỏi:
- Anh Núp, anh có đi đánh làng Hà-ro với người Kông-hoa không? Anh không đi, sáu mươi người này cũng đi. Sáu mươi cái chân này không biết sợ đâu, sáu mươi cái tay này phải biết bắn chết người Hà-ro bụng mới hết tức… Anh không đi à? Bây giờ không đi thì mai mốt, không bao giờ đánh thắng được Pháp đâu!
Núp vẫn không nói gì cả.
Trong đám người nổi dậy một loạt tiếng rào rào, Tun len qua đám đông tới đứng bên cạnh Núp. Bok Pa hỏi lại nữa:
- Anh có đi không?… Sáu mươi người này đi đây.
Bok quay lại kêu lũ thanh niên:
- Lũ thanh niên đeo tên vào! Các ông già đi trước, lũ thanh niên đi sau. Bắt đầu đi!
Tun kéo tay Núp, ngước lên nhìn Núp. Cặp mắt Núp mệt mỏi, từ từ sáng lên. Núp đưa một cánh tay lên nói lớn:
- Bok Pa, tôi cũng đi…
Bỗng nhiên tất cả im lặng, Cái lưỡi cuốc đốt nó đỏ rực lên, ném xuống nước, sủi lên một ít bọt rồi tắt ngấm ngay. Lời nói của Núp bây giờ cũng như thế. Núp nói tiếp:
- Lũ làng đi đâu, tôi làm cán bộ tôi phải đi theo đó. Tôi phải đi theo với lũ làng… Bây giờ trước khi đi, lũ làng phải để tôi nói đã.
Bok Pa:
- Anh nói đi.
Núp đưa tay chỉ thẳng về phía trước. Sáu mươi người đều quay lại nhìn: phía trước, bên máng nước, phụ nữ, bà già, con nít đứng ôm nhau khóc.
Núp hỏi:
- Tại sao lũ ấy khóc?
Bok Pa nói:
- Lũ ấy à… Lũ ấy không đáng làm mẹ, làm vợ, làm con người Kông-hoa đâu, lũ ấy sợ đi đánh chết người Kông-hoa.
Núp lắc đầu:
- Không phải lũ nó sợ đâu. Không đúng đâu. Sao lũ dân quân mấy bữa đi đánh Pháp, không ai khóc?
Bok Pa không trả lời. Ai nấy im lặng. Núp nhìn quanh một lượt nữa. Anh thả tay Tun ra. Tất cả mệt nhọc, tất cả cồn cào trong người bây giờ tiêu tan hết. Núp đã khỏe hẳn lại rồi. Núp biết rõ việc này không phải nói dễ. Chính Núp khi chỉ huy du kích đánh Pháp, thấy người Hà-ro theo Pháp vào cầm roi quất rụng hết lúa ở rẫy, Núp cũng đã giơ ná lên định bắn chết. Nhưng Núp đã nghĩ, đã hạ ná xuống. Anh Thế đã nói với Núp rồi: bắn trúng người Hà-ro, đó cũng không phải là bắn trúng giặc đâu. Núp đã cấm không cho dân quân được bắn chết người Hà-ro. Núp dẫn dân quân đi quanh ngõ khác tìm Pháp… Núp bắt đầu nói:
- Đánh Pháp, cha mẹ không khóc, vợ, con không khóc. Đúng, khóc gì. Pháp tới lấy đất nước mình, phải đánh nó đi. Mình có liều chết, cha mẹ vợ con mới sống được. Còn đánh người Hà-ro… Người Hà-ro đất nước nào? Cũng đất nước mình. Người Hà-ro cũng khổ như mình, cũng bị Pháp áp bức, bóc lột như mình, còn khổ hơn mình nữa. Khi tập trung làng ở Hà-ro năm kia, lũ làng thấy cả rồi đó. Sao mình đi đánh nó? Người Hà-ro cũng có người phải đánh chết. Người đó là cái người ác đi theo Pháp làm to, người đó giống như thằng Chu Rú ở Đê-ô. Người đó lũ làng Hà-ro cũng thù nó. Còn đánh tất cả người Hà-ro, người nghèo, người khổ, thì không đúng đâu…
Núp gặp cặp mắt của Ghíp. Ghíp lẩn ra phía sau, đi xuống suối. Bok Pa vẫn đứng ở hàng đầu. Bok nói:
- Không đi đánh Hà-ro không khi nào thắng nổi Pháp. Làng này ở đâu, mấy người, Hà-ro đều biết rõ hết…
Núp nói:
- Không phải đâu bok ạ. Càng đi đánh người Hà-ro thì càng không thắng được Pháp. Người Hà-ro càng theo Pháp, Pháp càng ngày càng đông, mình càng ngày càng ít. Khi nào không thù người Hà-ro nữa, biết thương, biết nói người Hà-ro nghe. Người Hà-ro cũng biết thương người Kông-hoa, khi đó nhất định Pháp chết.
Bây giờ im lặng, không ai nói gì nữa, Núp kêu bà An:
- Mai An, con của mai đâu?
Bà An bước tới, lau nước mắt, nói:
- Con tôi lấy vợ ở Hà-ro, bây giờ đi đánh Hà-ro…
Rồi bà òa lên khóc…
Lũ làng dần dần giải tán hết. Như một đống lửa tàn. Núp biết nó còn âm ỉ, nó chưa tắt hẳn đâu. Lũ già làng về nhà, ngồi ôm hai đầu gối, gục đầu, không nói.
Núp về nhà. Tun đi theo. Liêu dọn cơm. Núp bỏ đi, Liêu đứng nhìn theo, kêu:
- Anh Núp, miệng anh không biết ăn nữa à?
Núp không trả lời. Anh đứng lại, nhìn Liêu hồi lâu:
- Bụng tôi chưa biết đói… Liêu ạ, năm nay làng mình cháy bốn trăm gùi lúa, chắc đói nữa. Người làng đói ít. Nhà mình tôi đi miết, một mình em ở nhà, mẹ già, con nhỏ, chắc đói nhiều…
Liêu ít nói, mắt lúc nào cũng hơi buồn, chị nhìn chồng:
- Anh làm “đồng chí”. Em vợ người “đồng chí”, em coi tốp làm rẫy chung, em không để mẹ đói đâu. Mẹ đói, em mắc cỡ lắm…
Bok Pa vẫn ngồi ôm hai đầu gối, gục đầu xuống. Núp tới ngồi một bên, Tun ngồi sau lưng. Núp nói:
- Anh Thế đã nói đấy, bok ạ, đánh Pháp còn khổ lâu, là vì còn có những người chưa giác ngộ. Khi nào ai cũng giác ngộ hết thì Pháp phải thua, khi đó mới hết khổ. Muốn cho nó giác ngộ, phải nói nó, nói lâu, nói nhiều. Đánh nó, nó không giác ngộ đâu.
Bok Pa ngẩng đầu lên nhìn Núp, nhìn Tun. Bây giờ bok không nói gì được nữa. Mệt mỏi thấm vào trong xương, trong tủy. Bok cầm tay Tun:
- Anh Núp, tôi biết bụng tôi già mà nghĩ không đúng rồi. Anh người trẻ, biết nói đúng, nói tốt hơn tôi nhiều.
Núp nói:
- Tôi nói đó là do Đảng bày cho đấy bok ạ.
Lửa trong làng tắt dần. Tiếng rựa vót chông kì kà kì kèo vẫn còn nghe mãi.
Làng Kông-hoa mới, chông nhiều gấp ba làng Kông-hoa cũ. Cả chông vót định đi đánh Hà-ro bây giờ cũng đem cắm rào làng. Núi Chư-lây thành một núi chông.
༺༒༻
Hai tay anh Thế ôm chặt cổ Núp, đầu ngả lên vai Núp, mắt nhắm nghiền lại. Anh Thế mê man, không biết gì hết. Núp cõng anh Thế đi trong rừng. Gặp cái cây to chắn đường phải leo qua. Gặp con suối, phải lội qua, nước sâu tới bụng, phải lấy hết sức đưa hai tay đỡ anh Thế lên cao. Nước suối leo lên ngực Núp.
Đi lên bờ, chị Liêu cõng con chạy theo sau, tháo cái chăn của con, trùm lên vai anh Thế. Tiếng súng nổ đùng đùng phía Ba-lang, hòn đá trong núi nổ lại ùng ùng. Chị Liêu hai con mắt ướt mèm:
- Anh Núp ơi, đi mau lên. Pháp đuổi tới rồi đó… Anh Thế không biết chạy nó bắt mất thì sao?
Núp nạt:
- Cái miệng Liêu sao nói nhiều thế. Có tôi đi đây, không sợ gì cả. Pháp còn xa lắm. Pháp tới, tôi chết trước, anh Thế chết sau…
Núp đi đến khi mặt trời đứng đầu mới tới nhà bí mật. Đặt anh Thế xuống rồi, chạy ra suối tìm nước rửa chân cho anh. Rửa xong, nói:
- Liêu ở đây, coi anh Thế, tôi đi tìm trái bắp non.
- Tìm ở đâu?
- Ở rẫy ngoài làng.
- Pháp tới rẫy rồi mà.
- Chưa đâu. Phải đi tìm. Anh Thế không muốn ăn bắp già. Cái răng còn yếu lắm, phải lấy trái bắp non.
Nói chưa hết câu, Núp đã đi khuất cây to ngoài suối rồi. Liêu ngồi một mình. Anh Thế đối với Liêu như người anh ruột. Ngày giáp mùa, nhà muốn đói, anh Thế dốc ruột nghé đổ gạo vào nồi của Liêu, nhường cơm của anh cho mẹ Núp, cho Liêu và Hờ Ru. Lần đầu được lũ phụ nữ bầu coi tốp làm rẫy chung, Liêu sợ quá chối mãi. Anh Thế phải nói bốn, năm lần Liêu mới nghe. Anh bày cho Liêu cách chia công việc cho phụ nữ thế nào, khi họp phụ nữ nói gì. Liêu có gì khó đều đi tìm anh Thế, nhờ chỉ giùm… Liêu nhớ khi nhỏ, anh ruột Liêu đau, Liêu cũng ngồi một bên như thế này. Nhưng Liêu không thương anh ruột bằng thương anh Thế bây giờ đâu. Anh ruột chỉ nói Liêu biết chuyện đi làm rẫy. Anh Thế còn nói cho Liêu biết đất nước mình tại sao mà khổ, người phụ nữ Ba-na khổ thế nào, người phụ nữ Kinh khổ thế nào. Anh Thế nói Liêu biết anh Núp đi làm việc đất nước, Liêu là vợ người đồng chí phải sao…
Liêu kéo chăn đắp cho anh Thế tới cổ. Anh Thế ốm nặng từ hai tháng nay. Anh đi công tác làng Ba-lang, bị trúng chông ở đầu gối. Khi đầu chỉ chảy máu, còn đi về tới rẫy Núp được. Sau lần lần sưng to lên, cái đầu gối bằng cây cột nhà. Không ăn cơm được, không ăn rau được. Không ăn trái bắp được. Bà mẹ bỏ đi rẫy, ngồi miết với anh Thế. Hai con mắt anh sâu xuống, cái má không có thịt nữa. Nửa đêm anh mê man, anh thét lên. Một bàn tay hoảng hốt nắm tay Thế. Thế mở mắt ra: bà mẹ Núp cúi xuống, nước mắt của mẹ nhỏ trên mặt Thế. Bà mẹ hỏi:
- Đau lắm phải không con, Thế?
Thế lắc đầu:
- Không đâu, mẹ ạ…
Rồi nhắm mắt. Từ bữa đó, Thế không tỉnh dậy nữa. Núp bỏ đi công tác làng Đê-ta, làng Kông-ma, đi vô núi tìm con ong lấy cái mật. Con ong đốt sưng tay, sưng mặt. Đem mật về, Thế cũng không ăn. Chỉ nuốt một ít nước bắp thật non, hột trắng và mềm như sữa. Núp cõng Thế ra nhà rẫy có bắp non, đặt ở đó để lấy bắp cho Thế ăn. Ở được mươi bữa, bắp non hết, lại cõng đi tìm rẫy bắp non khác.
Núp giao anh Thế cho mẹ và Liêu trông coi, anh cầm rựa đi lên gần tới đỉnh núi Chư-lây, tìm cái lá cây tốt, đem về rịt đầu gối cho anh Thế. Ở nhà bà mẹ già cõng anh Thế đi ỉa, đi đái.
Anh Thế vẫn không chịu lành. Con mắt không mở, cái miệng không nói. Bà mẹ Núp gọi:
- Thế ơi! Thế ơi!
Bà nắm tay Thế òa lên khóc:
- Núp ơi, chắc anh Thế không sống nổi nữa rồi. Sao con không chịu cúng giàng cho anh Thế. Con không thương anh Thế sao, Núp!
Không, Núp thương anh Thế vô cùng. Từ ngày có anh Thế, việc đánh Pháp khá lên bao nhiêu. Khi đi nói các lũ làng xung quanh, khi đốt làng chạy, khi can không cho bok Pa đi đánh Pháp… mỗi khó khăn đều có anh Thế giúp. Có anh Thế ngày nay Liêu mới khá như vậy… Anh Thế chết đi, công việc khó thêm biết chừng nào. Núp lo cho anh Thế đã hết mọi cách rồi. Nghe ai nói lá gì, con gì tốt cũng đi tìm, đi bắt về làm thuốc, xa mấy, khó mấy cũng không kể. Nhưng tới khi bok Sung nói phải cúng giàng, giàng mới tha thì Núp lắc đầu, nhất định không chịu. Anh Thế đã dặn Núp bốn, năm lần:
- Núp à, người đồng chí không có tin giàng. Người đồng chí biết khổ không phải tại giàng đâu, khổ là tại Pháp, tại người giàu thôi.
Núp cũng tin như anh Thế. Đó là miệng Đảng nói. Núp bỏ cúng giàng. Bà mẹ thấy con không muốn cúng, cũng ít cúng. Nhưng bây giờ anh Thế thế này, mẹ lại nghĩ tới giàng:
- Thôi, phải rồi, giàng bắt anh Thế rồi. Phải cúng, phải cúng thôi, Núp ạ.
Con không nghe. Bà mẹ khóc. Núp nhăn mặt:
- Mẹ ơi, mẹ đừng khóc nữa, lửa nó cũng cháy trong bụng con rồi đây này.
Núp ôm hai đầu gối, gục đầu cắn môi, không muốn để mẹ thấy anh cũng khóc. Hết cách rồi, chịu để cho anh Thế chết hay sao? Hay là cứ cúng thử, may ra… Núp ngẩng đầu lên:
- Mẹ, mẹ đi bắt con gà. Tối nay con cúng giàng cho anh Thế.
Cúng rồi, anh Thế vẫn không bớt. Mẹ bảo cúng nữa. Núp nhất định không chịu. Bây giờ Núp hối hận lắm… Mai mốt anh Thế biết nhất định phê bình. Sợ anh Thế chết quá, phải cúng bậy. Bây giờ, nhất định không cúng nữa.
… Cho tới một bữa, anh Thế mở mắt ra được. Bok Sung nói:
- Nhờ cúng giàng đó.
Thế hỏi:
- Ai cúng?
- Núp cúng đấy.
Núp chắc anh Thế phê bình rồi. Nhưng Thế chỉ cười, không nói gì cả.
Lũ làng mang hột gà tới cho anh Thế để đầy một rổ ở đầu giường. Ban đêm, một thanh niên, một phụ nữ tới ở chung với anh, nói chuyện, hát cho anh Thế khỏi buồn. Liêu cũng hát:
Anh ở trung châu
Không phải ở đây
Anh là người Kinh
Không phải người Thượng
Lòng thương anh rộng
Nên mới lên đây
Chỉ để đánh Tây
Cho mình vui sướng
Anh tới xứ này
Cái núi cũng khác
Cái nhà cũng khác
Ăn uống cực khổ
Nhưng anh cũng cố
Chung giúp đồng bào
Nên phải làm theo
Cái phép người Thượng
Đến mai anh đi
Đường có hai dốc
Chị em tôi thương
Không thấy hình anh
Chỉ thấy dấu chân
Đồng bào nhớ mong
Đợi ngày anh về
Để đón thăm anh…
Trong những ngày này, Thế tổ chức được một nhóm phụ nữ du kích. Chị Du, chị Mây làm chỉ huy.
Núp và Thế lại bắt đầu bàn công tác. Núp lại đi liên miên, ít thấy ở làng nữa. Phải đi tổ chức gấp du kích năm làng, phát lựu đạn của huyện mới gởi cho. Có tin Pháp sắp đi lùng lớn.
༺༒༻
Núi Tơ-ngo cách làng Kông-hoa một buổi đường. Sương buổi sáng không chịu tan, giống như một con gấu trắng rất lớn, cứ bò qua bò lại trên núi.
Năm người du kích đứng ở dưới ngó lên, chỉ trỏ. Con mắt du kích thấy rất giỏi. Dưới bụng con gấu trắng, có nhiều người đi lại. Chúng nó vác cái bao gì, nặng lắm, chất đống lại, đứng thở, rồi đi vác nữa. Ghíp nói:
- Tôi bắn một thằng nhé!
Anh du kích đứng bên cạnh thích lắm:
- Bắn đi! Bắn tên thuốc độc ấy.
Nhưng một anh du kích già hơn, có râu hai bên mép, mũi to, nắm tay Ghíp lại:
- Không được, anh Núp dặn không được bắn mà. Coi cho kỹ thôi. Thấy nó đi, chạy về nói.
Pháp tới hòn núi này từ bữa qua. Lần này nó đi đông, định ở lâu. Lính của nó mặc áo vàng, đeo súng. Du kích phải lấy hòn sỏi con xếp lại từng đống mà đếm, hơn năm trăm thằng. Nó định đi phá mùa lúa đang chín ở năm làng du kích này. Anh Thế đã về tỉnh hội nghị. Núp chỉ huy đánh. Đêm khi hôm, Núp gọi lũ chỉ huy du kích năm làng tới rừng Kông-hoa, bàn cách đánh Pháp lần này. Du kích Kông-hoa và Ta-lung đánh Pháp đi đường 19 vào, du kích Ba-lang đánh Pháp đi đường Đất-lung lên. Đê-ta, Kông-ma chuẩn bị đánh Pháp đồn Pơ-le-bông xuống. Đánh Pháp ở rẫy trước, đánh Pháp trong làng sau. Pháp đi nhiều quá, đánh không nổi thì bỏ cái làng, không cần, lo giữ cái rẫy trước đã. Lũ làng già yếu phải cho vô nhà bí mật, đi tới đâu cắm chông tới đó. Không được thả chết lũ làng. Lũ du kích cầm chiếc coong[24] của nhau, đưa lên, bóp mạnh, miệng hứa:
- Pháp tới rẫy nào, rẫy đó có máu Pháp.
Ở Kông-hoa, Núp chỉ huy mười lăm du kích bố trí ở suối Thi-om, Tun chỉ huy mười lăm du kích bố trí ở suối Tơ-lam, Núp nói với du kích:
- Trong rừng Ba-na, cái gì cũng quý. Sợi mây làm nhà, ngọn rau ăn no bụng, cây to làm cột, cây nhỏ làm củi. Trước kia mình chưa có đông người, mình để cho Pháp lấy nhiều. Bây giờ đừng cho Pháp lấy một sợi mây. Lũ du kích có đồng ý không?
- Đồng ý!
- Ai đánh giỏi, không biết sợ Pháp, bắn chết Pháp nhiều, mai mốt Bok Hồ thưởng. Ai đánh xấu, sợ Pháp mai mốt phê bình.
Du kích hỏi:
- Đánh Pháp ở đây Bok Hồ có biết không?
- Ở đâu Bok Hồ cũng biết.
Du kích nói:
- Không ai đánh xấu đâu, nhất định lần này rẫy làng có nhiều máu Pháp…
Đêm hôm qua Núp cho du kích ngủ cho khỏe tay, khỏe chân, sáng mai đi đánh. Tảng sáng. Núp thức Ghíp và bốn du kích dậy, bảo đi ra núi Tơ-ngo coi Pháp. Núp dặn:
- Không được bắn. Phải có miệng tôi nói, tay Ghíp mới được bắn.
Thế mà bây giờ Ghíp quên rồi… Một ngọn gió từ trên núi Chư-lây thổi xuống, đẩy hết sương đi. Nắng sơn vàng đỉnh núi Tơ-ngo. Con mắt Ghíp sáng lên nhấp nhánh:
- Ngó kìa, ngó kìa, thấy không?
Pháp kéo xuống núi Tơ-ngo đông lắm, nhiều đường. Một đường về suối Ba-lang, một đường về suối Thi-om, một đường về suối Tơ-lam. Ghíp nói:
- Hai anh về nói anh Núp ngay đi!
- Anh cũng về.
- Tôi về sau. Tôi phải coi nữa đã.
Ghíp núp sau một cây to. Thấy Pháp rất rõ ràng: thằng nào cũng có súng. Có ba súng to, một thằng vác súng moóc-chi-ê rất nặng. Ghíp muốn bắn quá. Nhưng sợ anh Núp, không dám. Nó tới gần, cách một trăm sải tay, Ghíp lùi dần. Vừa lùi vừa cắm chông, lùi tới đâu cắm chông tới đó. Núp giao cho Ghíp hai trăm chông thuốc độc, dặn kỹ: cắm chỗ nào phải nhớ rõ, sau Pháp về phải đi nhổ hết, không để đồng bào đạp. Tới chỗ đầu mối đường bí mật, Ghíp vụt chạy: bốn phía toàn là chông, bước lộn một bước là trúng chông ngay. Nhưng Ghíp đã quen, như con sóc nhảy trên cây. Ghíp chạy vùn vụt trong rừng, đầu tóc quăn thoáng qua thoáng lại trong lá cây như cái đuôi một con sóc, Ghíp gặp Núp gần khu hầm chông:
- Pháp tới đâu rồi?
- Nó tới cây kơ-đôn to đấy.
Tới đầu cây kơ-đôn là bắt đầu rừng chông của Kông-hoa.
- Nó sắp chảy máu rồi đấy. Ghíp đi mau về suối Thi-om, có năm du kích ở đó, nói nó chuẩn bị “chông trên trời”, tôi ở đây coi “chông dưới đất” với năm du kích.
“Chông trên trời” là những cây lồ ô dài, vót nhọn, cột lủng lẳng trên cây cao, khắp hàng nửa cây số trong rừng. “Chông dưới đất” tức là hầm chông. Núp còn lựa những cây to, chặt gần đứt gốc, rồi cắm thật nhiều chông vào thân cây. Khi nào Pháp tới, giật dây, cây gãy, ngã xuống, chông trúng vào Pháp ngay…
Ghíp đi được một chặp thì Pháp tới. Nó không nói gì. Núp thấy rất rõ. Một thằng đi đầu lấy súng thổ thổ mặt đất. À mày thổ thử có hầm chông không đấy à? Chưa có đâu, Pháp ạ, tao cho mày cái tên này trước, mày sụp hầm chông sau nhé. Núp ngắm đúng giữa ngực nó, bắn một phát. Trúng rồi! Hóp, du kích đi theo, bắn tiếp một phát nữa. Trúng nữa, Pháp chạy tản ra. Đất dưới chân nó tự nhiên lõm xuống: sụp hầm chông rồi! Núp kêu:
- Cà tầu[25]!
Sáu người chạy thoăn thoắt, nhớ kỹ con đường bí mật. Pháp bắn loạn xạ trong núi. Cái núi cao nó cũng nổ lại. Pháp sợ lắm, dừng lại nghe. Rồi nó bắn nữa: “Văn xê! Văn xê!” nó đuổi theo. Núp tới nước suối Thi-om rồi.
- Ghíp ơi, có chông trên trời chưa?
- Có hết rồi!
- Du kích chuẩn bị nhé, nó tới đấy!
Nó tới rồi. Moóc-chi-ê nổ toé nước suối Thi-om. Hóp nắm tay Núp:
- Có chết không, anh Núp!
- Không chết đâu. Pháp chết. Đất nước mình không chết… Nó tới đấy. Thấy không? Cái mặt nó sợ lắm, thấy chưa? Tôi bắn trước nhé. Hóp bắn theo nữa.
Núp bắn một phát. Trúng một thằng. Hóp bắn, Ghíp, Tun, Gia đều bắn một loạt.
- Giật chông trên trời đi!
Những cây lồ ô dài, nhọn từ trên trời một loạt lao xuống, cắm trước mặt, cắm sau lưng, cắm trên đầu, trên lưng Pháp! Pháp bắn súng lên trời. Nó càng rớt xuống nữa.
Ghíp dẫn mười du kích chạy hết ra rẫy. Núp ở lại, ngồi sau hòn đá suối. Pháp dừng lại, nó lấy vải trắng quấn đầu thằng bị thương. Nó kêu tiếng Pháp, nhiều lắm, Núp nghe không hiểu, đoán chắc là nó kêu đau.
- Đau gì! Sao mày giết người Ba-na không kêu đau…
Nó chia ra làm ba. Một số đi thẳng vô làng, một số đi ra rẫy suối Thi-om, một số đi ra rẫy suối Kơ-ko. Núp muốn chạy về làng trước. Làng không còn gì nữa, con heo, con gà, con trâu, hột lúa, đem vô chỗ bí mật hết rồi. Nhưng Núp không muốn cho nó đốt làng. Từ ngày đánh Pháp đến nay, Núp đã dẫn làng Kông-hoa chạy chín lần, chín lần làm nhà mới, chín lần làng bị cháy. Lần này nó đốt nữa? Không được, không cho nó đốt nữa! Núp chạy thẳng về làng. Nhưng, tới nửa đường, dừng lại. Giữ làng, bỏ rẫy à? Không được, phải giữ rẫy trước. Anh Thế, huyện đã dặn Núp như vậy. Khi Pháp tới đông, cần giữ cái rẫy trước. Còn lúa, ăn no làm mấy cái làng cũng được. Pháp cố phá rẫy, không giữ được rẫy thì thua nó. Núp quay lại, vụt chạy ra rẫy, gặp Ghíp. Cho Ghíp dẫn tám du kích tới suối Kơ-ko đánh Pháp ở đó. Núp chỉ huy bảy du kích đánh ở suối Thi-om.
Lúc đó, nghe súng nổ phía suối Tơ-lam, tất cả đứng im. Hình ảnh Tun, khỏe mạnh, cằm vuông, cầm lựu đạn hiện lên trong đầu Núp:
- Tun đánh rồi!
Núp nói:
- Thôi Ghíp đi mau. Tun đánh rồi, Pháp nhất định chết nhiều. Lựu đạn Tun nổ đấy. Ghíp cũng phải đánh Pháp chết nhiều như Tun…
Một lát sau, nghe súng nổ ở suối Kơ-ko. Rồi súng nổ ở suối Thi-om. Núp bắn chết hai Pháp nữa. Nó cũng cứ vào rẫy. Mỗi đứa cầm một cây roi dài, quất bừa lên lúa. Cây lúa gãy gục xuống. Hột lúa bắn tung toé lên. Núp đã nhắm kỹ rồi. “Pựt!” Trúng rồi. Chạy à? Núp bắn liên tiếp hai phát nữa. Hóp nhảy lên trước, bắn theo. Pháp chạy ra bờ rào, định đặt súng, sụp thêm ba hầm chông. Chín thằng phải khiêng ba thằng, khiêng cả bàn chông…
Trời nắng gắt. Pháp rút hết về núi Tơ-ngo rồi. Núp nằm ngửa, gối đầu lên một gốc cây, nhắm mắt. Con chim gì màu đỏ rất đẹp đậu ở đầu cành cây gắm, kêu líu la líu lo.
Làng Kông-hoa không cháy. Pháp tới đầu làng, sập hai hầm chông, sợ có du kích, chỉ bắn bừa rồi rút lui. Núp ngủ quên đi lúc nào không biết. Một chấm nắng tròn trên mắt, Núp ngủ nụ cười còn nguyên trên miệng.
Có ai nắm tay Núp, lay mạnh. Mở mắt, thấy chị Mây.
- Anh Núp, dậy ăn cơm chớ, ngủ không no được đâu!
Núp ngồi dậy:
- Ô, lũ phụ nữ, khi mai đi đâu nấu cơm được! Không sợ súng à… giỏi quá. Bok Hồ khen lũ phụ nữ trước đấy.
Chị Mây dọn cơm cho Núp và Ghíp ăn. Ghíp bưng chén cơm, đi ra một góc rẫy. Núp biết rồi, anh kêu:
- Ghíp, đi đâu đó?
Mọi người cười ồ. Hai má chị Mây đỏ lên. Núp vui trong bụng quá. Anh biết Mây rất thương Ghíp. Thương Ghíp bây giờ biết làm rẫy giỏi, đánh Pháp không sợ chết, miệng biết nói tốt không sai nữa rồi. Nhờ có Đảng, có Bok Hồ, người như Ghíp cũng đứng lên được rồi. Đất nước Ba-na mỗi ngày thêm tốt.
Buổi chiều nghe súng nổ phía Ba-lang. Ghíp muốn đi Ba-lang, giúp lũ du kích ở đó đánh nữa, nhưng Núp không cho.
- Ba-lang có Xá chỉ huy rồi. Ghíp còn phải chuẩn bị nữa. Pháp còn đi nữa đấy.
Trời tối. Ông trăng nhỏ trên trời. Du kích về họp trong làng. Đuốc đốt lên soi mặt từng người. Lũ chỉ huy Ba-lang, Đê-la, Tu-lung, Kông-ma cũng tới đủ. Ngày nay Pháp chết ở Ba-lang bốn đứa, ở Kông-hoa mười sáu đứa. Không lấy được hột lúa nào.
Núp đứng ra nói:
- Mai mốt anh Thế lên tôi nói anh Thế biết về nói lại huyện, huyện nói lại Bok Hồ có Xá, có Tun, có Ghíp bắn chết Pháp nhiều. Giữ được rẫy, bụng không biết sợ… Bây giờ, chưa nghỉ được. Pháp còn, phải đi đánh nữa.
- Đánh ban đêm à?
- Đánh ban đêm. Đêm nay, phải ngủ ở núi Tơ-ngo. Ngày mai nó đi lấy lúa nữa. Người du kích có muốn cho con mắt thằng Pháp ngủ ngon không?
- Không!
- Có muốn cho cái chân nó ngày mai đi lùng rẫy nữa không?
- Không!
- Bây giờ làm thế này: mỗi làng cho mười lăm du kích mang chông thuốc độc lên cắm quanh núi Tơ-ngo. Cắm hết chông, ném lựu đạn, rồi đi về.
Núp chỉ huy đi, tất cả bảy mươi người. Núi Tơ-ngo đêm đó thành một núi chông thuốc độc. Nửa đêm, Pháp nghe tiếng lựu đạn nổ bên trại, thấy tên bắn vào tứ phía găm trên lều vải. Nó dậy bắn lung tung. Hòn đạn cháy trên trời đỏ lòm. Ghíp nằm dài cười mãi:
- Ô, Pháp ơi, anh Núp bày du kích làm cho con mắt mày ngày mai buồn ngủ rồi!
༺༒༻
Ngày sau, ngày sau nữa, bốn ngày tiếp Pháp không xuống núi Tơ-ngo được. Núp cho du kích các làng tới ngồi dưới chân núi, Pháp ra đứa nào bắn chết đứa nấy. Đi ra thêm, trúng chông thuốc độc, chết ngay, Pháp phải ở miết sau cái bao to, bắn moóc-chi-ê ra, không ăn thua gì.
Núp đi coi hết các làng. Làng nào chưa nhiều chông, phải làm thêm. Ban ngày du kích chia nhau đi giữ hết các rẫy, các nhà bí mật. Lũ người già yếu rút lui vô rừng thì vót thêm chông, cho người mang ra cho du kích. Rẫy lúa nào đã chín thì du kích gác cho lũ làng ra gặt gấp. Tối du kích lại đi cắm chông núi Tơ-ngo nữa…
Buổi trưa, ai cũng ngủ. Chỉ còn người gác trên chòi cao. Núp đi tìm một cái gùi, ra ngồi, giữ rẫy, lượm những hột lúa bị Pháp lấy cây đánh rụng hôm trước. Lúa đó là của chị Du. Ghíp đang ngủ, thức giấc thấy Núp lượm lúa, cũng đi tìm một cái gùi, lặng lẽ ra ngồi lượm bên Núp…
Ngày thứ năm du kích gác trên núi Chư-lây thấy Pháp cất bớt cái bao to. Núp cho đi nói tất cả du kích:
- Pháp sắp đi về rồi. Lũ thanh niên phải làm thêm chông nữa, lũ phụ nữ nấu cơm ăn hai ngày, du kích đuổi theo đánh Pháp, đánh tới đồn.
Sáng ngày thứ sáu, Núp dẫn mười lăm du kích ra núi Tơ-ngo. Thấy Pháp mang súng về thật. Núp giao cho Ghíp chỉ huy năm người đuổi theo sau lưng Pháp, còn Núp dẫn mười người, đi quanh trong núi đón đầu đánh.
Pháp mới xuống chân núi, Ghíp đánh ngay, Pháp bắn lại nhiều lắm, dừng lại, lấy vải quấn thằng chết mang đi. Ghíp đuổi theo bắn nữa. Pháp chạy. Ra tới bờ suối nước Kơ-lô, Ghíp treo bẫy đá. Pháp đang đi, nó nghe cái cây nói chuyện. Nó chắc chỗ này hết du kích rồi, con đường không thấy chông nữa. Tự nhiên, nó nghe hòn núi trên đầu nó nổ. Ngó lên. Giàng ơi! Đá chạy xuống, đá chạy xuống! Nó vụt chạy. Đá đuổi theo. Nó chạy chừng nào, đá đuổi chừng nấy. Đá cứ chạy theo đường mòn, nhảy tưng tưng như con cọp. Pháp sợ quá. Nó la um sùm. Nó chạy vô núi. Nó vấp một cái dây. Cái dây đứt “phựt”, bốn cái lao dài, nhọn, sáng phóng ra; trúng thằng Pháp ở giữa ngực. Nó trúng mang cung rồi! Nó hoảng quá không dám vô bụi nữa, phải chạy ra đường. Đá đuổi kịp rồi. Đá nhảy tới trên lưng nó. Một thằng Pháp té giúi mũi xuống, đá đấm vào lưng nó. Nó chảy máu ra ở miệng, ở mũi…
Ghíp đánh bẫy đá rồi bỏ chạy trong rừng. Pháp chôn thằng chết xong, ngồi ăn cơm. Ghíp leo lên cây coi. Nó ăn cái gì, không phải cơm:
- Ăn cái thứ đó, hèn gì cái bụng nó xấu.
Pháp ăn lâu lắm. Ghíp chờ miết, nóng ruột:
- Ăn sao lâu thế, không đi về cho rồi. Anh Núp chờ mày trước kia kìa.
Một thằng Pháp đứng lên, ngó bốn phía. Bỗng nó thấy Ghíp, Nó chụp cái súng, nói “xí lô xí la”, chỉ lên cây. Ghíp chửi to:
- Cha thằng Pháp, đất nước tao, mày chỉ gì?
Pháp đưa cái súng lên. Ghíp nhảy ào xuống, kéo năm du kích chạy. Pháp đuổi theo, sụp hai hầm chông nữa. Thôi, nó mệt rồi, nó không đuổi nữa. Nó phải đi về. Trên đường nó đi về, anh Núp cắm chông không còn chừa một chỗ. Thằng Pháp đi đầu thấy bốn cái chông to giữa đường. Nó bắn lung tung rồi chạy lại, định nhổ. Tự nhiên, cái cây to bên đường ngã nhào xuống, đè lên lưng nó. Cái cây toàn chông đen, đâm vào ngực nó năm, sáu mũi. Nó chảy nước miệng, mặt nó tím lại như một con khỉ, hai tay co quắp: nó trúng chông thuốc độc. Nó hết biết thở.
Anh Núp đứng trong bụi thấy rõ hết. Đợi cho cả bọn xúm lại kéo thằng chết, anh ném một quả lựu đạn nữa. Du kích bắn ào vào luôn mười phát tên. Rồi bỏ chạy, đi xa nữa, cắm chông nữa, đón đầu, đánh nữa.
Trời tối, mưa lớn. Pháp ngủ lại trong rừng. Du kích leo lên cây nằm. Sáng hôm sau lại xuống đánh. Suốt ngày đánh tám lần. Tối đến Pháp mới tới gần đồn. Nó ùa nhau chạy vào đồn. Bỗng nó la lên, dừng cả lại: ngay sát đồn nó, du kích cũng cắm chông từ khi nào. Lại thêm sáu thằng bị chông thuốc độc, tím mặt, chết ngay.
Pháp vào trong đồn rồi. Pháp chôn thằng chết, cho thuốc thằng bị thương, rồi bắn moóc-chi-ê ra núi. Nhưng không thấy du kích đâu cả. Chỉ có ông trời mưa và chớp sáng lòe, nổ rầm rầm, đánh lại Pháp!
༺༒༻
Đồng chí Cận, bí thư huyện An-khê hỏi Núp:
- Huyện định thưởng làng Kông-hoa, bây giờ đồng chí Núp muốn thưởng cái gì?
Núp ngồi, suy nghĩ mãi. Anh nói cái gì bây giờ. Cái gì Kông-hoa cũng thiếu. Anh nghĩ tới lũ làng ở nhà. Cái muối, cái vải, cây kim… cái súng. Nếu anh mang về cho Tun một cái súng, Tun sẽ sướng biết mấy. Nhưng súng chắc huyện không cho đâu. Súng quý lắm, làng Kông-hoa còn phải đánh giặc nhiều nữa, giết được nhiều Pháp nữa, mới đáng được thưởng cái súng…
Đồng chí bí thư nhắc lại:
- Đồng chí muốn thưởng gì, đây là phần thưởng của Bok Hồ gởi cho làng Kông-hoa đây.
Núp nói:
- Tôi muốn thưởng cho lũ làng Kông-hoa… một gùi muối, một ít cái rìu rựa…
Đồng chí bí thư cười:
- Thế thôi à?
Núp cũng cười, không biết nói sao nữa. Anh ở lại huyện một đêm. Sáng hôm sau, đồng chí Cận đem gởi cho Núp một gùi muối đầy, sáu cái rìu rựa, hai cây súng dài, một ảnh Bok Hồ, một lá cờ và một trăm cây kim…
Núp mừng quá, đứng nhìn đồng chí Cận mãi, hai con mắt cứ nhòe dần, rồi nước mắt chảy xuống má ròng ròng. Núp nói:
- Người Kông-hoa cảm ơn Đảng, cảm ơn Bok Hồ.
Hôm nay, ảnh Bok Hồ treo giữa nhà rông, dưới lá cờ. Mỗi buổi sáng, trước khi lên chòi gác, trước khi đi ra rẫy, lũ làng tập trung ở nhà rông chào Bok Hồ.
- Con người ở xa, cái hình ở đây. Bao giờ độc lập, làm con đường to từ An-khê lên đây, tất cả lũ làng đi làm hết, mấy ngày cũng được, rồi thúc chiêng đón cái xe Bok Hồ tới thăm Kông-hoa.
Núp mang một cây súng, đứng ra giữa nhà rông, ngó lên ảnh Bok Hồ nói:
- Chúc Bok Hồ sống lâu như cái cây to nhất trong rừng già, tỏa bóng cho tất cả con cháu.
Mọi người đều theo Núp, tới giữa nhà rông, lấy một hạt muối, nói một câu chúc Bok Hồ, rồi ăn muối. Hột muối của Bok Hồ gởi cho những người con Kông-hoa đánh giặc giỏi ở giữa rừng núi Tây Nguyên, thấm vào bụng, vào lòng, chạy vào trong máu, trong thịt.
༺༒༻
Ông trăng mang một cái quầng tròn màu xanh, màu tím, màu gì nữa úa như lá cỏ khô, như da mặt con người đau.
Con chim chèo bẻo kêu, lạnh lẽo. Nửa đêm rồi, hai con mắt muốn ngủ quá. Nhưng hai vai ê ẩm, lâu lâu lại đau nhói lên, đau quá, đầu phải tỉnh lại, mắt phải sáng ra. Núp đeo hai vai hai ống nước dài, leo theo đường dốc từ dưới suối Thi-om lên rẫy. Bóng hai người đi theo sau, hai vai cùng mang hai ống nước, lặng lẽ, như không biết nói: Liêu và mẹ Núp. Ở phía dưới kia, chỗ gần hòn đá giống cái đầu một con nai, một bóng người cũng chậm rãi, mệt nhọc, leo từ suối lên dốc, lên rẫy: đó là anh Thế.
Công việc làm đêm như thế này kéo dài đã hơn một ông trăng nay rồi. Năm nay không biết vì sao trời nắng ghê quá. Một khu rừng suốt từ Kông-hoa ra tới đường 19 trụi hết cả lá, đi trong rừng cũng nóng rực như đi giữa bãi tranh. Suối Tơ-lam, suối Kơ-lô khô hết. Đá dưới lòng suối quanh năm ở dưới nước, bây giờ nằm trơ ra, cháy hết cả rêu, lỡ bước lên một bước là phồng chân ngay. Chỉ có con suối Thi-om nước còn chảy róc rách. Rẫy trong làng khô cháy hơn một nửa. Còn một nửa, ông trăng có quầng này, nắng không biết khi nào mới thôi, chắc cũng cháy luôn hết.
Núp lo hết sức. Cháy rẫy, bụng đói thì không còn tay chân mà đánh giặc nữa.
Anh đi hết làng này qua làng khác, hỏi lũ già làng có cách gì cứu lúa. Già làng đều lắc đầu:
- Xưa nay chưa có ông trời nắng thế này…
Núp hỏi anh Thế. Anh Thế cũng không biết làm sao. Chỉ còn một cách làm theo như người Kinh, đi múc nước mà tưới lúa, tưới bắp. Nhưng người Ba-na từ đời ông bà đến nay không tưới lúa khi nào. Bây giờ tưới có được không, đất này có chịu ăn nước suối không? Người già sợ, không biết giàng có cho không. Núp phải làm thử trước một rẫy, thấy khá. Bây giờ suốt đêm cả làng mang mỗi người hai ống tre dài, mò xuống suối Thi-om múc từng hột nước tưới những đám rẫy rộng hàng trăm sải tay, dài hàng trăm sải tay. Đất khát nước lắm, ống nước thì nhỏ, đổ xuống chưa kịp cầm ống lên, đất đã nuốt hết nước rồi. Kiên nhẫn tưới đêm này qua đêm khác, thức trắng cả con mắt. Ban ngày không tưới được, sợ đất nóng quá, chết lúa chết bắp. Núp nói lũ làng phải tưới theo tốp làm rẫy chung: “Đánh cái nắng cũng phải biết đoàn kết như đánh thằng Pháp thì mới thắng được”. Núp còn đi nói Ba-lang, Đê-ta, Ta-lung, Kông-ma cũng đi tưới, cứu lúa…
Núp đổ xong hai ống nước, mệt quá, ngồi phịch xuống một gốc cây. Trong đầu nhảy lộn, màu xanh, màu đỏ, rồi đen hết, mờ hết. Núp biết ngồi một chút nữa là ngủ ngay. Cố duỗi cái chân ra, duỗi mãi không nổi. Núp giật mạnh cánh tay, choàng tỉnh dậy. Mồ hôi ướt hết cả trán, cả hai màng tang[26]. Tay cầm hai ống, lấy hết sức đứng dậy. Và tự nhiên nhớ lại câu chuyện anh Thế hỏi Núp từ buổi sáng. Anh Thế về huyện họp, trở lên nói với Núp:
- Bộ đội sắp lên…
Núp không nghe được gì nữa. Giàng ơi, bốn năm rồi. Bây giờ bộ đội lại lên. Đợi biết bao nhiêu. Những anh bộ đội ông Dũng, những anh bộ đội đi đánh đồn Dak-pơ, Mang-giang, Pơ-le-bông… Khi nào các anh bộ đội lên?… Mai phải không?… Mốt phải không?… Lên bao nhiêu? Đông không? Nhiều không?
Anh Thế nói:
- Bộ đội này khác bộ đội ông Dũng năm 47, 48. Bộ đội này tên là bộ đội địa phương. Ít người hơn, cái súng cũng nhỏ hơn. Đi lên đây, không phải đánh Pháp một mình. Đi lên đây là để bày du kích đánh Pháp chung với du kích… Nhưng bộ đội chưa lên được ngay bây giờ. Phải chuẩn bị nhiều đã; mà ở xã còn thiếu cán bộ. Chỉ mới năm làng ở đây là khá, còn các làng chung quanh chưa có ai đi nói. Ủy ban xã cần có một cán bộ người Ba-na nữa…
Thế dừng lại, suy nghĩ một tí, rồi nhìn thẳng Núp, nói tiếp:
- Huyện định cử anh Núp làm cán bộ xã. Anh Núp thấy có được không?
Thế biết tất cả lo lắng của Núp: Kông-hoa, Ba-lang, Đê-ta, Ta-lung, Kông-ma sắp đói bây giờ. Núp đi, ai coi? Đói thì nhất định năm nay thua Pháp. Không khéo mất cả Ba-lang, Đê-ta, Kông-ma. Nhưng không đi, xã đang cần cán bộ người Ba-na làm sao? Ai đi chuẩn bị cho bộ đội lên?…
Anh Thế để một tay lên đầu gối Núp, hơi cười, nói:
- Anh Núp ạ, huyện cũng biết rõ hết tình hình Kông-hoa, Ba-lang, Ta-lung… rồi. Nhưng huyện thấy bây giờ anh đi cũng được. Lũ cán bộ trong làng bây giờ đã khá hơn, làm thay anh được rồi.
Núp chưa trả lời anh Thế ngay được. Vẫn còn lo. Đến gần sáng, mới tưới rẫy xong. Núp và Thế tới ngồi dưới một gốc cây. Núp đã nghĩ rồi. Anh nói:
- Bây giờ huyện kêu tôi lên xã, tôi phải đi. Bao giờ đi, anh Thế?
- Tùy anh, mai hay mốt cũng được.
Núp ngồi im một lát, rồi quay lại:
- Nhưng, tôi nói cái này, anh về hỏi giùm huyện có được không. Cái này tôi định nói lâu rồi, nhưng bây giờ tôi mới nghĩ kỹ, miệng tôi mới nói đây. Tôi nói huyện cho bốn người Kông-hoa: bok Pa, Tun, Ghíp, Xíp làm người Đảng. Làng Kông-hoa có người Đảng thì tôi đi cũng được. Lũ làng đó cũng đi nói các làng quanh núi Chư-lây được nữa đấy…
Núp dừng lại một tí, rồi nói tiếp:
- Anh Thế ạ, tôi nói lũ đó làm người Đảng được là thế này: bốn người đều biết làm rẫy giỏi, đánh giặc giỏi, đoàn kết giỏi…
Ngày hôm sau Thế về huyện. Một tuần trở lên: huyện đồng ý kết nạp bốn người Kông-hoa và chỉ định Núp làm tổ trưởng Đảng.
Mười ngày sau, Núp lên làm Ủy ban xã. Phải đi công tác xa, xuống tới Đê-mô, Nga-gió. Cứ tới trăng sáng, Núp lại về họp đồng chí. Lũ làng cũng tới nghe và nói chỗ nào đồng chí đã tốt, chỗ nào đồng chí còn sai cho biết, mai mốt không làm sai nữa.
Bốn đồng chí đều khá: Tun làm chỉ huy du kích, Ghíp làm phó, bok Pa coi việc làm rẫy, Xíp coi việc làm nhà bí mật, lo cho lũ làng già yếu chạy Pháp…
Núp đi công tác đâu xa, hai đêm, ba đêm cũng cố về Kông-hoa một lần, đi tưới rẫy với lũ làng. Đến khi sao rua gần lặn mới mang ống tre ra về. Trong rừng khua nghe vang lên tiếng hát của Ghíp, Xíp, Tun, bok Pa cao và chắc chắn…
… Đi lên nào anh em
Ta hơn nghìn con chim
Chim đrao và chim ling
Khắp nơi đồng chí mình…
Chim đrao là con chim to nhất, khỏe nhất của núi rừng Tây Nguyên, người Ba-na thường tự ví mình như chim đrao. Tiếng hát của những người đồng chí vang trong rừng, làm cho ngực Núp nóng ran lên, tay chân quên cả mệt mỏi. Đất nước Ba-na tốt đẹp, Núp cũng là một con chim đrao. Quanh anh bây giờ càng có nhiều con chim đrao, thành một đàn chim, mỗi ngày một đông. Anh đi làm cán bộ xã, không còn lo nữa.
༺༒༻
Tưới rẫy khổ như vậy, tháng mười làng Kông-hoa vẫn đói. Bộ đội địa phương lên đúng vào tháng mười. Bộ đội ăn rau, nhường nửa gạo cho đồng bào, đi phát rẫy thêm cho đồng bào. Cứ hai ba ngày phát rẫy, hai ba ngày dẫn du kích ra đường 19, nổ súng, bắn chết Pháp. Huyện gởi cho Kông-hoa, Ba-lang, Kông-ma một trăm gùi gạo của Bok Hồ…
Rồi có lệnh: đi khiêng đạn cho bộ đội lớn đánh Pháp. Xôn xao trong làng, giành nhau đi. Núp ở xã về. Anh bảo Tun phải ở nhà chỉ huy du kích. Ghíp dẫn hai mươi thanh niên, tám phụ nữ đi.
Xuống quá sông Ba, lũ người của Ghíp đi trong rừng, gặp bộ đội. Không dám đốt lửa lên coi mặt. Chỉ đứng sững trong bóng tối, thấy bộ đội đi qua trước mặt. Cái súng lớn lướt ngang qua, vụt một cái, cái đạn dài như con heo, đen ngòm. Ghíp líu lưỡi, chỉ nói được một câu:
- Anh bộ đội ơi, anh bộ đội mạnh khỏe nhé. Đánh giết nhiều Pháp cho người Ba-na làm rẫy tốt nhé…
Lũ Ghíp đi khiêng đạn hơn một tháng vẫn chưa thấy về. Làng mong mỏi con mắt…
Một buổi sáng, bỗng có máy bay Pháp đi thả bom lung tung trong rừng. Nhưng khói bom tan rồi, chỉ có hòn đá bể, còn thì đủ thứ hoa rừng cứ nở. Tiếng bom im. Lỗ tai nghe có tiếng súng khác. Biết không phải súng Pháp. Súng này ít hơn, chắc chắn hơn. Tiếng súng dội vào trong núi đá, cả làng không ai làm việc được, tụm năm, túm ba bàn tán…
Đêm đó, Núp dẫn hai trăm dân công lên lấy đạn của bộ đội cất trên núi Kông-chang. Nửa đêm tất cả ra sườn núi, ngó về phía Kinh. Trong đêm mờ mịt, lạnh và rất im lặng, bỗng chớp lên một cái. Rồi nhiều tiếng nổ dữ dội, rung chuyển cả núi rừng. Lũ người dân công nắm lấy tay Núp, hỏi rối rít:
- Bộ đội đánh đồn nào, anh Núp?
- Đánh đồn nào, anh Núp?
Huyện đã cho Núp biết từ sáng nay. Núp giữ mãi, không nói ra được. Bây giờ… hai cái pháo sáng, một xanh, một đỏ bay vụt lên trời. Hai cái pháo sáng nữa. Hai cái pháo sáng nữa. Núp nói:
- Lũ dân công ơi, bộ đội lấy ba cái đồn Tú-thuỷ, Cửu-an, Eo-gió rồi đấy. Chỗ có lửa cháy sáng đó…
Dân công ào ào mang đạn đi xuống núi.
Mấy ngày sau nữa, liên tiếp nghe tin bộ đội lấy đồn Đầu-đèo, Thượng-an, đánh chết Pháp một tiểu đoàn trên đường Hoàng Hoa Thám, đánh xe Pháp trên đường 19. Cái súng to nhất ở Thượng-an, bộ đội cũng lấy về rồi…
Núp lo việc dân công, việc đi nói các làng có lĩnh súng Pháp nên nộp cho bộ đội, việc cho du kích dẫn đường bộ đội, ngày không ngủ, đêm không ngủ, râu mọc dài, cái cằm nhọn, con mắt sâu xuống.
Một bữa, huyện kêu Núp và Thế lên nói chuyện với đồng chí Cận. Đồng chí Cận nói cho biết làng Hà-ro bây giờ muốn chạy làng, chống Pháp. Cán bộ đã vô trong đó, nói chuyện nhiều lần rồi. Nhưng còn khó: Kông-hoa, Ba-lang, Đê-ta, Kông-ma, Ta-lung mới bị đói, chưa khá được mấy. Bộ đội còn đi đánh nữa, gạo dưới Kinh chưa gởi lên được, làng Hà-ro đông đến bốn trăm người, chạy làng lấy gì mà ăn, ai nuôi? Nhưng không chạy làng, sau này khó chạy nữa. Pháp sẽ giữ kỹ hơn. Đồng chí Cận hỏi Núp có cách gì không?
Núp nghĩ một đêm. Sáng sớm hôm sau, anh nói với đồng chí Cận:
- Làng Kông-hoa, làng Ba-lang nuôi lũ Hà-ro được một mùa. Rồi lũ nó làm rẫy ăn mùa sau… Cũng khó lắm nhưng Kông-hoa bây giờ có nhiều đồng chí rồi, làm được…
Cận nhìn Núp. Cặp mắt đỏ của Núp nhìn thẳng. Trên má, trên trán, những làn nhăn chín chắn. Cận làm bí thư huyện An-khê đã ba năm nay. Đã nhiều lần, Cận nghe cán bộ báo cáo tỉ mỉ về Núp. Tự trong thâm tâm, anh hết sức mến và kính trọng đồng chí cán bộ Thượng du ưu tú đó.
Đêm đó, Cận bàn với Núp đến khuya. Sáng hôm sau, Núp ra về.
Núp thấy nắng màu vàng màu xanh trên lá cây…
Tổ Đảng họp suốt đêm. Càng khuya càng gay. Bốn đồng chí đều đồng ý phải cứu Hà-ro chạy. Lúc đầu Ghíp không chịu, nhưng sau bàn đến khuya, Ghíp cũng thấy đúng. Nhưng còn một chuyện bàn mãi không ra: mùa tới Kông-hoa đang lo đói nữa. Nhất là cho Hà-ro bao nhiêu?… Đến bốn trăm người, suốt một mùa, làm sao nuôi nổi? Ba-lang, Kông-ma rẫy gần suối lớn, khá hơn một chút. Nhưng nó có chịu nhịn bớt nuôi Hà-ro không?… Nuôi Hà-ro phải trông vào Kông-hoa là chính, Kông-hoa có cho thì các làng khác mới chịu cho. Kông-hoa phải tính sao?…
Câu nói của Núp văng vẳng mãi trong nhà:
- Đoàn kết được thì mình càng ngày càng nhiều. Pháp càng ngày càng ít. Không đoàn kết được thì Pháp càng ngày càng nhiều, mình càng ngày càng ít. Đánh nhau, ai nhiều người, bên đó hơn…
Đến khuya, Tun cầm một cái que, bẻ làm đôi làm tư, ném tất cả vào lửa, nói:
- Chỉ còn một cách: Kông-hoa phải làm rẫy gấp đôi, mỗi nhà trước kia làm một rẫy bây giờ làm hai rẫy.
Bàn đi, bàn lại, không còn cách nào khác nữa. Đến tảng sáng, bốn đồng chí đồng ý. Ghíp dập tắt lửa, nói thêm:
- Lũ làng mỗi người làm hai rẫy. Người đồng chí phải làm được ba rẫy.
Bok Pa nhìn con, hai cha con đều là đồng chí. Trong những buổi họp Đảng, Tun vẫn gọi bok bằng cha. Nhưng bok Pa thì lại gọi Tun là đồng chí. Bok nói:
- Nhà tôi chỉ có hai người. Tôi cũng làm ba rẫy, đồng chí Tun làm ba rẫy.
Xíp nói:
- Nhưng còn anh Núp làm cán bộ xã, đi nhiều. Nhà anh Núp làm hai rẫy thôi…
Núp cười lắc đầu:
- Không, Ghíp, Tun, Xíp, bok Pa ở làng làm việc cũng nhiều, nhiều hơn tôi nữa. Tôi cũng phải làm ba rẫy đấy… Nhưng tôi nói thế này: người đồng chí phải làm nhiều cho lũ làng làm theo, như vậy đúng. Nhưng cũng phải biết nói nhiều, nói đúng cho lũ làng nghe được, hiểu được thì việc mới tốt. Tôi nói chung tất cả làng, rồi từng đồng chí phải đi nói riêng từng bếp nữa. Tôi còn phải đi nói Ba-lang nữa…
Khi bốn đồng chí ra về, trời đã sáng hẳn, lũ làng đã tới họp đông đủ. Núp sẽ nói chuyện nuôi lũ Hà-ro. Lần này anh tin chắc hơn những lần trước. Làng có đồng chí, việc gì Đảng cần, nhất định đều làm được.
Núp ra đứng trước cây xoài đầu làng. Cây xoài này, bok Klăng, cha bok Pa trồng từ khi Núp còn đứng tới lưng mẹ, lanh tanh chạy theo mẹ đi làm rẫy. Bây giờ cành lá nó đã xum xuê, toả rộng mát cả sân làng. Vỏ nó có chỗ đã mục rã hết. Nhưng gốc nó còn vững. Nó đứng đó như một ông già làng. Mười bốn năm qua, nó đã thấy bao nhiêu vui, buồn, lo, khổ của chín mươi người Kông-hoa. Núp đứng dưới bóng cây xoài, bụng anh càng thương làng, thương lũ người đi theo anh từ mười bốn năm nay, khổ biết bao nhiêu, có khi tưởng như chút nữa thì phải chịu về đi xâu cho Pháp mất. Nhưng không, dầu có khổ hơn nữa cũng không lay chuyển nổi đâu. Núp biết rõ con người mình như vậy, lũ làng Kông-hoa cũng như vậy. Anh bắt đầu nói. Hôm nay Núp phải nói một chuyện khó hơn nhiều, gấp bốn, năm lần những chuyện khó lâu nay: lần này Kông-hoa phải nhịn cơm, nhịn muối nuôi bốn trăm người Hà-ro trước đây đã dẫn Pháp đi cướp lúa, đốt làng Kông-hoa…
༺༒༻
Tất cả đều im lặng. Không ai ngờ tới chuyện đó. Nuôi Hà-ro? Không, không được! Nhất định không được!
Nhưng Núp vẫn nói:
- Bok Ôi nói đúng. Tôi không muốn cho người Hà-ro ở chung làng Kông-hoa đâu. Ở chung chưa được. Còn phải nói nhiều nữa cái lỗ tai nó mới biết nghe mình, thôi nghe Pháp. Lũ làng Hà-ro bây giờ phải để ở riêng. Nhưng không để nó ở gần đồn Hà-tam được. Phải đem về gần đây, cho nó ăn, bày cho nó làm chông, đánh Pháp…
Bok Ôi ngồi phịch xuống đất. Bok không muốn nghe nữa. Bok lắc đầu, nói lớn:
- Tôi nói lũ làng biết: anh Núp thương người theo Pháp, muốn đem lúa, gạo, củ mì[27] cho nó thì cho. Bụng tôi không biết thương người theo Pháp, tôi không cho. Chân nó khi trước biết dẫn Pháp đi lấy lúa ở đây, bây giờ sao không dẫn Pháp tới lấy nữa mà ăn? Nó không tới lấy được, anh lại muốn đem cho nó à? Hai con mắt tôi anh nhìn đây này, anh thử để ngón tay vào, lút hết ngón tay, thức mấy tháng đi tưới rẫy đấy. Tôi không cho người theo Pháp ăn được. Lũ làng có cho thì cho. Tôi đi làng khác…
Im lặng. Núp biết không phải bok Ôi nói sai hết. Mấy tháng nay, bok Ôi đi tưới rẫy nhiều nhất trong lũ già làng, rẫy của bok cứu được nhiều lúa nhất. Bok nói đúng một phần. Nhưng người Đảng phải nói đúng hơn nữa. Phải biết thấy xa hơn nữa và nói cho lũ làng ai cũng biết. Núp nói:
- Trong núi có nhiều con đường. Có con đường tốt đi lên núi cao, có con đường xấu đi xuống hố sâu. Núi cao có mặt trời, hố sâu có con rắn độc. Người Hà-ro lâu nay chưa biết do lỗ tai chỉ nghe theo Pháp, chưa được nghe theo Bok Hồ. Người Hà-ro đi con đường xấu rồi. Bây giờ nó đã thấy con rắn, nó muốn đi lên con đường tốt, mình có cho nó đi không?
Bok Pa vân vê sợi râu trên hột nốt ruồi ở cằm:
- Mình cầm tay dẫn nó đi.
Núp nói nữa:
- Mình đi một người, leo dốc mệt nhiều. Đi hai người leo dốc mệt vừa. Đi ba người leo dốc mệt ít. Đánh Pháp cũng vậy. Một làng Kông-hoa đánh không nổi phải chạy lên núi cao. Có thêm làng Đê-ta, Ba-lang, Ta-lung, Kông-ma, đánh khá hơn nhiều. Pháp đi lùng bảy ngày cũng không lấy được lúa của mình. Bây giờ… bây giờ có bốn trăm người Hà-ro nữa…
Mắt Núp sáng lên, anh cười:
- … Có bốn trăm người Hà-ro nữa, mai mốt thắng thằng Pháp nhiều nữa, thằng Pháp rồi chỉ còn một mình nó thôi, lũ làng ạ…
Hóp thở dài:
- Nhưng nó không nghe mình đâu. Bây giờ nó đói, cái miệng nó nói theo. Mai mốt no, nó về với Pháp.
Bà Hu nói:
- Mình làm cho nó ăn, không ai chịu đâu!
Núp nói:
- Tôi chắc nói lâu, nói lâu nữa, nó cũng nghe. Pháp nói xấu, mà nói lâu quá nó cũng phải nghe theo. Mình nói tốt, chắc nó mau nghe hơn… Còn làm rẫy khổ, lũ làng Kông-hoa mình lâu nay khổ thật. Khổ là vì mình còn ít quá, còn yếu quá. Bây giờ mình ráng làm một năm nuôi Hà-ro, sang năm Hà-ro khá rồi, người mình đông thêm được bốn trăm người, chắc có khổ cũng ít hơn bây giờ. Mình nuôi Hà-ro là nuôi mình đấy…
Bok Ôi vẫn ngồi giữa sân, rầm rì:
- Núp có, Núp cho. Tôi sợ đói, tôi không cho.
Rồi mọi người kéo ra về, đi ra rẫy, không ai nói gì nữa.
Núp lại đi Ba-lang. Đến khuya mới về.
Chị Liêu đã ngủ, giật mình thức giấc nghe tiếng chân người cọt kẹt đi xuống thang, ra coi, thấy chồng Liêu hỏi:
- Anh đi đâu đó? Mang cái gì thế?
- Mang gạo cho người Hà-ro đây.
- Sao anh không nói cho Liêu biết?
Núp không biết trả lời sao. Anh gõ một ngón tay lên thang, đứng yên một lát, rồi nói nhỏ:
- Liêu… nhà mình có ba nhà lúa. Tôi định cho lũ Hà-ro hai nhà lúa. Còn một nhà[28] có đủ cho mẹ, cho Hờ Ru ăn không?
Liêu đứng vịn tay vào cầu thang:
- Năm nay em làm ba rẫy, anh làm thêm một rẫy nữa. Em không nấu rượu, bớt cúng. Em ăn củ mài, chắc cũng đủ, anh Núp ạ…
Núp cõng gạo, cù