Chương 11
Mọi cuộc chiến nhìn từ phía trước đều là chính nghĩa.
Đó là buổi chiều ngun ngút gió, những cánh diều bay lượn trên không trung, bầy sẻ nâu ríu rít sà xuống cánh đồng vừa gặt xong. Khung cảnh thanh bình ấy, nhìn bề ngoài là vụ lừa đảo ngoạn mục, hoặc trò đùa của thiên nhiên giữa những ngày tang tóc của cuộc chiến tranh. Mọi cuộc chiến nhìn từ phía trước đều là chính nghĩa. Trần Đình có may mắn được nhìn cuộc chiến từ phía trước. Anh đã tham gia cuộc chiến với tất cả lý tưởng và sức lực của thời trai trẻ, hoặc ít ra anh đã biện hộ như vậy. Trong buổi chiều thanh bình giả tạo ấy, Trần Đình từ rừng trở lại cánh đồng sau đợt càn quét, khủng bố ác liệt của đối phương. Anh là người chỉ huy của đội quân du kích giữa vùng chiến sự ác liệt nhất của miền Đông. Sự tỉnh táo và gan dạ của anh khiến cho đối phương kinh hồn bạt vía. Quân đội Cộng hòa đã từng đặt mua cái đầu của anh với số tiền tương đương ba ký lô vàng, nhiều lần bị lọt vào ổ phục kích nhưng anh đều thoát nạn. Khẩu súng ngắn Trần Đình đeo bên hông là món quà tặng của cấp trên, món quà anh nhận được sau trận đánh “đơn thương, độc mã”, một mình, một tiểu liên xông vào phá hoại cuộc bầu cử của đối phương. Đó là trận đánh tạo ra nhiều huyền thoại xung quanh cuộc đời “vị anh hùng” xuất thân từ đứa trẻ chăn trâu như Trần Đình. Nhân dân đồn thổi rằng khi đối phương chào cờ và mời các quan chức bỏ lá phiếu đầu tiên để bầu Tổng thống, anh hùng Trần Đình bất ngờ hiện ra như vị thần, tay tung lựu đạn tay kẹp tiểu liên xả đạn vào đám quan chức, phá vỡ cuộc bầu cử, giết chết hơn mười người lính dân vệ và biến đi như có phép thuật. Thật ra trận đánh ấy, anh nhờ vào một người phụ nữ. Sau trận đánh, cấp trên hết lời khen thưởng và gởi tặng Trần Đình khẩu súng với sắc lệnh: “Mỗi viên đạn một mạng thù”. Nhìn món quà anh rất cảm động. Ở chiến trường ác liệt này, với vai trò của người chỉ huy du kích như anh, thì “mỗi viên đạn một mạng thủ”, làm sao thắng được đối phương có hỏa lực mạnh gấp trăm lần. Anh chỉ mới sử dụng có một viên trong khẩu súng ấy, một phát súng lệnh đúng lúc, tiêu diệt gọn trung đội biệt kích của địch. Nhớ chuyện ấy, anh mỉm cười.
- Anh cười gì thế? - Cậu lính trẻ đi cạnh bên hỏi.
Trần Đình nói tránh:
- Ta cười vì nghĩ đến buổi gặp gỡ với bà ấy, ta rất vui. Đời ta có thể thiếu mọi thứ nhưng không thế thiếu đàn bà.
Cậu lính trẻ cười lớn.
- Mày cười gì?
- Em cười vì anh cái gì cũng giỏi, đánh giặc cũng giỏi mà khoản đàn bà cũng giỏi.
- Mày thấy mấy con gà trống thiến có làm nên trò trống gì không? Cấp trên chỉ thị cái gì cũng đúng, riêng việc cấm cái khoản ấy là không đúng.
Không để ý lời cấp trên, anh lính nhìn về phía cánh đồng, sao im lặng quá vậy? Anh chợt nhớ câu hát trong bài ca mà anh nghe lén từ đài phát thanh của đối phương: “Đời người sao im vắng như đồng lúa gặt xong”.
Mấy bài hát của Trịnh Công Sơn, ông nhạc sĩ phản đối chiến tranh này anh rất mê, nhưng cấp trên cấm, anh không hiểu vì sao lại cấm những bài hát hay như thế.
Anh sợ hãi chiến tranh, anh đã thấy những đứa trẻ bị tung lên trời thịt xương lả tả, bàn tay bé xíu co giật liên hồi như cố níu cuộc sống. Anh tưởng tượng đứa trẻ tan ra như quả pháo, khiếp! Chiến tranh chẳng có gì đáng ca ngợi. Anh đã nhiều lần chứng kiến những người lính đối phương, cũng khóc thét lên khi bị thương, hoặc trước khi bị giết. Nhiều lần phát biểu linh tinh, anh bị Trần Đình rút súng ngắn đòi bắn, để loại ra khỏi cuộc chiến tên trí thức nửa mùa phá hoại tinh thần chiến đấu. Trần Đình dọa vậy thôi chứ chưa bao giờ bắn lính. Chúng nó sai thì sửa, đời người thằng nào chả sai, bắn hết lấy lính đâu mà đánh giặc.
Tạch tạch tạch...
Bất ngờ tàu rọ xuất hiện phía bờ sông, Trần Đình và cậu lính lao vào bụi tre. Trần Đình đặt tay lên khẩu súng và quả lựu đạn đeo bên hông. Cậu lính ghếch mũi súng lên bờ ruộng. Loại tàu rọ thường xuất hiện bất ngờ giữa đồng không để quăng lưới bắt Vi Xi - là tên gọi của lính ngoại quốc gọi đội quân giữ nước. Chiếc tàu rọ lượn vòng và xả đạn vào bụi tre. Nhanh như chớp, Trần Đình lia loạt AK, chiếc tàu bay chao đảo hai vòng rồi cắm xuống ruộng bốc cháy.
Một loạt ca-nông rót dồn dập cày nát vùng đất xung quanh khu vực chiếc tàu rọ vừa bị bắn. May là Trần Đình và cậu lính trẻ đã kịp vọt xuống bờ mương chạy ngược về phía thác Đá Bàn.
Vài phút sau, một chiếc máy bay trực thăng nhỏ rảo vài vòng trên làng Vĩnh Thanh, ngôi làng nằm sát bìa rừng chiến khu. Truyền đơn lả tả như bầy bướm trắng năm hạn hán. Mặt sau tờ truyền đơn vẽ ngôi nhà bốc cháy với dòng chữ hăm dọa “Nếu các bạn che giấu cho VC, ngôi làng của các bạn sẽ như thế này.” Mặt kia của tờ truyền đơn kêu gọi mọi người nhanh chóng rời khỏi làng vì quân đội đồng minh sẽ ném bom hủy diệt nơi ẩn náu của VC trong làng. Dân làng nhốn nháo gồng gánh. Trần Đình biết được nội dung của tờ truyền đơn, anh lẩm bẩm:
- Mẹ! Bọn mũi lỏ này ngu như heo, thả bom mà báo trước, còn lâu mới diệt được Vi Xi.
Nửa giờ sau khi truyền đơn thả xuống, máy bay gầm rú trên bầu trời Vĩnh Thanh và trút xuống những quả bom hung hãn, cả làng đỏ rực, dân làng dồn ra đồng nhìn về những ngôi nhà của mình và khóc!
- Đù mẹ!
Trần Đình nhỏ bãi nước bọt và chửi đổng:
- Bọn chó này làm mất toi một buổi băng rừng của tao. Thế nào tao cũng lấy mạng vài thằng phi công.
Trần Đình chửi thề không chỉ vì hậm hực với chuyện hỏng cuộc hẹn, mà thực sự tức giận vì cuộc chiến tranh, tức giận thực sự với những kẻ thù xâm lược.
Vào buổi chiều bầu trời đỏ rực như máu của nhiều năm sau, linh hồn Trần Đình bay về vùng đất đầy chiến tích này để tự vấn: mình đã thực sự tức giận bọn ngoại xâm hay mình chiến đấu vì cá nhân? - Đó là chuyện của nhiều năm sau.
Trần Đình rê mũi súng theo chiếc máy bay FAC đang quần đảo trên bầu trời của làng Vĩnh Thanh, ngôi làng tan hoang sau đợt bom. Anh lính trẻ run rẩy:
- Anh nổ thằng này, em sợ chúng rải bom nữa, cả làng sẽ chẳng còn gì?
- Mẹ kiếp! Mày câm đi! Chẳng có lập trường tư tưởng gì cả.
Mũi súng rê theo chiếc máy bay và khạc ra lăn đạn, chiếc máy bay chao vài vòng, phựt lửa và chúi xuống giữa cánh đồng gần chỗ những người dân đang tụ tập nhìn về ngôi làng của mình, một ngọn lửa phụt lên rồi những tiếng la khóc của dân làng.
Trần Đình vọt chạy về phía cánh rừng, vài phút sau bầu trời gầm rú, những con người yếu đuối rách rưới, bị coi là Vi Xi, đau đớn nhúi nhụi giữa đám ruộng máu, thịt xương của họ tan ra dưới trận mưa bom, những mẩu thịt tung lên trời, bờ tre vắt lòng thòng những đoạn ruột, những cái đầu be bét mắt mở trừng, cuống họng đứt toạc phì phò bọt khí. Trần Đình lầm lì đi vào rừng, anh lính trẻ vừa đi vừa khóc, anh nôn thốc, nôn tháo. Đây là vụ thảm sát kinh hoàng lần thứ hai mà anh chứng kiến. Lần trước bọn lính Đại Hàn bắn những người dân cù lao cũng man rợ không kém vụ thả bom lần này, chúng lùa dân ra ruộng, bắt ngồi xuống và xả đại liên, không một ai bỏ chạy được. Lần ấy, anh và Trần Đình nhìn xuống từ đỉnh núi Hắc Long, anh chứng kiến tất cả sự man rợ của vụ thảm sát. Căm Trần Đình bạnh ra đầy vẻ căm thù, cho dù chính Trần Đình là người gài mìn giết chết năm người lính Đại Hàn. Lần ấy, anh biện hộ cho người chỉ huy của mình: Trần Đình không hình dung được kẻ thù man rợ như vậy!
Những vụ thảm sát ám ảnh anh nhiều năm sau, ám ảnh trong những bài thơ buồn vật vã của anh bên bờ sông mà anh lang thang đi tìm chuyện cổ tích.
Những thịt xương tan tành như lịch sử
Những con người tàn bạo như chiến tranh
Những nấm mồ xanh màu địa ngục
Những cuộc đời khô khốc còng queo!