← Quay lại trang sách

Chương 21

Trở về một bữa hôm nay Nhớ ngàn xưa đã về đây một lần.

Tôi trở về với thế giới vật chất sau ngày chấm dứt chiến tranh, ông già tiên tri đã xua tôi ra khỏi thế giới song song. Ông không đuổi, tôi cũng ra đi. Tôi chưa thể rời bỏ thế giới vật chất vì ở đó em đang chờ tôi. Tình yêu tồn tại kỳ lạ xuyên suốt các chiều của không gian và thời gian, đã liên kết hai thế giới này lại với nhau. Ông già nói tôi có tố chất của nhà thơ, vì tôi đã sinh ra ở thế giới vật chất mà lại có thể đặt chân đến thế giới song song. Điều đó hiếm hoi và hầu hết xảy ra với các nhà thơ.

Tôi hỏi:

- Sao lạ vậy? Tôi làm sao có thể là nhà thơ? Tôi chưa bao giờ làm thơ. Tôi làm ruộng, bắt cá, chặt củi đủ hết, nhưng chưa bao giờ làm thơ. Tôi chỉ có đọc tập thơ của ông cố tôi, cái tập thơ mà vì nó ông cố tôi bị Pháp chém ngang lưng. Tôi làm sao có thể là nhà thơ?

Tôi lặp lại câu hỏi ấy, ông già lắc đầu nói với tôi:

- Nhà thơ không có nghĩa là làm ra thơ, có những người làm ra thơ nhưng chưa bao giờ là nhà thơ. Ở thế giới vật chất, những người đứng hai chân trên mặt đất, nhưng tâm hồn anh ta bước vào thế giới của chúng tôi, anh ta là sứ giả của tâm linh, sứ giả của tình yêu. Có người bước hẳn vào thế giới song song mà không cần chết đi như anh chẳng hạn, có người từ thế giới song song bước thẳng vào thế giới vật chất mà không cần tái sinh như nhà thơ Bùi Giáng chẳng hạn.

- Bùi Giáng là ai?

- Là nhà thơ mà ở thế giới vật chất gọi là nhà thơ điên, nếu có cơ duyên anh sẽ gặp ông ấy. Bùi Giáng biết rõ mình không phải là người của thế giới vật chất.

Ông già ngưng nói và ngân nga:

Trở về một bữa hôm nay

Nhớ ngàn xưa đã về đây một lần.

Khi trở lại thế giới của chúng ta, tôi mới biết đó là hai câu thơ trong bài Trở lại trần gian của thi sĩ Bùi Giáng, một sinh thể kỳ lạ và thậm chí là kỳ quặc ở trong thế giới mà mỗi con người đều trang bị cho mình bộ mặt phẳng phiu. Tôi tìm Bùi Giáng và đứng nhìn ông từ xa, vì nếu đến gần có thể ông sẽ nhận ra tôi - một con người đã từng lạc đến thế giới của ông.

Tôi bắt đầu hành trình làm người trở lại, sau khi tôi đã lớn lên từ cuộc chiến, từ ruộng đồng. Hành trình lần này nhọc nhằn hơn, vì tôi không thể trở lại quê hương, ở đó tôi đã bị từ chối. Dòng sông, bờ tre, núi đồi, hoa sim, hoa mua đã không nhận ra tôi. Tôi biết, chị tôi còn ở quê. Mỗi chiều tắt nắng, chị lại ra gò thắp hương cho cha mẹ tôi. Ngôi mộ của các đấng sinh thành, ẩm nhang khói bởi đôi bàn tay gầy guộc của chị. Chị không biết tôi đã từng gặp các vị ấy ở thế giới song song.

Linh Chi yêu dấu!

Tôi trở lại thế giới vật chất và bước vào hành trình làm người đầy chông gai. Bao nhiêu cạm bẫy, bao nhiêu lọc lừa, tôi cố quên nhiều thứ, để vất vả tồn tại. Nhưng tôi không quên được thời thơ ấu gian khổ và khốc liệt, tôi vẫn nhớ quê, nhớ em và nhớ chị. Có những lúc ngồi nhìn nắng vàng phủ xuống cù lao, tôi da diết nhớ cái nắng miền Trung. Em biết không tôi đã từng viết những câu thơ:

Anh ngồi nhớ nắng miền Trung

Nhớ con sông nhỏ lạ lùng

Nhớ em

Nắng trưa vàng gót chân mềm

Nắng vương mắt mẹ bên thềm đợi cha

Cánh đồng xa

Cánh đồng xa

Chơi vơi cò trắng điểm hoa lên trời...

Những câu thơ chưa hẳn đã hay, nhưng buồn em ạ! Em nhớ không!? Ngày xưa hai đứa ngồi dưới bụi tre, để chờ chị tôi đi chợ về, cánh đồng bỏng rộp như bánh tráng nướng. Những người đàn bà khô khốc, với đôi quang gánh nặng trĩu nắng vàng, nhễ nhại mồ hôi, uể oải bước đi giữa trưa hè. Hàng dứa dại, bụi tre gai, những đồi sim tím ngát, buồn mênh mang, dường như vẫn lặng lẽ trụ lại giữa dòng chảy của thời gian. Chị tôi cũng vậy, chị vẫn khắc khoải tồn tại trước khốc liệt của đời sống.

Tôi không thể trở về quê hương, khi tôi chưa gặp được em, đó là sứ mệnh buộc tôi trở lại trần gian, một thế giới đôi lúc xa lạ đối với tôi, em có biết không?

Tôi vất vả tồn tại, vì miếng cơm manh áo hàng ngày. Tôi khao khát rằng, tôi không cần ăn, tôi không cần mặc, nhưng không thể được. Tôi không bắt chước Bùi Giáng được! Vì tôi mang nặng thể xác của thế giới vật chất nặng nề.

Ở cái thế giới này, ai gặp tôi cũng hỏi: “Lúc này làm ăn có khá không?” Tôi buồn kinh khủng em ạ! Sao không ai hỏi tôi: “Có tồn tại tình yêu đích thực nào trong cuộc đời này không?” Sao không ai hỏi: “Con người có cống hiến gì để thế giới vật chất này bớt hận thù không?"

Tôi ngơ ngác, vật vạ. Tôi đi học, tôi làm bốc vác, tôi đi dạy. Đó là những ngày tôi cần tồn tại để đợi em lớn và đi tìm em; tiền kiếp của tôi. Ông già tiên tri nói cho tôi biết, em ở cù lao Dao, vùng đất tồn tại theo chiều thẳng đứng nếu nhìn từ thế giới song song, tôi mang khái niệm mơ hồ trở về tìm em. Trong thời gian đợi em lớn sau cuộc tái sinh, tôi phải sống cái đã, cuộc sống cực nhọc em hiểu không?

Tôi đã trải qua những buổi chiều buồn dưới chân núi Kung Pô trên thượng nguồn của dòng Thanh Long, nơi tôi đi lạc vào lãnh thổ của thần linh và bị đẩy trở lại thế giới vật chất đây hệ lụy này. Tôi trở về đó sau khi tốt nghiệp sư phạm, không hiểu sao tôi lại về đó em ạ. Có lẽ định mệnh, thực ra khi tốt nghiệp tôi đã xung phong đi bất cứ nơi đâu, vì tôi chẳng có nơi để lựa chọn và ngẫu nhiên tôi được điều về ngôi trường nghèo nàn dưới chân đỉnh Kung Pô.

Tôi vẫn còn nhớ như in, dù thời gian trôi qua khá lâu, nhớ ngày còn đi dạy học dưới chân núi, cứ mỗi chiều sau giờ tan học xuất hiện một ông già, chắp tay sau lưng dạo quanh sân trường, bộ râu bạc bay phất phơ trong nắng chiều vàng quạch, rải thành những vệt dài từ núi đến đồng ruộng băng qua đường ray và đổ thành vệt dài xuống sân trường. Chao ôi, sân trường lúc ấy mới buồn làm sao! Sự hiu quạnh trống trải choán hết các lớp học thênh thang. Trên đường, những nông dân lầm lũi bước đi chậm chạp sau lưng bầy trâu lấm lem bùn đất. Cứ như vậy, đôi mắt buồn mênh mang, ông già thong dong dạo quanh sân trường. Cho đến lúc những mảng nắng vàng thu hẹp lại, ông đi dần về phía ngôi nhà lá sau trường và đứng lại nhìn ngôi trường trước khi mặt trời khuất núi. Thời gian như dừng lại. Ngày ấy, tôi con quá trẻ để hiểu được việc làm kỳ quặc của người thầy giáo già. Ông là một thầy giáo, hay nói chính xác hơn ông đã từng là một thầy giáo, nguyên trước khi tôi được điều về dạy học ở vùng bán sơn địa này thì ngôi trường này vẫn chưa hình thành, người thầy giáo già đã tự mình làm một ngôi trường và tự nguyện làm người chèo đò chở chữ đến cho học sinh. Về sau, khi nhà nước xây trường ông được cử làm hiệu trưởng cho đến lúc về hưu, nhưng không muốn xa trường ông xin ở lại trường và làm bảo vệ. Hình ảnh kỳ lạ của ông giáo già cứ ám ảnh tôi mãi suốt thời gian dài và nó chỉ bị mờ dần khi tôi phải đối chọi với cuộc sống cơ cực và bụi bặm bươn chải trên đường đời.

Những tháng ngày đó, tôi, bạn bè tôi và đất nước tôi cơ cực bần hàn. Chúng tôi ăn những bữa cơm hẩm từ hạt gạo mục nát, độn sắn lát và bo bo, với nồi canh chuối xanh chát ngắt. Tôi lên lớp rao giảng những giáo điều trái với thực tế cuộc sống. Đám học trò ngây thơ ngồi trên mấy chiếc bàn tre mục nát để nghe tôi nói, nuốt từng lời của tôi, còn tôi nuốt sự cay đắng cùng với bụi phấn mịt mù. Em biết không, chúng tôi đã hằm hè nhau vì vài lạng thịt tiêu chuẩn mà bà giáo viên đời sống chia không đồng đều. Tôi cũng hùng hục tranh giành miếng ăn, để rồi đêm về nằm khóc trong tủi nhục. Nhiều lần tôi đã muốn hủy bỏ thân xác cặn bã này để trở về với thế giới song song, nếu không có em và tình yêu của chúng ta từ trong tiền kiếp.

Sau giờ dạy học, tôi giết thời gian bằng rượu và boléro, những bài hát buồn như thân phận con người vậy em ạ. Tôi đã bị khiển trách, bị kiểm điểm vì đã hát cho học trò nghe những câu hát ủy mị ấy. Không uống rượu và không boléro thì tôi làm thơ và tôi đi tìm em. Em đã lớn, tôi cũng đã đến cù lao Dao và gặp em.